Chương 15 Các Cuộc Khủng Hoảng Quốc Tế.
Sau Chiến tranh Thế giới thứ Hai, đã xảy ra nhiều cuộc khủng hoảng quốc tế lớn – các cuộc khủng hoảng mà trong đó EW đóng một vai trò quyết định. Cuộc khủng hoảng có khả năng bùng nổ nguy hiểm nhất bắt đầu vào cuối mùa hè năm 1962, khi tàu do thám của Hải quân Mỹ “Muller”, tuần tra và nghe lén trên biển Caribbean, chặn thu được tín hiệu radar bất thường đến từ phía lân cận hòn đảo Cuba. Các băng từ chứa tín hiệu ghi nhận ngay lập tức được gửi về Washington để phân tích và nỗ lực định danh. Người Mỹ tỏ ra hoảng hốt khi họ đi đến kết luận rằng chúng chính là tín hiệu radar của Liên Xô thường được sử dụng để dẫn đường cho tên lửa đạn đạo mang đầu đạn hạt nhân.
Để xác nhận phát hiện của mình, các máy bay tuần tra được phái đến vùng biển Caribbean, thực hiện nhiệm vụ ELINT, còn một vài ngày sau đó, dọc theo bờ biển phía nam Florida, đã thiết lập những máy thu đặc biệt nhạy cảm với các ăng-ten định hướng chĩa về Cuba. Tất cả các tín hiệu vô tuyến phát đi và truyền đến đều bị đánh chặn.
Ngay sau đó, vào ngày 14 tháng 10, máy bay U-2 được phái đến trinh sát hòn đảo. Các bức ảnh chụp từ độ cao 30.500 mét, trong đêm đó ngay lập tức được xử lý và phân tích bởi các chuyên gia của CIA. Họ do sánh chúng với các hình ảnh khác thực hiện trên bầu trời Cuba hai năm trước trong tháng 1 năm 1960 bởi một máy trinh sát U-2 khác sử dụng máy ảnh hồng ngoại. Chuyến bay này may mắn ở chỗ đã chụp được ảnh từng cm lãnh thổ Cuba mà không gây ra dù chỉ những nghi ngờ nhỏ nhất của lực lượng phòng không của Fidel Castro.
Các bức ảnh trở thành chủ đề của một cuộc phân tích cẩn thận và buổi tối hôm sau, đã tìm thấy có dấu hiệu của căn cứ tên lửa chiến dịch-chiến thuật (ОТР – оперативно-тактическая ракета) ở San Cristobal. Các chuyến bay trinh sát tiếp theo trên bầu trời Cuba xác nhận rằng người Nga, quả thật, đã triển khai một số tên lửa loại này và đang chuẩn bị các trận địa phóng cho loại tên lửa tầm hoạt động lớn hơn. Tầm bay xa của chúng đến khoảng 1600 km, điều đó có nghĩa là người Cuba có thể bắn trúng và tiêu diệt các mục tiêu trên lãnh thổ Mỹ, bao gồm cả Washington, kênh đào Panama và một loạt căn cứ của Bộ Tư lệnh Không quân Chiến lược.
Sáng ngày 16, Tổng thống Mỹ John F. Kennedy đã được thông báo điều này, ông ta ngay lập tức tổ chức cuộc họp với các cố vấn thân cận nhất của mình, yêu cầu họ phân tích sâu sắc những mối nguy hiểm đối với Mỹ bởi sự triển khai trên, và sau đó có thể thực hiện những hành động trả đũa nào.
Nhóm công tác nghiên cứu và thảo luận tất cả các đề xuất trong năm ngày, còn trong khi đó, cường độ các chuyến bay do thám U-2 được tăng lên. Một vài ngày sau Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô đảm bảo với Tổng thống Kennedy rằng nước Nga chỉ đưa cho Fidel Castro các “vũ khí phòng thủ”.
Ngày 27 tháng 10, một U-2 đang bay do thám trên không phận Cuba, bị trúng TLPK Nga S-75 và phi công của nó, thiếu tá Rudolf Anders, tử nạn. Ngay lập tức các chuyến bay U-2 bị dừng, còn nhiệm vụ của chúng, bắt đầu được thực hiện bởi các máy bay McDonnell RF-101 Voodoo có căn cứ tại Florida, thuộc Bộ Chỉ huy Không quân chiến thuật. Chúng có thể bay với tốc độ gấp hai lần tốc độ âm thanh, từ độ cao 15.000 mét cho đến độ cao trên ngọn cây. Chúng được trang bị máy ảnh điều khiển điện tử và đạn pháo sáng để chụp ảnh vào ban đêm.
Sau một loạt chuyến bay ngắn nhưng cường độ cao cả ngày lẫn đêm ở độ cao thấp của RF-101, người Mỹ thu được sự xác nhận không chỉ thực hiện bằng các bức ảnh, mà còn bởi thực tế là các phi công đã thấy tận mắt: 42 trận địa phóng tên lửa tầm trung (RSD, РСД – ракеты средней дальности, ở đây là tên lửa R-12) đã chuẩn bị xong cùng với các radar dẫn đường của chúng. Đã có được sự xác nhận Cuba có 42 máy bay ném bom phản lực Il-28, 144 trận địa TPK S-75, 42 máy bay MiG-21 và một số tàu tên lửa do Liên Xô chế tạo, cũng như trên đất Cuba đang có 20.000 cố vấn quân sự và chuyên gia Liên Xô. Các trạm mặt đất đánh chặn khẳng định rằng tần số hoạt động trước đó do các máy bay và tàu quân sự chặn thu được, thực sự thuộc về những khí tài liên quan đến tên lửa đạn đạo. Chưa có xác nhận sự hiện diện của các đầu đạn hạt nhân; và chúng, cùng với các tên lửa, có lẽ vẫn còn trên đường đi, được nhiều tàu buôn từ Nga chuyên chở, đang đi đến vùng biển Caribbean.
Trên cơ sở các thông tin không thể chối cãi này Tổng thống Kennedy quyết định áp dụng các hành động trả đũa và thông báo cho dân chúng Mỹ và các đồng minh của Mỹ về những gì đã xảy ra và những gì có thể xảy ra.
Trong một số giải pháp hiện có sẵn để làm cho tình hình thuận lợi thuộc thẩm quyền mình, Kennedy quyết định chọn phương án phong tỏa đường biển hòn đảo. Tất cả các tàu có mang vũ khí trên tàu, bất kể quốc tịch, đều không được phép tới Cuba. Để cho phép người Nga giữ thể diện, những hành động này được gọi là “cách ly kiểm dịch”.
Đồng thời trong lúc đó, 18 tàu buôn Liên Xô, chất đầy đạn tên lửa và trang thiết bị cho chúng, đang tiến về phía hòn đảo của Castro. Cuộc đụng độ giữa người Nga và người Mỹ trên Đại Tây Dương dường như sắp xảy ra, thế giới nín thở chờ đợi những gì có thể đánh dấu sự khởi đầu của Chiến tranh Thế giới III.
o O o
Các tàu Nga, được các tàu ngầm của họ hộ tống, ở dưới sự giám sát liên tục của người Mỹ. Khi những tàu đầu tiên bị dừng lại, bị lục soát kiểm tra và người ta yêu cầu chúng lập tức đổi hướng, Chính phủ Xô Viết đã ra lệnh cho chúng quay trở lại.
Chưa bao giờ, kể từ năm 1945, thế giới quá gần với một thảm họa hạt nhân như trong tháng 10 năm 1962. Nếu Hải quân Mỹ không thu thập được và phân tích thông tin điện tử về các radar Liên Xô một cách nhanh chóng như vậy, và như thế sẽ cho người Nga thời gian lắp đặt thêm tên lửa ở Cuba, thì sau khi lắp đặt chúng xong, hậu quả đối với hòa bình thế giới sẽ nghiêm trọng hơn nhiều và sẽ rất khó khăn trong tác động để rút chúng đi.
Sau hành động nhượng bộ nhục nhã này ở vùng biển Caribê, người Nga bắt tay thực hiện một chương trình rộng lớn tăng cường hạm đội của mình. Chịu trách nhiệm về chương trình này là Đô đốc Sergei Gorshkov, Tổng tư lệnh Hải quân Liên Xô. Mỗi năm, nhiều tàu mới thuộc các lớp khác nhau được đặt hàng, chúng trang bị các tên lửa diện-đối-diện và diện-đối không. Hạm đội Liên Xô tăng nhanh như thổi, trở thành hạm đội lớn thứ hai trên thế giới. Thông thường, trên các tàu mới của người Nga, các thiết bị điện tử được lắp đặt có phổ rất rộng, người ta có thể nói là một rừng ăng-ten dày đặc trên giá treo, rất ấn tượng cả về số lượng và chất lượng. Với mục đích tránh ECM của kẻ thù, người Nga tăng dần tần số hoạt động và cải thiện thiết kế radar của mình.
Song song với việc tăng cường Hải quân Liên Xô và sự gia tăng ảnh hưởng chiến lược của Moscow, cũng bắt đầu các công việc gia tăng số lượng hạm đội tàu thương mại bằng cách bổ sung các tàu chở hàng và tàu phụ trợ, bao gồm cả các tàu hải dương học lớn và các tàu đánh cá lớn. Nhiều tàu trong số các tàu phụ trợ, nằm dưới sự chỉ huy trực tiếp của Hải quân Liên Xô, theo lời Gorshkov, chúng được coi là một phần cơ hữu của lực lượng hải quân Liên Xô, có khả năng tiến hành hoạt động do thám điện tử. Được gọi theo NATO là các tàu phụ trợ, trinh sát và thu thập tin tình báo (AGI), chúng là tai mắt của ngành trinh sát hải quân Nga và chúng thu thập cho Hải quân Nga thông tin liên quan đến việc triển khai và các phương pháp ứng dụng radar, các hệ thống thông tin vô tuyến và định vị dẫn đường, v.v của kẻ thù tiềm năng, bắt đầu từ các nước NATO.
Do các nước NATO sử dụng nhiều loại radar khác nhau và các hệ thống vô tuyến điện tử khác, khu vực giám sát được mở rộng, số lượng AGI tăng từ 4 năm 1962 lên hơn 160 vào năm 1979. Chúng được phân chia giữa các hạm đội khác nhau của Liên Xô: Thái Bình Dương, Biển Bắc, Baltic, Biển Đen, Địa Trung Hải và liên tục hoạt động ở bất cứ nơi nào có thể đánh chặn bức xạ điện từ. Chúng hầu như luôn luôn hiện diện trong khu vực tiến hành tập trận không quân và hải quân, trong vùng gần bãi thử tên lửa khi phóng tên lửa và dọc theo tất cả các bờ biển nơi bố trí các radar của các nước NATO.
AGI khá ấn tượng về trọng tải, tầm hoạt động và độ dài thời gian đi biển, v.v. Ví dụ, tàu lớp “Primorye” có lượng rẽ nước 5.000 tấn, một số lượng lớn các ăng-ten trên các cột buồm và cấu trúc thượng tầng, còn dưới boong tàu có hai khoang lớn, trong đó có thể bố trí các thiết bị điện tử để phân tích các tín hiệu chặn thu được. Chúng cũng sở hữu một số lượng lớn các máy phát và máy thu để đánh chặn tất cả các thông tin liên lạc vô tuyến giữa các tàu của NATO và BCH NATO; bản thân chúng có thể liên lạc với Tổng tư lệnh Hải quân Liên Xô, hoặc một cách trực tiếp hoặc thông qua vệ tinh. Các lớp tàu khác gây ấn tượng không chỉ về số lượng mà còn là chất lượng của các thiết bị điện tử, đó là tàu thuộc các lớp “Hải đăng” và “Đại dương”.
Một ví dụ cổ điển của hoạt động ứng dụng rộng rãi đối kháng điện tử trong các chiến dịch thời bình là cuộc xâm lược Tiệp Khắc của các nước cộng sản khối Hiệp ước Warsaw, chủ yếu là Liên Xô, vào đêm từ 20 sang ngày 21 tháng 8 năm 1968.
Một thời gian ngắn trước cuộc xâm lược, để che giấu sự tập trung xe bọc thép dọc theo biên giới Tiệp Khắc, người Nga tổ chức gây nhiễu rất mạnh ở tất cả các tần số hoạt động của các radar giám sát của Tiệp Khắc và khối NATO tại Trung Âu. Họ sử dụng cho mục đích này một số lượng lớn thiết bị gây nhiễu: Mound Brick, Tube Brick и Cheese Brick theo phân loại của NATO. Chúng được đặt trên các xe ô tô và chế áp toàn bộ phổ tần số hoạt động của các loại radar nói trên. Máy phát nhiễu phương tiện thông tin liên lạc R-118 cũng được dùng vào mục đích đó, chúng được gắn trên các xe bánh xích, và không cho phép các khí tài thông tin liên lạc của Tiệp Khắc và khối NATO làm việc, hoặc ít nhất là cản trở sự hoạt động của các phương tiện ấy.
Ngoài thiết bị gây nhiễu đó ra, trong đêm xâm lược, người Nga sử dụng một số lượng lớn PRLO để làm mù hoàn toàn màn hình radar Tiệp Khắc và NATO. Kết quả là, không ai biết gì về các xe tăng đang tiến công và các máy bay vận tải khổng lồ đang đổ bộ binh sĩ xuống các sân bay tại Prague và các thành phố khác ở Tiệp Khắc. Người Nga đã thành công trong việc che dấu tất cả các radar lân cận về sự hiện diện một khối lượng lớn xe máy kỹ thuật của đội quân xâm lược đang triển khai, và như vậy họ đã tối đa hóa yếu tố bất ngờ và sự an toàn của mình ở tất cả các giai đoạn của chiến dịch. Tóm lại, chiến dịch gây nhiễu đã hoàn toàn làm tê liệt mọi nỗ lực kháng cự, vì người Tiệp đơn giản là không biết những gì đang xảy ra.
Thế giới được đặt trước sự việc đã rồi. Các nước Tây Âu và Hoa Kỳ chẳng thể làm gì hơn là tuân theo một chính sách thận trọng không can thiệp và thể hiện một loạt các lời phản đối và buộc tội. Chính phủ Mỹ cũng ra tuyên bố phản đối, rằng Liên Xô đã gây khó dễ bằng cách gây nhiễu đài “Voice of America” phát vào các nước khối Đông Âu.
Tuy nhiên, cuộc xâm lược Tiệp Khắc bắt người Mỹ và các đồng minh của họ hiểu rằng, kiến thức của họ về khả năng tác chiến điện tử của người Nga còn nhiều thiếu sót. Do đó, họ ngay lập tức tăng cường các hoạt động tình báo dọc theo biên giới của khối Hiệp ước Warsaw.
B###• Sự gia tăng mạnh mẽ khả năng tác chiến điện tử của Liên Xô.
Việc sử dụng gần như hoàn hảo đối kháng điện tử (ECW) của người Nga trong cuộc xâm lược Tiệp Khắc là một bất ngờ thực sự cho phương Tây, nó cho thấy tầm quan trọng mà người Nga dành cho EW và mức tiến bộ mà họ đã đạt được trong lĩnh vực này.
Tuy nhiên, những người đã đọc cuốn sách “Chiến lược quân sự của Liên Xô” của Nguyên soái V.D.Sokolovsky xuất bản một vài năm trước đó, sẽ không quá ngạc nhiên. Trong cuốn sách này, cựu thứ trưởng quốc phòng Liên Xô xác định rõ ràng vai trò EW trong chiến lược của Liên Xô. Ông xác định các nhiệm vụ cơ bản của EW như cản trở việc sử dụng hiệu quả quang phổ điện từ của kẻ thù để bảo vệ khí tài của mình trước ECM của đối phương. Ông viết rằng, bây giờ, việc sử dụng ECW và phản ECW đã trở thành phổ biến, ứng dụng của chúng rất quan trọng, và những phát triển trong lĩnh vực thiết bị điện tử hiện nay là ngang bằng về tầm quan trọng với các phát triển trong lĩnh vực tên lửa và vũ khí hạt nhân, mà tự nó sẽ ít có ý nghĩa nếu không có thiết bị điện tử.
Cơ cấu tổ chức tác chiến điện tử ở Liên Xô rất phức tạp và trách nhiệm về nó thuộc hai cơ quan lớn: KGB và GRU.
KGB là cơ quan cấp cao nhất trong số đó, nó nằm dưới sự giám sát trực tiếp của Chính phủ. Nó thu thập tất cả các loại thông tin liên quan đến an ninh quốc gia bằng tất cả các phương tiện sẵn có, từ các điệp viên thông thường đến các vệ tinh nhân tạo, từ các trạm chặn thu mặt đất tới các trạm thiết lập trong các đại sứ quán và lãnh sự quán ở nước ngoài. Nó bao gồm bốn Tổng cục, bảy Cục độc lập và sáu ban đặc biệt. KGB có một lượng nhân lực dồi dào và nguồn vật lực rất lớn.
GRU, đến lượt nó, trực thuộc Tổng tư lệnh các quân binh chủng và hoạt động gần như độc quyền trong lĩnh vực quân sự. Tương tự các cơ quan tình báo phương Tây, nó thu thập thông tin hoạt động quân sự và thông tin kỹ thuật liên quan đến các hệ thống vũ khí, chiến thuật sử dụng và trường vô tuyến điện tử của các quốc gia thù địch tiềm tàng.
Phục vụ cho các hoạt động EW của mình, người Nga sử dụng rộng rãi các radar lắp đặt trên máy bay, vì lý do dễ hiểu là tầm hoạt động xa của chúng. Rất nhiều kiểu loại và số lượng các máy bay khác nhau được sửa đổi để tiến hành chiến tranh điện tử. Đầu tiên người ta sử dụng các máy bay dân sự, chẳng hạn như chiếc máy bay hai động cơ Il-14 đi vào phục vụ năm 1954 với tư cách một loại máy bay chở khách và máy bay tuabin cánh quạt An-12 đi vào phục vụ với tư cách máy bay vận tải năm 1959. An-12 đã được sử dụng một thời gian tại Ai Cập để thu nhận thông tin về các hệ thống điện tử của Israel.
Ngoài ra, để tiến hành tác chiến điện tử, người ta cũng cải tạo một số loại máy bay tiêm kích-ném bom. Một trong những máy bay đầu tiên là MiG-21, mang một container chứa các thiết bị điện tử treo dưới thân máy bay.
Một máy bay tiêm kích-ném bom khác được sử dụng để tiến hành chiến tranh điện tử là MiG-25. Đặc tính hiệu suất cao của máy bay là một bất ngờ khó chịu cho người Mỹ và Tây Âu, khi nó bắt đầu vượt qua các thử nghiệm bay vào giữa thập niên 60. Nó có thể bay ở độ cao lớn trong một thời gian ngắn với tốc độ 3,2 M (hơn 3 lần tốc độ âm thanh), mặc dù tốc độ cận âm trên mực nước biển, nó có trần bay 24.400 m và dường như tất cả các tham số đều trội hơn toàn bộ các loại máy bay tương tự của phương Tây. Phiên bản của nó làm nhiệm vụ trinh sát ảnh / giám sát điện tử ra đời năm 1971. Thiết bị chụp ảnh hoàn hảo của nó, camera hồng ngoại với đường quét khai triển theo dòng, radar quét cạnh và các trang thiết bị điện tử khác gây cho các cơ quan tình báo phương Tây rất nhiều sự tò mò và quan tâm.
MiG-25 thường xuyên thực hiện các chuyến bay trên bầu trời Trung Quốc và Trung Cận Đông. Trong cuộc chiến tranh Yom Kippur năm 1973, Israel đã cố gắng nhiều lần đánh chặn chúng bằng cách sử dụng các máy bay đánh chặn F-4 Phantom trang bị tên lửa tầm trung của AIM-7 Sparrow, nhưng không thể đến đủ gần để có thể bắn rơi MiG-25. Hơn nữa, nỗ lực của các cơ quan tình báo phương Tây nhằm có được thông tin về loại máy bay này đều kết thúc không thành công vì các sân bay căn cứ của chúng là đối tượng an ninh chiến lược. Máy bay loại này là “điều cấm kỵ” ngay cả với bản thân người Nga, còn trong các tài liệu chính thức nó được gọi là “Sản phẩm 84”.
Tuy nhiên, chính phi công Nga có tên Viktor Belenko lại là người thỏa mãn sự thèm muốn của tình báo phương Tây trong việc tìm hiểu nhiều hơn về chiếc máy bay này. Vào buổi sáng ngày 6 tháng 9 năm 1976, Belenko đã hạ cánh xuống sân bay Nhật Bản Hakodate chiếc máy bay MiG-25 của mình, trước đó cất cánh từ căn cứ không quân một Sakazovka, cách Vlapostok thuộc Siberia190 km về phía bắc. Đã có nhiều phi công Liên Xô trốn sang phương Tây trên máy bay của họ, nhưng chiếc máy bay mà trên đó Belenko bay đi trốn là một trường hợp rất đặc biệt! Các chuyên gia vội vàng từ Mỹ bay sang Hakodate, để nghiên cứu trang thiết bị của máy bay. Họ tháo dỡ radar của nó (tên NATO phân loại là Fay Bird, hoạt động ở tần số từ 12,88 và 13,2 GHz), RWR (tên phân loại của NATO Sirena III), thiết bị ECW và các panel cách điện phần mũi để hấp thụ bức xạ radar. Tất cả những thứ đó trở thành đối tượng của các nghiên cứu và phân tích kỹ lưỡng nhất.
o O o
Vào cuối năm 1976, các thông tin về đặc tính của trang thiết bị trên MiG-25 đã được tất cả các BCH của khối NATO biết rõ, và máy bay Liên Xô đã không còn là mối de dọa với các phi công phương Tây nữa.
Tuy nhiên, việc so sánh MiG-25 với các máy bay tương tự của Mỹ và châu Âu đã chỉ ra rằng công nghệ của Nga trong lĩnh vực này, cả trong các thiết kế cơ bản lẫn thiết bị điện tử, còn kém nhiều so với phương Tây.
Loại máy bay mà đất nước Xô Viết thường xuyên sử dụng nhất cho công tác trinh sát điện tử là các máy bay ném bom nổi tiếng M-4 KB Myasishchev và Tupolev Tu-16. Loại sau, có các biến thể F và H theo phân loại của NATO, hiện vẫn đang được sử dụng để thu thập thông tin. Nó mang được một tải trọng rất ấn tượng các thiết bị điện tử và quang điện tử, như ta có thể đánh giá qua số lượng lớn các ăng-ten (khoảng một chục) được giấu sau các bầu che nhô từ mọi phía trên thân máy bay. Phiên bản mới nhất, Badger-H, còn mang thêm RWR Sirena III và thiết bị trinh sát điện tử thụ động (ESM), cũng được trang bị máy phát nhiễu cho hoạt động đối kháng điện tử, và do đó có thể được sử dụng để đảm bảo gây nhiễu cho các cuộc không kích của máy bay ném bom.
Một gương mặt thực thụ nữa trong cuộc chiến tranh điện tử giữa Nga và NATO là phiên bản máy bay ném bom hạng nặng Tu-95 dành cho trinh sát điện tử và trinh sát ven biển – Tu-95RT (NATO phân loại Bear-D). Máy bay này có bốn động cơ và phạm vi hoạt động không cần tiếp nhiên liệu là 13.500 km. Trong các cuộc khủng hoảng quốc tế, người ta thường thấy nó bay trên các “điểm nóng” của thế giới để theo dõi tình hình. Chính phủ Mỹ thường hay phàn nàn về sự hiện diện của nó trên vùng biển Caribbean. Rõ ràng chúng có mặt ở đó là để đánh chặn bức xạ điện từ các radar hải quân mới trên tàu chiến Mỹ, và đôi khi thậm chí nó còn chế áp các radar gần đó của Bộ Chỉ huy Không lực Mỹ.