← Quay lại trang sách

Chương 12 Thông Tin Liên Lạc Và Tác Chiến Điện Tử.

Trong suốt Thế chiến II, các quốc gia-đối thủ thường xuyên chế áp liên lạc vô tuyến của nhau khi cố gắng ngăn chặn sự phổ biến thông tin tuyên truyền của họ qua các phương tiện vô tuyến. Điều chỉnh máy thu radio của mình, nhiều người nhận thấy nhiễu rất mạnh, và đôi khi sóng radio truyền đi hoàn toàn chìm trong các âm thanh của kim loại va vào nhau, tiếng chuông rung, và đại loại như thế.

Ngoài ra, mặc dù ở mức độ thấp hơn, việc chế áp liên lạc vô tuyến quân sự cũng diễn ra như vậy. Điều này được thực hiện để không cho phép đối phương sử dụng hiệu quả các phương tiện thông tin vô tuyến riêng của họ. Một trong những trường hợp đầu tiên gây nhiễu là những sự kiện diễn ra trong tháng 11 năm 1941, khi tập đoàn quân số VIII của Anh chuẩn bị một cuộc tấn công quy mô lớn chống lại quân đội các nước phe Trục trên mặt trận Libya, nhằm lấy lại các vị trí đã bị chiếm mất.

Người Anh nhận thấy rằng sự thành công của các chiến dịch táo bạo trước đó của các binh đoàn thiết giáp của tướng Rommel phần nào được giải thích bởi liên lạc vô tuyến có tổ chức giữa bộ chỉ huy và các xe tăng. Họ cho rằng, sau khi phá hủy đường thông tin liên lạc này, họ có thể làm tê liệt hoạt động của các xe thiết giáp của đối phương. Để làm điều này, các máy bay ném bom Wellington được trang bị rất nhiều các máy phát radio đơn giản 50 watt-điều tần. Chúng phát xạ tiếng ồn của động cơ máy bay, tạo ra ở tần số được người Đức sử dụng tiếng ồn hỗn loạn điếc tai. Ban đầu, việc gây nhiễu này tạo ra sự hỗn loạn lớn giữa các đơn vị xe tăng Đức, nhưng ngay sau khi nhận ra nguồn gốc nhiễu, người Đức bắt đầu sử dụng máy bay chiến đấu Bf 109 để săn diệt máy bay ném bom Wellington. Đó không phải là điều khó khăn, vì Wellington di chuyển chậm và không được đảm bảo sự hộ tống đầy đủ.

o O o

Như chúng ta đã thấy, khi xem xét các chiến dịch ở Đại Tây Dương và Thái Bình Dương, một trong những ứng dụng hiệu quả nhất của EW ảnh hưởng đến quá trình Thế chiến II là đánh chặn sóng vô tuyến của đối phương. Các chiến dịch này được tiến hành bởi các nước tham chiến, không chỉ để có được thông tin hữu ích từ việc giải mã chương trình phát sóng, mà còn để phát hiện các mạng lưới điệp viên bí mật trong lãnh thổ của mình.

Trường hợp thú vị liên quan đến hoạt động này là một chiến dịch được người Đức thực hiện để xác định vị trí nơi phát sóng của điện đài Nga bí mật hoạt động tại các vùng lãnh thổ bị Đức chiếm đóng.

Trong năm 1941, cơ quan tình báo quân đội Đức Abwehr chặn thu được ít nhất 500 phiên truyền tin vô tuyến được mã hóa mà không thể giải mã. Abwehr nhận ra đây là mạng lưới điệp viên Liên Xô đang hoạt động ở Tây Âu. Các nhà lãnh đạo Đức Quốc xã ở Berlin đã rất giận dữ trước sự bất lực của nước Đức trong việc chấm dứt công việc của lưới điệp viên được trang bị các điện đài sóng ngắn tốt cùng với các trang thiết bị điện tử thích hợp, được gọi là “The Red Chapel” (“Dàn Nhạc Đỏ”). Họ vô cùng tức tối trước thực tế là trong những bức điện vô tuyến kia chứa các thông tin quân sự được truyền cho bộ tư lệnh quân đội Nga trực tiếp từ lãnh thổ Đức, nhưng tất cả những nỗ lực của họ để tìm ra hang ổ của những nhân viên tình báo Nga đã không có kết quả.

Trong thời đó, các máy định vị vô tuyến tầm phương hiện có vẫn chưa đủ tinh vi để ngay lập tức cung cấp các tọa độ chính xác của điện đài bí mật, mà hơn nữa, liên tục thay đổi vị trí của mình. Đó giống như một cuộc săn cáo, tiến hành giữa các máy phát vô tuyến bất hợp pháp và các máy tầm phương vô tuyến Peilung không ngừng được hoàn thiện của người Đức.

o O o

Hằng đêm các đài phát bí ẩn phát sóng bốn đến năm giờ. Người Đức đánh chặn có hệ thống các buổi phát sóng và sử dụng công cụ tầm phương vô tuyến của họ, tính toán ra phương vị của nó. Nhưng mỗi khi họ xác lập được, các đài phát lại biến mất trước khi người Đức có thể tìm thấy. Tuy nhiên, họ đã có thể xác lập được đài phát chính của “Red Chapel” tọa lạc tại một trong những thành phố của Bỉ. Các hiệu thính viên khai thác máy tầm phương vô tuyến điêu luyện nhất của Đức được cử đến thành phố này để cố gắng để phát hiện vị trí chính xác của nó.

Điệp viên Nga nán lại quá lâu, lỗi lầm này gây tử vong cho họ. Đêm ngày 13 tháng 12 năm 1941, tòa nhà từ đó tiến hành các phiên phát sóng bí mật bị phát hiện bởi các hiệu thính viên Đức. Lính Đức, đi ngoài ủng nhưng chiếc vớ dày để bóp nghẹt tiếng động do bước chân của họ, lặng lẽ thâm nhập tòa nhà và bắt sống tại chỗ các điệp viên.

Người ta được biết, người Anh tham gia đánh chặn có hệ thống sóng vô tuyến của đối phương nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác và họ đã có kinh nghiệm đáng kể trong hoạt động này. Ngay sau Thế chiến thứ Nhất, họ xây dựng các đài phát vô tuyến bí mật trên toàn thế giới để chặn thu sóng điện đài của các đối thủ tiềm năng. Tất cả các sóng điện đài chặn thu được họ đều phân tích kỹ, và nếu có khả năng, sẽ được giải mã để thu nhận những thông tin có thể hữu ích cho các mục tiêu chính trị và quân sự của họ.

Thời đó, việc giải mã các điện vô tuyến vẫn còn là công việc mà sự thành công phụ thuộc hoàn toàn vào kỹ năng và trí thông minh của các chuyên gia trong lĩnh vực này. Ngoài ra, việc giải mã các điện vô tuyến có sự tham gia của nhiều người và codebooks có chứa mã được lưu trữ trong các két sắt và bảo vệ ngày đêm.

Các báo cáo mã hóa là một công việc lâu dài và nằm ở chỗ “dịch” văn bản thông thường thành một chuỗi các con số và chữ cái, thường được mã hóa hai lần để làm cho nhiệm vụ giải mã của đối phương khó khăn hơn. Rõ ràng, càng sử dụng nhiều hơn tổ hợp các con số và chữ cái, càng khó để “chẻ” mật mã.

o O o

Ngay trước khi bùng nổ Thế chiến thứ 2, người Đức chế tạo ra máy mật mã Enigma đặc biệt, có thể phối hợp một số lượng lớn hơn nữa các tổ hợp so với các phương pháp mã hóa thủ công thông thường. Nó là một máy điện với một bàn phím và các khai thác viên có thể cung cấp hơn bốn triệu tổ hợp. Bộ chỉ huy tối cao Đức bị thuyết phục rằng cỗ máy này sẽ hoàn toàn giải quyết vấn đề mã hóa, bởi vì nó sẽ làm cho nhiệm vụ giải mã gần như không thể.

Tuy nhiên, theo kết quả của một loạt sự kiện, được khởi xướng bởi một người Do Thái Ba Lan Richard Levinsky, người làm việc như một kỹ sư và nhà toán học tại nhà máy Berlin, nơi thiết kế Enigma, điều này đã không xảy ra. Một ngày của năm 1938, Levinsky bước vào tòa nhà trụ sở cơ quan tình báo ở Warsaw và chào bán thông tin về Enigma lấy 10 000 sterling Anh và tấm hộ chiếu cho phép ông và gia đình di cư sang Anh, khi đó là đồng minh của Ba Lan.

Tình báo Ba Lan và Anh không thể tin được một thành công như vậy, đặc biệt là khi đã thấy khá rõ ràng rằng họ sẽ sớm phải bước vào một cuộc chiến tranh với Đức. Tuy nhiên, việc sở hữu chỉ một côc máy không phải là phương tiện đủ để giải mã điện tín nhanh chóng, vì người Đức thay đổi bộ mã hàng ngày. Để giải quyết vấn đề này, người Anh quyết định thiết kế một cỗ máy có thể thực hiện tất cả các công việc cần thiết để nhanh chóng tìm thấy “khóa mã” hiện hành. Điều này sẽ dẫn đến việc xây dựng máy giải mã, cỗ máy dịch các tin điện của kẻ thù sang văn bản thông thường. Một nhóm gần ba mươi nhà toán học bắt đầu tính toán tất cả các tổ hợp số và chữ cái của máy mật mã Enigma mà đến thời điểm này người Anh đã có thể tái sử dụng nhờ Levinsky. Khi thực hiện xong, các tổ hợp tính toán bằng phương pháp điện tử được đưa vào chiếc máy giải mã có kích thước rất lớn, chiếc máy mà có thể tìm ra, với sự giúp đỡ của các thiết bị cơ điện, chìa khóa chính xác để giải mã các thông điệp của Enigma.

o O o

Hệ thống này được gọi là Ultra (xem thêm về Enigma và Ultra trong “Ultrasecret” của Vinterbotham và “Il vero traditore” của A.Santoni, được nhà Mursia xuất bản) là một loại máy tính điện tử cơ bản, mặc dù nó sử dụng công nghệ điện tử lạc hậu xa so với công nghệ máy tính hiện đại ngày nay. Khi bùng nổ Thế chiến II, người Anh thấy mình ở một vị trí tốt hơn nhờ có Ultra vào mạng lưới các trạm chặn thu vô tuyến điện rải rác trên toàn thế giới. Chúng có khả năng đánh chặn mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh Lục quân, Không quân và Hải quân Đức gửi cho bộ đội của mình, các thông điệp trong nội bộ quân đội và thậm chí lệnh của chính Hitler truyền trực tiếp cho họ trước khi mở đầu mỗi chiến dịch quan trọng.

“Của hiếm” không thể tin được này của các cơ quan mật vụ Anh đã có những hệ quả vô cùng quan trọng, đặc biệt là trong những năm đầu của cuộc chiến tranh. Được Ultra cung cấp thông tin, sự hiểu biết thấu đáo của người Anh về các chiến dịch của đối phương, kế hoạch chiến lược của chúng, bố trí các cụm quân đội và sự di chuyển của nó có ảnh hưởng lớn đến kết quả của nhiều trận đánh.

Lấy ví dụ, chiến thắng của người Anh trong trận Cape Matapan ngày 28 Tháng Ba năm 1941. Chiến thắng này, gần như không nghi ngờ gi nữa, có thể quy cho năng lực của người Anh đã giải mã được điện vô tuyến giữa Bộ Chỉ huy tối cao Đức và quân đoàn không quân (X-CAT) tại Ý, một vài ngày trước khi hạm đội Ý, vốn cần phải được X-CAT bảo vệ, rời cảng Taranto.

Như chúng ta đã thấy trước đây, hạm đội Ý đã lên kế hoạch bất ngờ tấn công đoàn công-voa Anh tại Đông Địa Trung Hải bằng lực lượng một thiết giáp hạm, bốn tuần dương hạm hạng nặng và sáu khu trục hạm. Thành công của chiến dịch này phụ thuộc vào yếu tố bất ngờ, và người Ý đã làm mọi thứ có thể để giữ bí mật kế hoạch của họ. Tuy nhiên, họ yêu cầu các đồng minh của họ – người Đức, giúp họ bằng cách gửi máy bay tiêm kích của X-CAT tới, bảo vệ hạm đội của họ. Bức điện liên quan đến vấn đề này được mã hóa bằng máy Enigma và chuyển giao cho người Đức, nhưng cũng bị chặn thu và giải mã bởi máy Ultra của Anh. Do đó, người Anh biết tất cả về các giai đoạn cơ bản của các chiến dịch của hạm đội hải quân Ý: ngày tháng, thời gian, thành phần tàu, yểm trợ đường không và v.v.

o O o

Biết thông tin này, Đô đốc Cunningham ra lệnh cho một phân hạm hải quân Anh, lúc đó đang đậu tại cảng Aleksandria Ai Cập, sẵn sàng ra khơi ngay lập tức. Để đánh lừa các điệp viên Ý ở Aleksandria, đô đốc Anh lên bờ trong trang phục dân sự và đi đến câu lạc bộ golf của mình. Khi màn đêm che phủ, ông ta bí mật quay trở về tàu, hạm đội ra khơi.

Ngoài ra, Ultra cũng góp phần vào việc tiêu diệt một số lượng lớn các đoàn công-voa Ý đi đến các cảng Bắc Phi. Người Anh giải mã các điện tín của Bộ Tư lệnh tối cao Đức, giao nhiệm vụ cho tướng Rommel và X-CAT tại Ý về thời hạn ra khơi và đến nơi, chuyển giao hàng hậu cần bằng đường biển cho Afrika Korps, cung cấp thông tin về thời điểm khởi hành và xuất hiện của đoàn công-voa, các cảng đi và mục đích cũng như hành trình của các con tàu. Do đó, người Anh biết các đoàn công-voa đối phương xuất bến thế nào khi nào từ trước và có thể nhanh chóng phái các binh đoàn đi tấn công đối thủ. Ngoài ra, việc trinh sát không ảnh thường xuyên một cách có hệ thống các cảng của Ý đã trở thành một lợi thế tuyệt vời, mặc dù ít được biết đến của người Anh, vì nó cung cấp cho họ thông tin về thành phần hộ tống đoàn công-voa và v.v. Một yếu tố khác trong sự thành công của hạm đội Anh ở Địa Trung Hải là họ có radar, cho phép dẫn bắn ban đêm.

Trong trường hợp đảo Crete bị lính dù Đức chiếm đóng vào năm 1941, các thông tin chứa trong những điện tín bị chặn và giải mã đã thực sự giúp người Anh rất nhiều, những bức điện đó được Bộ chỉ huy Không quân Đức chuyển cho các đơn vị của họ. Mặc dù người Đức thành công trong việc chiếm đảo, thiệt hại của họ rất cao, vì quân đội Anh đã triển khai chính xác tại vị trí đổ bộ của lính dù Đức.

o O o

Nhiều thành công trong số những thành công khác của liên quân Anh-Mỹ trong Thế chiến II là kết quả của việc áp dụng cỗ máy kỳ diệu Ultra, và chúng ta chỉ cần nhắc đến Trận chiến nước Anh, trận El Alamein ở Bắc Phi và cuộc đổ bộ lên Normandy là cũng đã đủ. Thật khó để đánh giá chính xác, đóng góp lớn dường nào mà Ultra đã mang lại trong thành công của các chiến dịch này, không nghi ngờ gì nữa, nó đảm bảo cho người Anh những thông tin vô cùng quý giá làm thay đổi tiến trình của nhiều trận đánh. Chắc chắn các thủy thủ tàu buôn, thủy thủ quân sự Ý đã phải trả cái giá cao nhất do sự ứng dụng máy giải mã Ultra, đã cung cấp cho người Anh những thông tin quý giá như vậy về các hành động của họ.

Sự hiểu biết hành động của kẻ thù và ý định của nó, thu được bằng cách chặn và giải mã điện vô tuyến, cùng với sự bảo vệ đầy đủ các phương tiện thông tin liên lạc của bản thân, là yếu tố quan trọng nhât trong sự thành công của các hoạt động tác chiến. Tính đến sự tiến bộ lớn lao trong lĩnh vực điện tử ứng dụng vào quân sự và các yêu cầu ngày càng tăng, đặt ra cho công tác chỉ huy và kiểm soát các lực lượng vũ trang, việc bảo vệ thông tin liên lạc đã trở thành vô cùng cần thiết, không chỉ vì để giải mã, mà còn vì các biện pháp đối kháng điên tử (chặn thu, gây nhiễu và nghi binh đánh lạc hướng). Ngày nay, việc bảo vệ các phương tiện thông tin liên lạc, trên thực tế, đã trở thành ưu tiên hàng đầu của công tác quốc phòng trong tất cả các nước, và được cho là cũng quan trọng như việc mua sắm vũ khí, huấn luyện quân đội và tất cả các thành tố quan trọng khác của một cuộc chiến tranh hiện đại.