Chương 2 Sự Phát Triển Mạnh Mẽ Của Tcđt.
Người Áo là những người đầu tiên hiểu rằng đánh chặn điện báo vô tuyến của đối phương, là một phương cách tuyệt vời để thu thập thông tin tình báo chính trị và quân sự, việc thu tin tình báo trước đây chỉ đạt được bằng hoạt động gián điệp rất tốn kém và nguy hiểm. Thật vậy, năm 1908, khi phát sinh cuộc khủng hoảng chính trị tại Italy, gây ra bởi sự sáp nhập vào Đế quốc Áo-Hung các vùng lãnh thổ Bosnia và Herzegovina, người Áo đã đánh chặn và giải mã điện tín vô tuyến của người Ý, và nhanh chóng sử dụng các thông tin tình báo thu được nhờ phương tiện điện tử để hình thành chính sách đối ngoại của mình.
Năm 1911, trong thời gian cuộc chiến tranh Italia – Thổ Nhĩ Kỳ, người Áo một lần nữa lại chứng tỏ khả năng của các cơ quan tình báo của mình. Vẫn luôn quan tâm đến các vấn đề chính trị và quân sự của người Ý, người Áo chặn bắt tất cả các điện tín phát đi giữa Rome và Tripoli về việc người Ý đổ bộ ở đâu, chúng đảm bảo thông tin cho họ về sự di chuyển hàng ngày của quân đội Ý trong quá trình chiến đấu.
Chắc chắn, lần đầu tiên trong lịch sử, việc sử dụng phương tiện kỹ thuật (radio) thay vì điệp viên truyền thống và các chuyến trinh sát tuần tiễu trên lưng ngựa, cho phép theo dõi chặt chẽ tiến trình trận chiến đang diễn ra cách hàng trăm kilômét.
Một đất nước khác, tương tự như Áo, luôn luôn trau dồi nghệ thuật hoạt động gián điệp trong chiến tranh là Pháp. Trong những năm trước Chiến tranh Thế giới thứ Nhất, tình báo Pháp đã nắm vững nghệ thuật chặn bắt và ghi lại các điện tín vô tuyến mà các đại sứ quán nước ngoài tại Paris truyền về cho chính phủ họ và tất cả các thông điệp ngoại giao đến từ nước ngoài.
Một ví dụ nổi bật về sự do thám điện tử của người Pháp là việc chặn bắt một bức điện dài của Bộ Ngoại giao Đức gửi đến Đại sứ Đức tại Paris, trong đó có chứa một thông điệp tuyên bố chiến tranh, dự kiến được chuyển cho Chính phủ Pháp. Người Pháp sau khi phá được khóa mã, vì đó là bức điện mã hóa, không chỉ chặn điện được gửi đến, mà còn bóp méo nội dung của nó đến mức viên Đại sứ Đức thoạt đầu không hiểu điện nói gì, còn người Pháp trong khi đó có được thời gian quý báu để chuẩn bị công tác động viên quân đội.
o O o
Trong cuộc Chiến tranh Thế giới thứ Nhất, việc chặn bắt các bức điện ngoại giao đạt đến quy mô không thể tin nổi. Cơ quan tình báo Anh đã giải được khóa mã tuyệt mật của người Đức, và trong vòng ba năm họ đã có được cơ hội đánh chặn và giải mã các điện tín mà Bộ Ngoại giao Đức gửi đến các đại sứ quán nước ngoài của họ. Người Anh giữ bí mật rất thành công, họ chỉ khẽ bóng gió về điều đó với đồng minh Mỹ của mình, trong khi người Đức, không mảy may nghi ngờ sự rò rỉ thông tin từ cơ quan tình báo của mình, vẫn cố gắng thúc đẩy Mexico tham gia chiến tranh bằng lời hứa giúp nước này sát nhập các bang Texas, Arizona và New Mexico của Hoa Kỳ vào lãnh thổ của họ.
Tuy nhiên từ quan điểm điện tử mà xét, Chiến tranh Thế giới thứ Nhất được nhớ chủ yếu là do một số sự kiện quan trọng có thể được coi như sự khởi đầu thực sự của Electronic Warfare.
o O o
Năm 1914, ngay sau khi Anh tuyên chiến với Đức ở Địa Trung Hải, có một sự kiện đáng chú ý. Tàu tuần dương Anh “Gloucester” bí mật theo vết các tàu tuần dương Đức “Goeben” và “Breslau”, con tàu được lệnh phải báo cáo qua radio về toàn bộ sự di chuyển của các tàu chiến Đức về Bộ Hải quân ở London. Sau đó, Bộ Hải quân sẽ ra lệnh cho hạm đội Địa Trung Hải của mình đánh chặn và tiêu diệt hai tàu tuần dương Đức: nhưng thật không may, người Anh không biết các tuần dương hạm sẽ đi theo tuyến đường biển nào, vì chúng có thể tiến vào Ý, khi đó đang còn trung lập, hoặc đi đến các cảng của nước thân thiện Thổ Nhĩ Kỳ. Các điện tín phát đi giữa “Gloucester” và Bộ Hải quân Anh bị các tàu tuần dương Đức chặn bắt, họ chọn thời điểm tốt nhất để quyết định cắt đuôi màn đeo bám của người Anh, thiết lập lại liên lạc vô tuyến của mình. Họ làm điều này bằng cách gây nhiễu rất mạnh trên tần số hoạt động của người Anh. Người Anh thay đổi tần số của các đài phát nhiều lần, nhưng không kết quả. Tàu Đức đột ngột đổi hướng và đi tốc độ cao vào vùng lãnh hải nước Thổ Nhĩ Kỳ thân thiện thuộc eo biển Dardanelles.
o O o
Trường hợp gây nhiễu phương tiện thông tin liên lạc vô tuyến trên có thể xem như ứng dụng thực tế đầu tiên của tác chiến điện tử, bởi vì lần đầu tiên trong lịch sử, sóng điện từ không được sử dụng để liên lạc, mà để tạo nhiễu liên lạc vô tuyến của kẻ thù.
EW cũng được sử dụng, mặc dù ít hơn trông thấy, trên các mặt trận châu Âu. Một vài năm trước khi bùng nổ Thế chiến II, Áo và Pháp đã thành lập các phân đội đặc biệt chuyên chặn thông tin vô tuyến quân sự. Đức không tổ chức cơ quan như vậy trong vòng vài tháng đầu tiên của cuộc chiến tranh, điều này khá kỳ lạ, vì vậy Áo cung cấp các thông tin đắt giá cho tình báo Đức rút từ các điện tín liên lạc vô tuyến bị chặn bắt của kẻ thù. Để công bằng cần lưu ý rằng nhiều quốc gia khác, cũng như Đức, rất chậm hiểu tầm quan trọng của việc chặn sóng radio của đối phương.
Người Nga, mặc dù đã có kinh nghiệm của mình năm 1904, vẫn đặc biệt thiếu hiểu biết và ngây thơ khi sử dụng radio. Vào lúc bắt đầu chiến tranh, họ dường như không hiểu rằng sóng radio bất cứ ai cũng có thể nhận được khi người ta lắng nghe trên cùng một tần số. Các thông điệp vô tuyến bị người Đức đánh chặn, được truyền đi bằng ngôn ngữ Nga thông thường mà không mã hóa, đã đóng góp to lớn cho chiến thắng trước người Nga của tướng Hindenburg trong trận Tannenberg. Sau đó, người Nga hiểu ra thông điệp của họ cần phải mã hóa khi truyền, nhưng người Áo đầy kinh nghiệm đã phá mã thành công một cách nhanh chóng và giải mã thông điệp vô tuyến của họ. Do vậy, người Đức nhận được thông tin hàng ngày về sự di chuyển của quân đội Nga trên mặt trận phía Đông cho đến tận khi cuộc cách mạng Bolshevik nổ ra năm 1917 và ký kết Hòa ước (Brest-Litov).
Người Pháp cũng đã tổ chức tốt trong lĩnh vực này, và ngay từ đầu Chiến tranh Thế giới thứ Nhất, đã đánh chặn và giải mã điện vô tuyến của Đức, mà người Đức giống như người Nga trên mặt trận phía Đông, không hiểu sao vẫn phạm phải một loạt các lỗi lầm nghiêm trọng trong việc sử dụng radio.
Đến lúc này bộ chỉ huy và ban tham mưu của các nước khác nhau đã bắt đầu hiểu và đánh giá đúng mức những ưu thế tác chiến có thể đạt được từ việc đánh chặn điện vô tuyến của đối phương và đòi hỏi hỗ trợ nhiều hơn cho lĩnh vực mới này. Vậy là đã sinh ra do thám điện tử – một hoạt động đóng vai trò ngày càng quan trọng trong chiến tranh hiện đại.
Và mặc dù chỉ mới mười lăm năm, kể từ thời điểm Guglielmo Marconi phát minh ra radio, nó đã phát triển đến một mức độ có thể được sử dụng hiệu quả trên các tàu biển, máy bay, các trạm mặt đất cố định và di động. Điều này đã được thực hiện ngay trước khi bùng nổ Thế chiến thứ Nhất, nhưng rất nhanh người ta thấy rằng các thiết bị do thám điện tử cần phải nhạy hơn so với máy thu vẫn sử dụng thông thường.
Mục đích là để chặn bắt, ghi nhận và phân tích tất cả các tin điện được gửi bởi kẻ thù, cả văn bản thông thường và mã hóa, gồm cả những tin điện khó phát hiện (thu nhận). Để giải thông điệp mã hóa người ta dùng các máy giải mã. Máy để làm việc này, cần phải chặn bắt càng nhiều càng tốt các thông điệp được mã hóa có thể của đối phương. Các phương pháp thống kê, chẳng hạn như đếm số lượng các cụm từ đặc trưng như “để trả lời” hoặc “không có gì mới”, đảm bảo các thông tin đó là vô cùng hữu ích cho việc phá mã của kẻ thù. Tuy nhiên, để thu thập các dữ liệu cần thiết, không phải lúc nào cũng cần giải mã tất cả các thông điệp được mã hóa của đối phương. Thông tin quan trọng sống còn về bố trí của đối phương và các ý định của nó gần như luôn luôn có thể thu được khi sơ bộ phân tích các điện báo vô tuyến. Để cải thiện việc thu điện vô tuyến của đối thủ, các thiết bị thu được trang bị bộ khuếch đại, trong đó áp dụng các phát minh mới đây – đèn điện tử hay là đèn khuếch đại.
Để chặn bắt điện vô tuyến của đối phương, điều đầu tiên cần làm đương nhiên là phải tìm được tần số phát sóng của đối thủ. Vì vậy, trong thời gian chiến tranh, tần số thường được thay đổi để giữ bí mật và các điện đài viên khai thác có kỹ năng nghề nghiệp, phải trải qua nhiều giờ đồng hồ, thiết lập chế độ cho máy thu của họ, công việc đòi hỏi rất nhiều kiên nhẫn mới có thể tìm thấy nó. Khi tần số được phát hiện, tất cả các tin điện phát sóng đều bị thu nhận và ghi lại cho đến khi nào kẻ thù chưa thay đổi tần số.
Trong những năm đầu của Chiến tranh Thế giới I, tần số thường được sử dụng để liên lạc vô tuyến, nằm trong khoảng 150 và 750 kHz. Biết rằng, tần số xác định nhiều khía cạnh của việc truyền phát sóng, chủ yếu liên quan đến tầm xa, mà tần số càng cao, kích thước máy phát radio càng có khả năng nhỏ đi. Nói cách khác, các tham số và kích thước của máy phát phụ thuộc tần số. Vì vậy, trong nhiều trường hợp, các tần số cao hay được sử dụng để có thể tạo ra một máy phát kích thước nhỏ để cài đặt thuận tiện, ví dụ như trên máy bay. Vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ Nhất, tần số được sử dụng nằm trong khoảng từ 750 kHz đến 1 MHz, xu hướng này tiếp tục tiến triển vì mỗi bên đều cố gắng sao cho kẻ thù khó có thể chặn bắt sóng radio của mình.
Trong cuộc Chiến tranh Thế giới thứ Nhất, hai bên cũng thử nghiệm đánh lừa điện tử dưới hình thức đơn giản nhất, chẳng hạn như tiến hành các cuộc phát sóng giả, trao đổi các điện tín hoàn toàn ngẫu nhiên và những thủ thuật tương tự khác nhằm đánh lạc hướng kẻ thù.
Thông điệp được gửi qua đường dây thông tin hữu tuyến cũng dễ bị đối phương đánh chặn. Ở tiền tuyến, giữa các phân đội, điện thoại là một phương tiện thông tin liên lạc phổ biến và do đó đã có các phương pháp nghe trộm thông tin liên lạc khéo léo được đối phương phát minh ra. Trong thời gian chiến tranh chiến hào, quân đội chủ yếu sử dụng hệ thống điện thoại một dây có tiếp địa. Vì chỉ có một dây duy nhất nằm trên lãnh thổ của mình, các chỉ huy quân sự đã bị thuyết phục rằng kẻ thù có thể nghe được cuộc trò chuyện của họ chỉ bằng cách kết nối trực tiếp vào đường dây. Họ không bận tâm vì chuyện nghe trộm nữa, do đó không có biện pháp phòng ngừa. Niềm tin này, hóa ra hoàn toàn vô căn cứ và người đầu tiên biết về điều đó là quân đoàn viễn chinh Anh tại Pháp, vào năm 1915 họ bắt đầu nhận ra người Đức đã dự đoán thành công và ngăn chặn các chiến dịch của mình với sự đều đặn đáng ghét. Có vẻ như người Đức đã nhận được bản sao các mệnh lệnh về các cuộc tấn công theo kế hoạch của quân đội Anh!
Trên thực tế, người Đức đã chế tạo một thiết bị, mà thông qua mạng lưới các dây đồng hoặc thanh kim loại cắm ngầm càng gần càng tốt chiến tuyến của kẻ thù, nó có thể thu nhận được ngay cả các dòng điện yếu nhất sinh ra bởi hệ tiếp đất thuộc hệ thống điện thoại của quân Anh. Dòng rò và dòng tiếp địa được thu nhận và khuếch đại bằng cách sử dụng bộ khuếch đại rất nhạy phát minh ra gần đây. Như vậy, người Đức có thể lợi dụng việc đối phương sử dụng bừa bãi điện thoại, chặn tin điện của họ qua hệ tiếp đất.
o O o
Một khi hệ thống độc đáo này bị phát hiện, người Anh lập tức đưa ra phương thuốc giải độc – một thiết bị có thể phong tỏa sự lan truyền của âm thanh qua đất trong một bán kính nhất định kể từ nguồn phát. Thiết bị này không chỉ chấm dứt việc chặn bắt các cuộc trao đổi điện thoại của đối thủ, mà còn dẫn đến sự phát triển một hệ thống mới để đánh chặn các cuộc điện đàm qua môi trường đất. Hệ thống mới, được sử dụng trong năm tiếp theo, có một số lượng lớn các đèn điện tử và các thiết bị kỹ thuật phức tạp khác, có thể đánh chặn các cuộc nói chuyện qua điện thoại ở khoảng cách 4-5000 mét.
Trong hai năm cuối của cuộc chiến, các hệ thống nghe trộm điện thoại như thế trở nên hiệu quả đến mức, trên Mặt trận phía Tây, các bộ chỉ huy quân sự của các quốc gia khác nhau khi hiểu được những nhược điểm của điện thoại, đã hạn chế đáng kể việc sử dụng nó.
Ngay từ đầu chiến tranh, các kỹ sư và chuyên gia quân sự đã dành nỗ lực của họ cho việc chế tạo một thiết bị tinh vi hơn được thiết kế không chỉ để cải thiện thông tin liên lạc giữa các phân đội của mình, mà còn để phát hiện và xác định vị trí đài phát của đối phương. Điều này đã trở thành có thể sau phát minh hệ thống tầm phương vô tuyến của nhà khoa học Ý giáo sư Artomo, người phát hiện ra đặc tính “định hướng” của ăng ten khung kín; nghĩa là khả năng ăng-ten tự định hướng theo hướng xuất hiện bức xạ điện từ.
o O o
Ăng-ten Artomo được sử dụng trong máy tầm phương vô tuyến Bellini – Tosi, nó bao gồm hai khung kín giao nhau và là ăng ten lý tưởng cho việc phát hiện hướng xuất phát bức xạ vô tuyến sóng trung và sóng dài. Guglielmo Marconi, một vài năm trước khi chuyển đến sinh sống ở nước Anh, đã hoàn thiện phương pháp được phát minh bởi đồng hương của mình là giáo sư Artomo, bằng cách sử dụng đèn khuếch đại mới cực kỳ nhạy, có thể thu nhận ngay cả các tín hiệu radio yếu nhất, mà các bộ detektor thông thường của máy thu không thể phát hiện ra. Ngay trong năm 1914, thiết bị mới đã cho phép bắt đầu chặn bắt các bức xạ điện từ của kẻ thù để xác định hướng xuất hiện của nó và do đó xác định vị trí đặt máy phát vô tuyến. Tầm phương vô tuyến, vì vậy trở thành một công cụ vô giá cho các hoạt động do thám điện tử và thu thập thông tin về đối phương. Trong những ngày đó, việc LLVT sử dụng radio chưa thật phổ biến, vì vậy việc xác định vị trí đài phát của đối phương hầu như luôn luôn chỉ ra sự hiện diện trong khu vực này một đơn vị quân sự lớn; ngoài ra, việc bố trí các đài phát sóng đã cho ta một hình dung rất rõ ràng về việc tổ chức mặt trận của đối phương, còn sự thay đổi các tọa độ của đài phát – chính là hình ảnh khá chính xác về sự di chuyển của quân đội. Ở người Pháp và người Anh, hoạt động này được tổ chức tốt, đặc biệt kể từ năm 1915, họ bắt đầu sử dụng các hệ thống đánh chặn tầm phương vô tuyến hiệu quả, cho phép họ xác định vị trí các đơn vị lớn của đối phương, hoạt động chuyển quân và kế hoạch tấn công. Tất cả những điều này góp phần vào thành công của phe đồng minh trong việc tiêu hao lực lượng kẻ thù và buộc nó phải hành động ở vị trí cố định, làm hao mòn kiệt quệ kẻ thù.
Máy tầm phương vô tuyến mang lại những thành công lớn nhất trong các chiến dịch đường biển của Chiến tranh Thế giới thứ Nhất. Người Anh đặc biệt đã đạt được những thành công xuất sắc trong việc xác định sự di chuyển của tàu ngầm Đức, cần phải nổi lên và truyền thông tin về bộ chỉ huy của mình. Một số lượng lớn tàu ngầm bị đánh chìm trong những ngày đó có thể chính là do việc người Anh sử dụng hệ thống tầm phương vô tuyến, cung cấp thông tin về sự chuyển động của tàu ngầm đối phương cho các tàu chống ngầm. Trong thực tế, người Anh không khó khăn gì để có được các thông tin đó, vì các tàu ngầm Đức, khi sử dụng liên lạc vô tuyến, không áp dụng bất kỳ biện pháp phòng ngừa nào. Được trang bị các máy phát mạnh hoạt động ở tần số 750 kHz, các tàu ngầm Đức nổi lên vào thời gian xác định để truyền các thông điệp dài về bộ chỉ huy của mình. Những bản điện tín vô tuyến đó có tính chất khá tiêu biểu, tạo điều kiện làm việc dễ dàng cho không chỉ các máy giải mã, mà còn cả các hiệu thính viên máy tầm phương vô tuyến người Anh, những người xác định hướng của bức xạ vô tuyến và vị trí chính xác của các tàu ngầm.
Tiến bộ công nghệ trong lĩnh vực radio và các lĩnh vực liên quan, đã làm cho việc chế tạo các máy tầm phương vô tuyến có kích thước nhỏ hơn và nhẹ hơn trở thành có thể, giúp các điệp viên bí mật có khả năng mang theo các máy móc này. Thiết bị được phát triển như vậy đã được người Đức sử dụng trong các cuộc tấn công vào nước Anh của các khinh khí cầu của họ.
o O o
Khi người Đức bắt đầu ném bom đêm London, họ nhận ra rằng họ sẽ phải giải quyết vấn đề tiếp cận mục tiêu trong bóng tối. Đầu tiên, trong các khí cầu Đức sử dụng hệ thống dẫn đường thiên văn (astronavigation), nhưng việc sử dụng chúng không đạt yêu cầu do sự không phù hợp của bản thân khí cầu cho mục đích này và các điều kiện thời tiết: sương mù và mây. Vì vậy, người Đức từ bỏ hệ thống này và thay cho nó trên các cự ly lớn họ chuyển sang hệ thống dẫn đường vô tuyến điện, sử dụng một mạng lưới các máy phát lắp đặt ở Đức. Tuy nhiên, hệ thống này tỏ ra không hiệu quả, vì máy thu lắp trên máy bay không có đủ độ chính xác, khoảng cách thì rất lớn, và phát sinh những lỗi gây ra bởi việc thu nhận đa tia vào ban đêm.
Cuối cùng, người Đức ném vào Anh các điệp viên bí mật, họ trực tiếp ở trong những ngôi nhà vùng ngoại ô Luân Đôn, thiết lập một hệ thống đèn hiệu radio cầm tay. Từ đó, họ có khả năng dẫn đường trực tiếp cho khí cầu tiến tới mục tiêu với độ chính xác tương đối, bất chấp bóng tối và sương mù. Tuy nhiên, sự hiện diện trong thinh không các tín hiệu điện từ kỳ lạ ngay trước khi xảy ra các vụ ném bom sớm dấy lên những nghi ngờ của cơ quan mật vụ Anh, họ sử dụng máy dò phương vô tuyến gắn trên xe ô tô, bắt đầu tìm kiếm thường xuyên các nguồn bức xạ như vậy.
Các khí cầu Đức đã phạm phải nhiều lỗi nghiêm trọng khi sử dụng liên lạc vô tuyến. Họ, cũng như các tàu ngầm, luôn thực hiện liên lạc trên cùng một tần số và luôn sử dụng cùng một mã để liên lạc với trạm mặt đất. Và hơn nữa, họ bay với tốc độ khá thấp. Nói chung, người Anh không khó để biết được khi nào sẽ có không kích vào London. Người Anh cũng có thể tìm hiểu một cách dễ dàng các điệp viên Đức náu trong các tòa nhà nào và bắt giữ họ. Thay vì loại bỏ những thiết bị phát bí ẩn trên, người Anh vẫn sử dụng chúng vào các đêm tiếp theo để hướng dẫn các khí cầu bay tới các khu vực không người ở trên miền duyên hải Biển Bắc, nơi mà chờ chúng là các máy bay tiêm kích của Anh. Kết quả là sự hủy diệt hoàn toàn các khí cầu của người Đức.
Sau đó khinh khí cầu không còn được sử dụng như máy bay ném bom nữa, vì với người Đức ngày càng thấy rõ rằng chúng rất dễ bị máy bay tiêm kích của đối phương tiêu diệt. Thay cho chúng, để ném bom London họ bắt đầu được sử dụng các máy bay ném bom Gotha, và các khinh khí cầu được chuyển sang thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ.
Chiến dịch thú vị nhất và thành công nhất được thực hiện bởi mạng lưới máy tầm phương vô tuyến Anh là chiến dịch thực hiện ngay trước khi bắt đầu trận hải chiến vĩ đại Jutland. Năm 1916, dư luận Anh bày tỏ sự bất mãn nghiêm trọng với các hành vi thụ động của Đại hạm đội, không biết cách ngăn chặn sự xâm nhập của hải quân Đức vào các khu vực duyên hải khác nhau của Vương quốc Anh. Ký ức cay đắng về trận chiến bên dải đá ngầm Dogger, trong đó Đô đốc hạm đội Đức Hipper đã trốn thoát thành công hạm đội Anh của Đô đốc Beatty, gây đau đớn cho tâm hồn những người cảm thấy mình đang làm chủ biển cả, và họ đòi phải trả thù! Tuy nhiên, vị trí địa lý, khoảng cách giữa các căn cứ và các yếu tố quan trọng khác có lợi cho hạm đội Đức, vốn luôn thành công “tấn công và biến mất” trước khi người Anh xuất hiện. Đó là vấn đề thời gian cần thiết, rất khó để giải quyết.
Vào cuối tháng 5 cùng năm đó, người Đức lên kế hoạch tiến hành một cuộc tấn công rất lớn từ phía biển lên duyên hải nước Anh, trong đó dự định sử dụng tàu ngầm và khí cầu. Để tránh việc hạm đội của họ rời cảng bị phát hiện bởi mạng vô tuyến tầm phương của người Anh, người Đức lên kế hoạch đánh lừa Bộ Hải quân Anh thông qua việc sử dụng các thủ thuật điện tử.
o O o
Một vài ngày trước khi nhổ neo, người Đức đổi tín hiệu vô tuyến soái hạm “Frederick de Grosse” của mình sang tín hiệu đài vô tuyến Wilhelmshaven, nơi đặt căn cứ hạm đội Đức. Do đó, người Anh, những người thường xuyên chặn sóng radio của soái hạm có thể nghĩ rằng hạm đội Đức vẫn đang còn đậu tại Wilhelmshaven.
Tuy nhiên, gần cuối tháng, các hiệu thính viên Anh ghi nhận được sự gia tăng đột ngột cường độ tin điện vô tuyến phát đến một con tàu trong cảng Wilhelmshaven, yêu cầu các tàu quét mìn quét thông kênh, cung cấp nhiên liệu v.v. Các thông điệp này là dấu hiệu rõ ràng cho thấy hải quân Đức đang chuẩn bị một chiến dịch hải quân quan trọng, vì vậy tất cả các trạm vô tuyến dọc bờ biển nước Anh được đặt vào tình trạng SSCĐ cao, theo dõi chặt những gì đang xảy ra tại Wilhelmshaven.
Ngày 30 tháng 5, xác nhận tính đúng đắn quyết định của Hải quân Anh tiến hành chặn bắt các điện tín vô tuyến và tầm phương vô tuyến, điều đó đã mang lại lợi ích khi họ phát hiện ra sự thay đổi hướng tới của bức xạ vô tuyến từ một con tàu lạ. Những thay đổi này đã thuyết phục Bộ Hải quân Anh tin rằng con tàu Đức, và có lẽ toàn bộ hạm đội Đức, đã rời căn cứ của họ và một lần nữa họ đang lên kế hoạch bắn phá các mục tiêu ở nước Anh. Bộ Hải quân lập tức ra lệnh cho Lord Jellicoe, Tổng tư lệnh Đại hạm đội (Grand Fleet) nhổ neo, nhanh chóng tiến vào vịnh Heligoland.
Trong khi cả hai hạm đội mở hết tốc độ tiến lại đối đầu nhau, người Đức phái khí cầu Zeppelin đi khảo sát khu vực biển phía tây bán đảo Đan Mạch. Đối với người Đức, công tác trinh sát không đạt kết quả, nhưng với Hạm đội Anh thì không phải như vậy, các trạm tầm phương vô tuyến bố trí trên bờ biển nước Pháp thu được tín hiệu radio của các khí cầu, và như vậy, các tín hiệu đó xác nhận Hạm đội Đức thực sự đã ra khơi.
Kết quả của điều này là trận Jutland – một trong những trận hải chiến vĩ đại nhất trong lịch sử hải quân. Người ta đã viết rất nhiều về nó, nhưng có thể chưa ai nhấn mạnh rằng một thành công lớn đến như vậy có lẽ sẽ không bao giờ xảy ra, nếu người Anh không đánh chặn sóng vô tuyến và thực hiện định vị vô tuyến!