← Quay lại trang sách

Chương 1

Trong khi đi ngược lên Đại lộ số Năm vào lúc nửa đêm, Spofforth bắt đầu huýt sáo. Ông không biết tên của giai điệu, và cũng không muốn biết. Đó là một điệu nhạc phức tạp mà ông thường huýt sáo khi ở một mình. Ngực trần và chân không giày, trên người ông mặc độc quần kaki dài. Bàn chân ông có thể cảm thấy những viên đá lát đường đã mòn nhẵn. Bước đi giữa đại lộ rộng lớn, Spofforth trông thấy nhiều bụi cỏ cao và cây dại mọc hai bên đường, nơi vỉa hè bị nứt vỡ lâu ngày đang chờ những cuộc trùng tu không bao giờ được thực hiện. Từ những mảng cây cỏ ấy vang lên bản hòa ca của những con côn trùng kêu râm ran và giũ cánh. Những âm thanh đó khiến ông khó chịu như mọi khi, vào thời điểm này trong năm - mùa Xuân. Ông đút hai bàn tay to lớn của mình vào túi quần. Sau đó, thấy bất tiện, ông lại rút chúng ra và bắt đầu sải chân chạy những bước dài, thanh thoát, mạnh mẽ, hướng về phía hình bóng đồ sộ của tòa nhà Empire State.

Cửa ra vào tòa nhà có mắt quan sát và giọng nói, nhưng trí não nó là của một thằng khờ - hạn hẹp và vô cảm.

- Đang đóng cửa sửa chữa. - Giọng nói thông báo với Spofforth khi ông đến gần.

- Câm mồm lại và mở cửa ra. - Spofforth đáp, đoạn nói tiếp. - Ta là Robert Spofforth. Lớp Chín.

- Xin lỗi ngài. - Cánh cửa đáp. - Tôi không thấy...

- Hừm. Mở ra đi. Và bảo cái thang siêu tốc xuống đây đón ta.

Cánh cửa im lặng trong giây lát, trước khi đáp:

- Thang máy không còn hoạt động, thưa ngài.

- Mẹ kiếp. - Spofforth thốt lên. - Ta đi bộ lên vậy.

Cánh cửa mở ra và Spofforth đi vào. Ông băng qua hành lang tối om để tiến đến cầu thang bộ. Ngắt các mạch báo đau ở chân và phổi, ông bắt đầu leo lên. Thôi không huýt sáo nữa, đầu óc tinh vi của ông giờ đây chỉ tập trung vào ý định thường niên của mình.

Khi ra đến rìa sân thượng, tại nơi cao nhất thành phố mà người ta có thể đứng, Spofforth mở luồng tín hiệu cho những sợi dây thần kinh ở chân, và cơn đau ập tới. Nó làm ông hơi loạng choạng, một mình trên cao giữa màn đêm không trăng và những ánh sao mờ. Bề mặt dưới chân ông nhẵn nhụi, trơn bóng. Nhiều năm về trước, có lần Spofforth đã suýt trượt chân. Giá mà chuyện đó xảy ra một lần nữa, ngay tại mép sân này , ông thất vọng nghĩ thầm. Nhưng điều đó đã không xảy ra.

Spofforth đi tới cách mép sân thượng vài centimet, và không hề có tín hiệu thần kinh, không chủ ý, trái với mong muốn, đôi chân ông bỗng ngừng di chuyển. Ông thấy mình bất động như mọi khi, đối diện với Đại lộ số Năm, cách mặt đường đầy mời gọi của nó hàng trăm mét từ trên cao. Ông cúi người trong sự tuyệt vọng, tập trung ý chí vào nỗ lực ngã tới trước, chỉ để đưa cơ thể mạnh mẽ và đồ sộ của mình, cái cơ thể được chế tạo trong nhà máy, ra khỏi tòa cao ốc, xa lìa cuộc sống. Ông gào thét trong lòng đòi được di chuyển, hình dung bản thân ngã lộn nhào, trong một chuyển động chậm rãi, duyên dáng và chắc chắn, xuống con đường bên dưới. Ông khao khát điều đó.

Nhưng cơ thể ông không phải, và cũng không bao giờ là của ông, Spofforth thừa hiểu như vậy. Ông được chế tạo bởi con người, chỉ một con người mới có thể làm ông chết đi. Ông hét lên thật to, quăng quật hai tay, trút giận vào thành phố câm lặng. Nhưng ông không tài nào di chuyển tới trước.

Spofforth đứng đó, đơn độc trên đỉnh tòa nhà cao nhất thế giới, bất động trong suốt phần còn lại của cái đêm tháng Sáu. Thỉnh thoảng hai luồng đèn của một chiếc xe buýt giao cảm lại xuất hiện phía dưới, hơi lớn hơn những ngôi sao một chút, và chậm rãi di chuyển ngược xuôi trên những đại lộ của một đô thị trống rỗng. Không có ánh đèn nào được bật sáng trên các tòa nhà.

Thế rồi, khi vầng dương bắt đầu chiếu sáng vùng trời trên sông Đông và khu Brooklyn nơi không còn cây cầu nào dẫn tới, sự giận dữ Spofforth nguôi ngoai dần. Nếu được trang bị các tuyến lệ, chắc ông đã rơi nước mắt, nhưng ông không thể khóc. Bầu trời sáng rõ hơn giúp ông nhìn thấy đường nét của những chiếc xe buýt trống rỗng bên dưới. Ông có thể thấy một chiếc xe Tầm soát di chuyển dọc theo Đại lộ số Ba. Vầng dương nhợt nhạt của bầu trời tháng Sáu bừng nở trên khu Brooklyn vắng lặng, lấp lánh phản chiếu qua mặt nước sông trong lành như thuở bình minh của nhân loại. Spofforth lui lại một bước, xa khỏi cái chết mà ông đã tìm đến và luôn tìm kiếm suốt cuộc đời mình. Cơn thịnh nộ choán đầy tâm trí ông bắt đầu lắng xuống cùng với vầng mặt trời đang mọc lên. Ông sẽ tiếp tục sống, và ông có thể chịu đựng chuyện này.

Spofforth đi xuống cầu thang bụi bặm, lúc đầu còn tương đối chậm rãi, nhưng khi xuống đến sảnh, những bước chân của ông đã lại thoăn thoắt tự tin, đầy sức sống nhân tạo.

Khi rời khỏi tòa nhà, ông nói với cái cửa:

- Đừng có sửa thang máy nhé. Ta thích leo thang bộ.

- Vâng, thưa ngài. - Nó đáp.

Phía bên ngoài, mặt trời đã sáng rực, và đường phố lác đác vài người. Một bà già da đen mặc chiếc váy xanh nhạt vô tình chạm nhẹ khuỷu tay Spofforth và ngước nhìn ông với vẻ mặt lơ đãng. Khi nhìn thấy dấu hiệu của một robot Lớp Chín, bà ta lập tức ngoảnh đi và nói lí nhí:

- Tôi xin lỗi. Tôi rất xin lỗi, thưa ngài.

Bà ta bối rối đứng cạnh Spofforth. Có lẽ bà ta chưa từng nhìn thấy một robot Lớp Chín và chỉ biết đến họ trong chương trình đào tạo trước kia của mình.

- Bà đi tiếp đi. - Ông dịu dàng nói. - Không có chuyện gì đâu.

- Vâng, thưa ngài.

Bà già lục lọi trong túi váy, lôi ra một liều mê dược và nuốt chửng. Sau đó bà ta quay gót, quày quả bước đi.

Spofforth đi bộ thoăn thoắt dưới nắng về quảng trường Washington, hướng tới Đại học New York, nơi ông làm việc. Cơ thể ông không bao giờ mệt mỏi. Chỉ có tâm trí - bộ não tinh vi, phức tạp và thông thái của ông - là hiểu được ý nghĩa của sự mệt mỏi. Tầm trí ông luôn luôn mệt mỏi.

Bộ não của Spofforth được chế tạo bằng kim loại, còn cơ thể ông được phát triển từ mô sống vào cái thời cách đây đã khá lâu, khi ngành cơ khí tuột dốc nhưng việc sản xuất robot lại là một môn nghệ thuật cao cấp. Thứ nghệ thuật đó nhanh chóng suy tàn, để lại thành tựu to lớn nhất là ông. Spofforth là robot cuối cùng của một trăm robot Lớp Chín, những tạo vật mạnh mẽ và thông minh nhất mà con người từng làm ra. Ông cũng là robot duy nhất được lập trình để duy trì sự sống bất chấp mong muốn của bản thân.

Một công nghệ từng tồn tại đã giúp ghi lại mọi kết nối thần kinh, mọi mô thức học tập của một bộ não người trưởng thành để chuyển giao cho bộ não robot. Công nghệ này chỉ được sử dụng cho loạt robot Lớp Chín. Các robot trong loạt này được trang bị những bản sao có điều chỉnh của bộ não một người đàn ông. Người này là một kĩ sư kiệt xuất và đa cảm tên Paisley, nhưng Spofforth không hề quen biết ông ta. Mạng lưới những thông tin và kết nối trong bộ não của Paisley đã được ghi vào băng từ rồi cất trong một két an toàn tại Cleveland. Nhân cách, óc tưởng tượng, cũng như mọi kiến thức của ông ta đã được ghi lại vào năm ông ta bốn mươi ba tuổi, sau đó ông ta rơi vào quên lãng.

Những đoạn băng đã được biên tập lại. Tính cách được xóa tối đa sao cho không ảnh hưởng tới các chức năng “hữu ích”. Chỉ có điều những gì “hữu ích” trong một bộ não lại được quyết định bởi những kĩ sư kém trí tưởng tượng hơn bản thân Paisley. Kí ức của cuộc sống bị xóa đi, và cùng với nó là phần lớn những điều được học hỏi, mặc dù cấu trúc và vốn từ Anh ngữ vẫn được giữ lại. Sau khi biên tập, những đoạn băng chứa một bản sao gần như hoàn hảo của một phép màu tiến hóa - bộ não người. Nhưng một số thứ không mong muốn của Paisley vẫn còn sót lại. Chẳng hạn như khả năng chơi đàn piano, vốn cần một cơ thể có các cánh tay và bàn tay để biểu diễn. Ngoài ra, khi cơ thể robot của ông được chế tạo thì đàn piano đã không còn tồn tại.

Nằm ngoài mong muốn của các kĩ sư tham gia công đoạn sao chép, nhưng không thể tránh khỏi, là những giấc mơ, những khát vọng và mối lo âu vụn vặt. Không có cách nào xóa sạch chúng khỏi các đoạn băng mà không làm tổn hại các chức năng khác.

Dữ liệu sao chép được chuyển vào một quả cầu bạc có đường kính hai mươi ba centimet tạo thành từ hàng ngàn lớp nickel-vanadium cán mỏng và tạo hình bởi các thiết bị tự động hóa. Quả cầu được lắp vào cái đầu của một cơ thể nhân bản chuyên biệt cho nó.

Cơ thể được phát triển một cách cẩn thận trong một bồn thép ở nơi từng là một nhà máy xe hơi tại Cleveland. Kết quả thật hoàn hảo - cao lớn, khỏe mạnh, cường tráng, đẹp đẽ. Đó là cơ thể của một người đàn ông da đen ở giai đoạn rực rỡ nhất trong đời, với những khối cơ sắc nét, phổi và tim khỏe, mái tóc quăn đen nhánh, mắt sáng, cái miệng đẹp với đôi môi dày, và hai bàn tay lớn.

Một số thuộc tính con người cũng được thay đổi: Quá trình lão hóa được lập trình để dừng lại ở ngưỡng phát triển thể chất của tuổi ba mươi, sau bốn năm trong bồn thép. Nó được trang bị để kiểm soát đáp ứng đau của bản thân, và tái sinh trong giới hạn. Chẳng hạn như nó có thể tiếp tục mọc răng mới, ngón tay hoặc ngón chân mới, nếu cần. Nó sẽ không bao giờ bị hói đầu hay mờ mắt, đục thủy tinh thể, xơ vữa mạch máu, viêm khớp. Nó, theo như lời tuyên bố tự hào của các kĩ sư di truyền, là một sự cải tiến công trình của Chúa. Nhưng vì không ai trong số họ có Chúa hiện hữu, lời tự khen ấy nghe thật sai trái.

Cơ thể của Spofforth không có cơ quan sinh dục. “Để tránh xao nhãng,” một trong các kĩ sư đã nói như thế. Vành tai ở hai bên chiếc đầu tuyệt mĩ có màu đen tuyền, nhằm thông báo với bất kì người nào có thể bị kinh ngạc trước sự mô phỏng này rằng ông, xét cho cùng, chỉ là một con robot.

Cũng giống như quái vật Frankenstein, ông được kích hoạt bằng sốc điện. Ông bước ra khỏi bồn thép với cơ thể đã phát triển hoàn chỉnh và có thể nói được ngay, dù lúc đầu hơi ngọng nghịu. Tại cái phân xưởng rộng lớn và lộn xộn nơi ông được đánh thức đó, đôi mắt đen của ông nhìn quanh với sự sinh động và háo hức. Ông đang nằm trên một chiếc băng ca khi lần đầu tiên trải nghiệm sức mạnh của ý thức như một làn sóng trùm lên thân xác vừa ra đời, trở thành ông. Cổ họng co thắt của ông tắc nghẹn, rồi cất tiếng khóc với toàn bộ sức lực - sức lực để tồn tại trên đời.

Ông đã được đặt tên là Spofforth bởi một trong số ít những người còn biết đọc chữ. Cái tên được lấy ngẫu nhiên từ trong một cuốn danh bạ điện thoại của Cleveland: Robert Spofforth. Ông là robot Lớp Chín, cỗ máy hoàn chỉnh tinh vi nhất từng được chế tạo bởi con người.

Một phần trong chương trình đào tạo năm đầu tiên của ông bao gồm việc giám sát hành lang và làm vài việc lặt vặt tại một trường nội trú. Tại đó các thanh niên được dạy những qui định của thế giới mà họ đang sống: Sự hướng nội, Quyền Riêng tư, Sự tự hoàn thiện, Khoái cảm. Chính tại đó, ông đã nhìn thấy cô gái mặc áo choàng đỏ và đem lòng yêu.

⚝ ✽ ⚝

Suốt từ mùa Đông sang đến đầu Xuân, cô gái luôn mặc chiếc áo choàng đỏ thắm phối nhung đen ở ve cổ, màu đen tuyền như than, như mái tóc của cô trên nền lớp da trắng bóc. Màu son đỏ của cô cũng trùng với màu áo. Thời ấy không ai còn đánh son nữa, và việc cô sở hữu vài thỏi son là cả một phép màu. Cô nom thật đẹp khi đánh son. Lần đầu tiên Spofforth trông thấy cô là vào ngày thứ ba ông làm việc tại trường nội trú. Khi đó cô mười bảy tuổi. Tâm trí ông đã lập tức lưu giữ vĩnh viễn hình ảnh cô. Hình ảnh này đã trở thành một phần chính trong nỗi buồn mà, giữa tiết Xuân tháng Sáu, bắt đầu ngấm sâu vào cơ thể nhân tạo mạnh mẽ của ông.

Lúc được một năm tuổi, Spofforth đã hiểu được cơ học lượng tử, công nghệ robot, và lịch sử các tập đoàn nhà nước ở Bắc Mĩ - tất cả đều được dạy với phương pháp nghe nhìn bởi các robot giáo viên - nhưng ông không biết đọc. Ông cũng không biết tí gì về tình dục, mặc dù có những khao khát mơ hồ trong thứ từng được gọi là trái tim của ông. Thi thoảng, lúc ở một mình trong bóng tối, bụng ông lại nôn nao một cách phiền toái trong vài giây. Ông bắt đầu biết được ở đâu đó trong mình có một cuộc sống bị chôn vùi, một cuộc sống của các cảm xúc. Vào những đêm ấm áp của tháng Sáu đầu tiên trong đời, ông cảm thấy khó chịu thực sự về nó. Ông lang thang từ tòa nhà này sang tòa nhà khác, lắng tai nghe tiếng côn trùng kêu rả rích, và trong màn đêm yên ả của Ohio, ông cảm thấy một sức ép khó chịu trong lồng ngực. Ông đã làm việc cật lực tại trường nội trú, làm nhiều đầu việc chân tay của thứ được gọi là “huấn luyện”, nhưng công việc hiếm khi thu hút được sự chú ý của ông, và sự u uất bắt đầu len lỏi vào đầu ông.

Thỉnh thoảng một số lao công Lớp Bốn bị lỗi, và hình như chẳng bao giờ có đủ máy móc sửa chữa để xử lí các hỏng hóc lặt vặt ấy. Vài người già được giữ lại để lấp vào chỗ trống khi chuyện đó xảy ra. Một trong số họ là ông già tàn tạ tên Arthur, người thường xuyên bốc mùi rượu gin tổng hợp và chẳng bao giờ mang vớ. Ông ta luôn bắt chuyện với Spofforth theo cách nửa thân thiện, nửa chế giễu khi họ đi ngang qua nhau trong các hành lang hoặc trên một trong những lối đi rải sỏi ngoài vườn. Có lần, khi Spofforth đang đi thu dọn các gạt tàn thuốc trong căng tin còn Arthur thì quét sàn, ông già ngừng tay, tựa người vào cây chổi và gọi:

- Ê Bob.

Spofforth ngẩng đầu lên.

- Bob này, cậu là một thằng có tâm trạng. Ta không biết bọn họ cũng chế tạo cả các robot có tâm trạng cơ đấy.

Spofforth không rõ liệu mình có đang bị chế nhạo hay không. Ông tiếp tục bê một chồng gạt tàn nhựa đầy ắp những đầu mẩu cần sa của buổi sáng đến chỗ thùng rác lớn trong góc phòng. Các học viên đã rời đi trước đó ít phút để theo học lớp yoga trên truyền hình.

- Chưa từng thấy robot buồn bã nào trước đây á. - Arthur nói. - Có phải do cặp tai đen thui đó không vậy?

- Tôi là robot Lớp Chín. - Spofforth biện minh.

Lúc đó ông còn trẻ, và việc trò chuyện với con người có thể làm ông cảm thấy không thoải mái.

- Chín cơ à! - Arthur thốt lên. - Khá cao cấp, đúng không? Andy chết tiệt điều hành ngôi trường này chỉ mới là Lớp Bảy thôi đấy.

- Andy? - Spofforth hỏi lại, vẫn với chồng gạt tàn trên tay.

- Ờ. Android ấy. Andy là biệt danh mà bọn tôi gọi các cậu hồi tôi còn nhỏ. Hồi đó các cậu chưa nhiều. Cũng chẳng thông minh cho lắm.

- Chuyện đó làm ông thấy phiền à? Chuyện tôi thông minh ấy?

- Không. - Arthur đáp. - Mẹ kiếp, không hề. Ngày nay con người ta ngu dốt đến phát khóc lên được. - Ông già nhìn đi nơi khác, và đẩy nhẹ cây chổi. - Thông minh là thông minh. Tôi mừng vì quanh đây vẫn còn vài kẻ thông minh.

Nói đoạn ông già ngừng quét sàn và phác một cử chỉ hờ hững quanh gian phòng rộng lớn vắng vẻ, như thể các học viên vẫn còn ở đó.

- Tôi không muốn bất kì người nào trong số những thằng mù chữ đó lên làm lãnh đạo sau khi rời khỏi đây. - Khuôn mặt nhăn nheo của ông già tỏ rõ sự khinh bỉ. - Một lũ đần độn bị thôi miên. Rặt những đứa làm biếng. Người ta nên gây mê và nhét thuốc vào mồm chúng nó.

Spofforth không đáp. Có một điều gì đó khiến ông đồng cảm với ông già - mầm mống của một mối quan hệ. Nhưng ông không có chút cảm xúc nào đối với những thanh niên được huấn luyện và dạy văn hóa tại đây.

Ông chẳng có ý niệm cảm xúc nào đối với họ, những nhóm người thường xuyên đờ đẫn, chậm chạp và lầm lì đi từ lớp học này sang lớp học khác, hoặc ngồi một mình trong phòng cá nhân để hút cần và xem những hoa văn trừu tượng trên thiết bị trình chiếu chỉ bé bằng cái ví, tai nghe thứ âm nhạc vô hồn, ru ngủ phát ra từ loa. Tuy nhiên, trong tâm trí ông gần như luôn ngự trị hình ảnh một người - cô gái khoác áo choàng đỏ. Cô đã mặc chiếc áo cũ đó suốt mùa Đông, và vẫn tiếp tục mặc nó vào các đêm Xuân. Đó không phải là khác biệt duy nhất nơi cô. Đôi khi trên khuôn mặt cô có một vẻ lẳng lơ, tự luyến, phù phiếm, khác hẳn những người còn lại. Tất cả bọn họ đều được yêu cầu phát triển “một cách cá nhân”, nhưng ai cũng có vẻ ngoài và cử chỉ giống nhau, với giọng nói lí nhí và khuôn mặt vô cảm. Cô thì đánh hông khi bước đi, thỉnh thoảng còn cười lớn trong khi những người khác im lặng thu mình. Làn da cô trắng như sữa, và mái tóc cô đen như than.

Spofforth thường xuyên nghĩ đến cô. Đôi khi, nhìn thấy cô trên đường đến lớp, lẻ loi dù được vây quanh bởi những người khác, ông những muốn bước lại gần và chạm nhẹ vào cô, đặt bàn tay to lớn của mình lên vai cô và giữ nó ở đó một lúc, cảm nhận sự ấm áp của nó. Đôi khi ông cảm thấy dường như cô đang nhìn mình bằng đôi mắt cụp xuống, thích thú cười nhạo ông. Nhưng họ không bao giờ bắt chuyện.

- Mẹ kiếp! - Arthur nói tiếp. - Ba chục năm nữa đám robot các cậu sẽ vận hành mọi thứ, con người sẽ không thể tự mình làm cái quái gì được nữa.

Spofforth bèn đáp:

- Tôi đang được đào tạo để điều hành các tập đoàn

Arthur nhìn ông với ánh mắt sắc lẻm, rồi bật cười.

- Bằng cách đi đổ gạt tàn à? Mẹ kiếp! - Ông già lại bắt đầu quét, ấn mạnh cây chổi lớn xuống sàn nhà tráng nhựa. - Ta không biết họ có thể đi lừa một con robot. Lại còn là Lớp Chín nữa chứ.

Spofforth đứng đó với chồng gạt tàn trên tay suốt một phút, mắt nhìn ông già. Chẳng ai lừa tôi cả , ông đã nhủ thầm như thế. Tôi có một cuộc đời phải sống .

⚝ ✽ ⚝

Vào một đêm tháng Sáu sau cuộc nói chuyện với Arthur một tuần, Spofforth đang đi ngang qua tòa nhà Nghe-Nhìn dưới ánh trăng thì nghe thấy tiếng sột soạt phía sau bụi rậm bị quên cắt tỉa gần đó. Có tiếng rên của một người đàn ông tiếp nối bằng những tiếng sột soạt khác.

Spofforth dừng chân và nghe ngóng. Có gì đó đang chuyển động, lúc này khẽ khàng hơn. Ông quay người đi vài bước cho đến khi đứng ngay trước bụi rậm um tùm, và nhẹ nhàng vạch đám cây cối ra. Khi nhìn thấy cảnh tượng đó, ông khựng lại, ngây người quan sát.

Nằm ngửa phía sau bụi cây là cô gái, với chiếc váy đầm được kéo lên quá eo. Một thanh niên trần truồng, béo tốt đang cưỡi lên người cô ta. Spofforth có thể nhìn thấy những nốt ruồi màu nâu trên làn da hồng hào, giữa hai bả vai của anh ta. Ông cũng nhìn thấy lớp lông mu của cô gái bên dưới đùi của người thanh niên - những sợi lông loăn xoăn đen nhánh trên cặp đùi nuột nà và bờ mông trắng phau, chúng cũng đen như mái tóc, như diềm cổ của chiếc áo choàng màu đỏ mà cô ta đang nằm lên.

Nhìn thấy Spofforth, khuôn mặt cô gái bỗng sa sầm và tỏ vẻ kinh tởm. Cô ta nói với ông, lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng:

- Cút đi, robot! - Cô kêu lên. - Thằng robot chó đẻ! Để bọn tao yên!

Với một bàn tay bấu chặt trái tim nhân bản của mình, Spofforth quay gót và bỏ đi. Chính tại nơi đó ông đã học được một điều mà ông sẽ biết trong suốt phần đời còn lại của mình: Ông không thực sự muốn sống. Ông đã bị lừa - một cách tàn nhẫn - về một cuộc đời thực sự của một con người. Có gì đó trong Spofforth phản kháng lại việc sống cuộc đời đã được gán cho mình.

⚝ ✽ ⚝

Spofforth còn gặp lại cô gái vài lần nữa, nhưng cô ta luôn lảng tránh ánh mắt của ông. Không phải vì xấu hổ, ông biết, tình dục với họ chẳng có gì là xấu hổ cả. “Tình dục chớp nhoáng là tốt nhất”, họ đã được dạy để tin và làm theo như vậy.

Spofforth thấy nhẹ lòng khi được điều từ trường nội trú sang một vị trí công việc có trách nhiệm cao hơn, phụ trách phân phối các sản phẩm sữa tổng hợp tại Akron. Sau đó ông được chuyển tới xưởng sản xuất những chiếc xe hơi nhỏ và điều hành việc chế tạo vài ngàn chiếc xe hơi cá nhân cuối cùng từng được lái bởi bộ phận dân chúng hồi đó còn mê xe. Khi công việc chấm dứt, ông trở thành giám đốc của tập đoàn sản xuất những chiếc xe buýt giao cảm. Đó là những phương tiện vận chuyển với sức chứa tám hành khách, được thiết kế phù hợp cho dân số đang suy giảm. Sau đó ông tới New York để đảm nhiệm chức vụ giám đốc chương trình kiểm soát dân số, làm việc tại văn phòng nằm trên đỉnh của một tòa nhà ba mươi hai tầng, ngày ngày nhìn những chiếc máy tính cổ lỗ thống kê và điều chỉnh tỉ suất sinh của con người. Đó là một công việc nhàm chán, ông phải quản lí những thiết bị cứ liên tục bị sự cố mà không có robot nào được lập trình để hiểu được. Về sau ông được giao vị trí trưởng khoa tại Đại học New York. Cỗ máy tính phụ trách điều hành ở đó đã ngừng hoạt động, công việc của Spofforth là thay thế nó và ra những quyết định lặt vặt giúp vận hành một trường đại học.

Ông tình cờ phát hiện đã có một trăm robot Lớp Chín được nhân bản vô tính và hoạt động với bản sao của cùng một tâm trí con người. Ông là robot cuối cùng, và những tinh chỉnh đặc biệt đã được thực hiện với các mối liên kết thần kinh trong bộ óc kim loại của ông để ngăn chặn điều đã xảy ra với tất cả những robot cùng lớp: Tự sát. Một số đã biến bộ óc của mình thành những khối đen sì vô định hình bằng thiết bị hàn điện cao thế. Số khác uống dung dịch ăn mòn. Vài robot trở nên điên loạn hoàn toàn, hoảng loạn đi lang thang, đập phá phố phường vào ban đêm và la hét những câu tục tĩu trước khi bị con người phá hủy. Việc sử dụng bộ não người thật làm hình mẫu cho một robot tinh vi là một thử nghiệm. Nó đã được đánh giá là thất bại, và không có robot nào giống như thế được sản xuất thêm. Các nhà máy vẫn tạo ra những robot đơn giản hơn, một số thuộc Lớp Bảy và Tám, để tiếp quản từ con người ngày càng nhiều những chức vụ trong chính phủ, giáo dục, y tế, pháp luật, kế hoạch hóa và sản xuất, nhưng tất cả đều được trang bị bộ não tổng hợp, phi nhân tính, không có chút gì của cảm xúc, nội tâm hay sự tự nhận thức. Chúng chỉ là những cỗ máy tinh xảo, có hình dạng giống con người, được sản xuất kĩ lưỡng, và làm những điều được lập trình để làm.

Spofforth được lập trình để sống mãi, và cũng được thiết kế để không quên một thứ gì. Đội ngũ thiết kế đã không ngồi lại để ngẫm xem một cuộc sống như vậy sẽ giống điều gì.

Cô gái mặc áo choàng đỏ sau đó già đi, mập lên và ăn nằm với cả trăm người, đẻ vài đứa con, uống bia như hũ chìm, sống một cuộc đời tầm thường, vô mục đích, đồng thời đánh mất vẻ đẹp của mình. Cuối cùng cô ta chết, được chôn cất và rơi vào quên lãng. Còn Spofforth tiếp tục sống, trẻ trung, khỏe mạnh, đẹp đẽ, nhớ mãi hình ảnh cô ở tuổi mười bảy. Trong khi cô ở độ tuổi trung niên, từ lâu đã quên hình ảnh người con gái khêu gợi, hấp dẫn của mình lúc trước. Ông đã thấy cô, đem lòng yêu cô, và ông chỉ muốn chết. Nhưng vài tay kĩ sư vô tâm đã làm cho điều đó trở thành bất khả thi đối với ông.

⚝ ✽ ⚝

Hiệu trưởng và trưởng khoa đang ngồi đợi Spofforth khi ông quay về sau cái đêm tháng Sáu thường niên.

Người nhàm chán hơn trong hai người là hiệu trưởng. Tên của ông ta là Carpenter. Ông ta mặc một bộ đồ bằng vải Synlon màu nâu, đi đôi xăng đan cũ mòn, cái bụng tròn lẳn rung rinh lộ rõ sau lớp áo chật theo mỗi bước đi. Hiệu trưởng đang đứng hút cần bên cạnh bàn làm việc lớn bằng gỗ tếch của Spofforth lúc ông bước vào và nhanh nhẹn tiến đến chỗ ông ta. Carpenter bối rối đứng tránh ra trong khi Spofforth ngồi vào chỗ.

Giây lát sau Spofforth ngước lên nhìn ông ta, không chếch sang phải một chút như phép lịch sự bắt buộc, mà trực diện.

- Buổi sáng tốt lành. - Spofforth nói với chất giọng mạnh mẽ tự tin của mình. - Có vấn đề gì à?

- Ơ... - Carpenter đáp, tỏ ra lúng túng vì câu hỏi. - Tôi cũng không chắc. Ông nghĩ sao, Perry?

Trưởng khoa Perry đưa ngón trỏ lên cạ cạ mũi:

- Có ai đó đã gọi, trưởng khoa Spofforth. Gọi vào đường dây của Đại học. Hai lần.

- Thế à? - Spofforth thốt lên. - Người đó muốn gì?

- Anh ta muốn gặp ông. - Perry đáp. - Về một công việc. Giảng dạy trong dịp Hè...

Spofforth đưa mắt nhìn ông ta:

- Rồi sao?

Perry bối rối ra mặt và lảng tránh ánh mắt của Spofforth.

- Điều mà anh ta muốn dạy là thứ mà tôi không thể hiểu được qua điện thoại. Đó là một thứ mới mẻ... thứ gì đó mà anh ta nói là mới phát hiện cách nay một hoặc hai hoàng . - Perry nhìn quanh cho đến khi bắt gặp ánh mắt của người đàn ông mập mạp mặc bộ đồ màu nâu. - Anh ta đã nói thế nào ấy nhỉ, Carpenter?

- Đọc á? - Hiệu trưởng đáp.

- Phải rồi. - Perry nói. - Đọc . Anh ta bảo là mình có thể đọc được. Chữ nghĩa hay cái gì đó. Anh ta muốn dạy chuyện đó.

Spofforth ngồi thẳng người lại:

- Có người nào đó đã học đọc?

Hai người đàn ông quay mặt đi, xấu hổ vì sự ngạc nhiên trong giọng điệu của Spofforth.

- Hai ông có thu âm lại mẩu đối thoại không vậy? - Spofforth hỏi.

Hai người đàn ông nhìn nhau. Cuối cùng Perry lên tiếng:

- Chúng tôi đã quên mất.

Spofforth cố kiềm chế sự bực bội.

- Anh ta có bảo là sẽ gọi lại hay không?

Perry tỏ ra nhẹ nhõm.

- Có, anh ta có bảo như thế, trưởng khoa Spofforth. Anh ta nói sẽ cố gắng liên lạc với ông.

- Được rồi. - Spofforth nói. - Còn gì nữa không?

- Còn. - Perry đáp, tay lại đưa lên cạ mũi. - Lô bóng bồi học phần thường lệ. Ba sinh viên tự tử. Và bản ghi kế hoạch đóng cửa cánh Tây của học khu Vệ sinh Tâm thần đang được cất ở đâu đó, nhưng đội robot không thể tìm thấy. - Perry có vẻ hài lòng khi báo cáo về một sai sót của các robot nhân viên. - Không một robot Lớp Sáu nào biết về chúng, thưa trưởng khoa.

- Là bởi vì tôi đang giữ chúng, trưởng khoa Perry. - Spofforth đáp.

Ông mở ngăn kéo bàn làm việc và lấy ra một trong những quả bóng thép nhỏ, hay còn gọi là bóng bồi, mà người ta vẫn dùng để ghi âm giọng nói. Ông đưa nó cho Perry.

- Nhét cái này vào một robot Lớp Bảy. Anh ta sẽ biết cần phải làm gì với học khu Vệ sinh Tâm thần.

Perry xấu hổ cầm lấy quả bóng và rời phòng. Carpenter cũng nối gót ông ta. Khi hai người đã đi khỏi, Spofforth ngồi tại bàn một lúc, suy ngẫm về cái tin có người tuyên bố biết đọc. Ông đã nghe nói khá nhiều về việc đọc chữ hồi còn trẻ, và biết kĩ năng ấy đã mất đi trước đó rất lâu. Ông đã từng thấy những cuốn sách - những thứ rất cổ. Vẫn còn sót lại vài cuốn chưa bị phá hủy trong thư viện trường đại học.

Văn phòng của Spofforth rất rộng và tiện nghi. Ông đã tự tay trang trí nó với các bức tranh khắc hình các loài chim biển và một cái tủ trưng bày chạm bằng gỗ sồi mà ông lấy từ một bảo tàng bị giải thể. Trên tủ có một dãy các mô hình robot thu nhỏ, cho thấy phần nào các dạng người máy đã từng được sử dụng trong lịch sử phát triển của ngành nghệ thuật này. Dạng sơ khai nhất, nằm ở rìa trái, là một robot có bánh xe và cơ thể hình trụ, cùng với bốn cánh tay rất thô sơ, lai giữa một thiết bị gia dụng và một sinh vật cơ khí tự hành. Mẫu robot này được làm bằng nhựa Permo và cao khoảng mười sáu centimet. Trong quá trình tồn tại ngắn ngủi của mình, nó được gọi là Wheelie. Nó không còn được sản xuất đã vài thế kỉ nay.

Bên phải Wheelie là một robot có hình dạng giống với con người nhiều hơn và tương đối gần với một mẫu robot thấp cấp hiện nay. Càng nằm về bên phải thì các mẫu robot càng chi tiết và giống con người hơn. Nằm ở đầu mút bên phải là bản sao thu nhỏ của chính Spofforth - tinh xảo, cơ thể con người hoàn chỉnh, đứng thẳng trên hai bàn chân và có đôi mắt sống động của ông, dù chỉ là một mẫu trưng bày.

Một bóng đèn màu đỏ trên bàn làm việc của Spofforth bắt đầu nhấp nháy. Ông ấn vào một cái nút và nói:

- Spofforth đây.

- Tên tôi là Bentley, thưa trưởng khoa. - Giọng nói ở đầu dây bên kia đáp. - Paul Bentley. Tôi gọi tới từ Ohio.

- Có phải anh là người biết đọc chữ? - Spofforth hỏi.

- Vâng. - Giọng nói đáp. - Tôi đã tự học. Tôi có thể đọc được chữ.

⚝ ✽ ⚝

Con khỉ lớn mệt mỏi ngồi trên một chiếc xe buýt lật nghiêng. Thành phố vắng tanh.

Ở trung tâm của màn hình, một cơn lốc xoáy màu trắng xuất hiện và lớn dần. Khi ngừng lại thì nó đã choán hơn một nửa màn hình. Đó là trang nhất của một tờ báo, với một dòng tít to tướng.

Spofforth ngừng máy chiếu khi dòng tít báo đang hiện rõ trên màn hình.

- Đọc đi. - Ông ra lệnh.

Bentley căng thẳng hắng giọng.

- Quái vật khi gieo rắc kinh hoàng trong thành phố. - Anh đọc.

- Tốt. - Spofforth nói, và cho máy chiếu chạy tiếp.

Phần còn lại của bộ phim không có chữ nào xuất hiện. Họ im lặng ngồi xem trò đập phá cuối cùng của con khỉ, màn tỏ tình thất bại, và cái chết của nó, khi con khỉ rơi, gần như lơ lửng, từ tòa nhà cao chọc trời xuống con phố vắng bên dưới.

Spofforth đưa tay bật công tắc, đưa ánh sáng quay lại văn phòng của mình, đồng thời làm cho khung cửa sổ rộng lớn trong suốt trở lại. Căn phòng không còn tối như một phòng chiếu phim nữa. Phía bên ngoài, giữa những bông hoa tươi trên quảng trường Washington, một nhóm sinh viên tốt nghiệp ngồi thành vòng trên bãi cỏ không được cắt tỉa, trong bộ áo thụng bằng vải jean. Khuôn mặt họ trơ lì như tượng đá. Mặt trời đã lên cao trên bầu trời tháng Sáu. Spofforth đưa mắt nhìn Bentley.

- Thưa trưởng khoa, tôi có được giảng dạy không? - Bentley nói.

Spofforth nhìn anh ta chăm chú một lúc, rồi đáp:

- Không. Tôi rất tiếc, chúng tôi không dạy đọc chữ tại ngôi trường này.

Bentley vụng về đứng dậy:

- Tôi xin lỗi. Tôi cứ tưởng...

- Ngồi xuống đi, thầy Bentley. Tôi tin rằng chúng ta có thể sử dụng năng lực của anh, trong mùa Hè này.

Bentley ngồi xuống. Anh căng thẳng thấy rõ. Spofforth biết sự hiện diện của ông gây áp lực lên người đối diện.

Ông ngả người vào lưng ghế, duỗi cơ, rồi mỉm cười một cách thân thiện với Bentley. Ông hỏi:

- Nói cho tôi biết đi, anh đã học đọc như thế nào?

Bentley chớp chớp mắt nhìn ông trong vài giây, rồi đáp:

- Bằng các tấm thẻ. Tôi đã đọc các tấm thẻ. Và bốn cuốn sách nhỏ: Những bài tập đọc ; Roberto , Consuela và chó Biff , và...

- Anh lấy mấy cái đó từ đâu?

- Kể cũng lạ. - Bentley đáp. - Trường đại học có một bộ sưu tập các cuốn phim khiêu dâm xưa. Tôi đang tìm chất liệu cho một bài giảng thì bắt gặp một hộp phim cũ còn nguyên niêm phong. Cùng với nó là bốn cuốn sách nhỏ và một bộ thẻ. Khi tôi chiếu phim lên thì nó hoàn toàn không phải là phim khiêu dâm. Nó quay cảnh một phụ nữ đang dạy cho bọn trẻ con trong một lớp học. Có một tấm bảng đen phía sau người phụ nữ, và bà ta viết những kí hiệu màu trắng lên bảng. Chẳng hạn như, bà ta viết từ mà sau này tôi được biết là “phụ nữ”, rồi bọn trẻ đồng thanh đọc to “phụ nữ”. Bà ta lặp lại điều đó với “giáo viên”, “cây” và “nước”, “bầu trời”. Tôi còn nhớ mình đã xem qua bộ thẻ và thấy hình của một phụ nữ. Phía dưới hình ảnh đó cũng có in những kí hiệu giống y như thứ mà nữ giáo viên đã viết lên bảng. Trong bộ thẻ còn nhiều hình ảnh khác, nhiều kí hiệu khác được viết lên tấm bảng đen cũng như được đọc bởi nữ giáo viên và bọn trẻ. - Bentley chớp mắt, hồi tưởng. - Người giáo viên đó mặc một chiếc váy xanh và có mái tóc trắng, bà ta luôn mỉm cười...

- Rồi anh làm thế nào? - Spofforth hỏi.

- Vâng. - Bentley lắc đầu như thể cố gắng xua tan mẩu kí ức. - Tôi xem đi xem lại đoạn phim đó. Tôi bị nó làm cho mê mẩn, bởi một thứ gì đang diễn ra trong phim mà tôi cảm thấy rất... rất... - Anh luống cuống tìm từ.

- Quan trọng ? - Spofforth nhắc.

- Đúng vậy. Quan trọng.

Bentley nhìn vào mắt Spofforth trong một thoáng, trái với phép lịch sự bắt buộc. Rồi anh quay mặt đi, nhìn ra ngoài cửa sổ, về phía các sinh viên tốt nghiệp đang ngồi bần thần trong im lặng, thi thoảng gật gù.

- Rồi sau đó? - Spofforth hỏi tiếp.

- Tôi xem lại đoạn phim nhiều lần đến mức không đếm nổi. Dần dần tôi nhận ra, mặc dù đã biết từ đầu, tôi không hề nhận ra mình biết việc nữ giáo viên và lớp học nhìn vào các kí hiệu trên bảng và nói ra các từ ngữ được diễn đạt bởi các kí hiệu đó. Các kí hiệu cũng giống như hình ảnh vậy. Những hình ảnh thể hiện từ ngữ. Một con người có thể nhìn vào đó và nói ra thành lời. Về sau tôi học được rằng ông có thể nhìn vào các kí hiệu và nghe thấy từ ngữ vang lên trong đầu. Cũng chính những từ ngữ giống như vậy xuất hiện trong các cuốn sách mà tôi tìm được.

- Và anh đã học được cách hiểu những từ ngữ khác? - Spofforth hỏi với giọng nhẹ nhàng và trung tính.

- Vâng. Chuyện đó cần một thời gian dài. Tôi nhận ra từ ngữ được tạo thành từ các mẫu tự. Các mẫu tự đặc trưng cho những âm thanh riêng biệt. Tôi học hết ngày ngày sang ngày khác. Tôi không muốn dừng lại. Có một sự khoái cảm lạ lùng khi tìm thấy những thứ mà các cuốn sách có thể nói lên trong đầu tôi... - Bentley cụp mắt nhìn xuống sàn. - Tôi đã không ngừng lại cho đến khi biết hết mọi từ trong bốn cuốn sách. Chỉ sau đó, khi tìm thấy thêm ba cuốn sách khác, tôi mới phát hiện ra việc mà tôi đang làm được gọi là “đọc chữ”.

Bentley im lặng hồi lâu, trước khi rụt rè ngước lên nhìn khuôn mặt của Spofforth.

Ông nhìn anh ta một lúc, rồi khẽ gật đầu:

- Tôi hiểu rồi. Bentley này, anh có nghe nói đến các bộ phim câm bao giờ chưa?

- Phim câm à? - Bentley hỏi lại. - Chưa ạ.

Spofforth nhoẻn cười:

- Tôi không nghĩ có nhiều người biết đến chúng. Phim câm có từ thời rất xa xưa. Một số lượng lớn phim câm đã được tìm thấy mới đây, trong một vụ tháo dỡ.

- Thế ạ? - Bentley đáp một cách lịch sự, dù chẳng hiểu gì.

Spofforth chậm rãi nói:

- Vấn đề của các bộ phim câm, là lời thoại của diễn viên không được vang lên, mà được viết ra.

Một lần nữa ông mỉm cười:

- Để hiểu được chúng, người ta cần phải đọc.