← Quay lại trang sách

Quyển bảy Phong kiến và cách mạng I Người ông

Ở dưới hầm, một ngọn đèn đặt trên nền lát đá, bên cạnh khung cửa sổ vuông.

Ngoài ra, còn có một bình nước đầy, miếng bánh quân lương và bó rơm. Cái hầm ấy khoét sâu trong đá tảng, người tù nếu có ngông cuồng đốt rơm phóng hỏa thì cũng chỉ toi công; nhà giam không cháy được, còn tù nhân chắc chắn sẽ chết ngạt.

Lúc cánh cửa xoay xoay trên bản lề, lão hầu tước đang đi lại trong hầm như cái máy, giống như con thú bị nhốt trong chuồng.

Nghe tiếng động của cánh cửa mở ra rồi khép lại, lão hầu tước ngẩng đầu, và ngọn đèn đặt dưới đất giữa Gauvain và lão soi rõ mặt cả hai người.

Họ nhìn nhau, và cái nhìn đó làm cho cả hai cùng đứng yên.

Lão hầu tước phá lên cười và nói to:

- Chào ngài. Đã bao nhiêu năm rồi, tôi không được cái diễm phúc gặp mặt ngài. Bây giờ ngài lại hạ cố tới gặp tôi. Xin cảm ơn ngài. Được nói chuyện một lát, thật tôi không mong gì hơn. Tôi bắt đầu thấy buồn. Các bạn ngài mất nhiều thời giờ quá, nào thẩm tra căn cước, nào mở phiên tòa quân sự, những cung cách thật nhiêu khê quá. Phải tay tôi, tôi làm nhanh hơn nhiều. Đây là nhà tôi. Xin ngài quá bộ vào trong. Vậy thưa ngài, những chuyện đang xảy ra, ngài thấy thế nào? Thật là độc đáo, phải không ngài? Ngày xưa có một ông vua và một bà hoàng hậu; ông vua là ông vua, hoàng hậu là nước Pháp. Người ta đã chặt đầu vua, rồi gả hoàng hậu cho ông Robespierre; hai ông bà ấy có được một cô con gái mà người ta gọi là cái máy chém, mà hình như sáng mai tôi sẽ được làm quen với nó. Thật là thú vị. Cũng như được gặp ngài vậy. Ngài đến vì việc đó ư? Ngài đã được thăng cấp chưa? Ngài sẽ là đao phủ? Nếu chỉ là một cuộc gặp gỡ thân mật thì tôi hết sức cảm động. Thưa ngài tử tước, chắc ngài không còn biết thế nào là một nhà quý tộc. Vậy thì ở đây có một nhà quý tộc; đó là tôi. Ngài nhìn xem. Lạ lắm; hắn tin ở Chúa, hắn tin vào truyền thống, hắn tin vào dòng họ, hắn tin vào tổ tiên, hắn tin vào lòng ngay thẳng, tin vào nghĩa vua tôi, tôn trọng các cổ lệ, tin vào đạo đức, tin vào công lý; và hắn sẽ thích thú được bắn chết ngài. Xin ngài vui lòng ngồi chơi. Ngồi xuống nền thôi; vì phòng khách này không có ghế đệm; nhưng mà kẻ nào sống trong bùn thì ngồi đất cũng được. Tôi nói điều đó không phải để xúc phạm ngài, bởi vì cái mà chúng tôi gọi là bùn thì các ngài gọi là quốc dân. Chắc ngài không ép tôi phải hô Tự do, Bình đẳng, Bác ái chứ? Đây là một phòng cũ của nhà tôi, ngày xưa là nơi các lãnh chúa nhốt bọn dân quê hủ lậu; bây giờ bọn hủ lậu ấy lại giam các lãnh chúa. Những trò trẻ con ấy mệnh danh là một cuộc cách mạng. Hình như trong vòng ba mươi sáu tiếng đồng hồ nữa họ sẽ chặt đầu tôi. Tôi chẳng thấy gì phiền cả. Nhưng giá họ lịch sự hơn một chút thì họ đã chuyển cho tôi cái hộp thuốc để trong phòng gương kia, căn phòng mà hồi còn nhỏ ngài vẫn chơi ở đó và tôi vẫn bế ngài nhảy lên đùi tôi. Thưa ngài, và điều lạ là trong mạch máu ngài, có dòng máu quý tộc, cùng một dòng máu với tôi; tiếc thay, dòng máu ấy biến tôi thành một con người danh dự thì lại biến ngài thành một kẻ hèn hạ. Đó là những đặc thù. Ngài sẽ bảo đó không phải là lỗi của ngài. Cũng không phải là lỗi của tôi. Khốn nạn, người ta làm điều ác mà không biết. Đấy là tại cái không khí người ta thở; trong những thời kỳ như chúng ta đang sống, không ai chịu trách nhiệm về hành vi của mình, vì cách mạng bất lương đối với tất cả mọi người; và tất cả những kẻ phạm những tội nặng nhất của các ngài đều là bọn người ngây thơ nhất. Một lũ ngu dốt! Bắt đầu từ ngài. Cho phép tôi được bái phục ngài. Vâng, tôi vẫn phục một trang thanh niên như ngài, một con người quý phái, có địa vị trong nước, có một dòng máu cao quý để hy sinh cho đại nghĩa, tử tước của cái tháp Gauvain này, hoàng thân xứ Bretagne, một người có quyền trở thành quận công và có thể thừa hưởng chức vị nguyên lão nước Pháp, đại khái tất cả những cái mà một kẻ có trí khôn ở trên đời này có thể thèm khát, nhưng con người như thế lại đâm đi làm con người như ngài hiện nay, dưới con mắt kẻ thù, ngu si, dưới dưới con mắt bạn bè. A, nhân thể, xin ngài cho tôi gửi lời chào cha xứ Cimourdain.

Lão hầu tước nói thoải mái, bĩnh tĩnh, không cần nhấn mạnh chỗ nào cả, với một giọng thân mật, mắt sáng và lặng lẽ, hai tay đút túi. Lão ngừng lại, thở một hơi dài rồi lại tiếp:

- Tôi chẳng giấu ngài rằng tôi đã cố hết sức giết ngài. Chính tôi đây đã ba lần đích thân chĩa đại bác bắn ngài. Cung cách ấy không lịch sự, tôi xin thừa nhận, nhưng nếu tưởng rằng trong chiến tranh, kẻ thù tìm cách làm vui lòng ta thì thật là ngờ nghệch. Vì rằng, thưa ông cháu của tôi, chúng ta đang ở trong tình trạng chiến tranh. Tất cả đều là máu và lửa. Đúng là người ta đã giết vua. Thế kỷ đẹp thật.

Lão ngừng lại một chút rồi lại tiếp luôn:

- Nghĩ cho cùng thì những chuyện thế này chẳng bao giờ xảy ra nếu trước đây người ta đem treo cổ Voltaire và bắt Rousseau [1] đi khổ sai chèo thuyền! Trời! Những nhà trí thức, thật là tai họa! Nào, các ngài chê trách gì về cái chế độ quân chủ? Đúng là người ta đã để cho cha Pucelle tùy tiện sử dụng phương tiện và thời gian cần thiết để đi đến nhà xứ Corbigny; đối với lão Titon, một tên phóng đãng, đi chơi gái trước khi xem phép lạ của thầy trợ tế Pâris, người ta đã thuyên chuyển lão từ lâu đài Vincennes sang lâu đài Ham ở Picardie, một địa phương hủ lậu đến thế. Đấy là những việc đáng chê trách. Tôi còn nhớ. Thời tôi còn trẻ tôi cũng đã phản đối; tôi cũng đã từng ngu ngốc như ngài vậy.

Lão hầu tước sờ túi như thể muốn tìm hộp thuốc, rồi tiếp:

- Nhưng không độc ác như các ngài. Thời trước chúng tôi nói chỉ để mà nói thôi. Hồi ấy cũng có những cuộc điều tra khiếu nại ồn ào, thế rồi các ngài triết gia xen vào; đáng lẽ phải thiêu chết bọn tác giả thì người ta chỉ thiêu hủy sách vở thôi, các cuộc âm mưu chống đối ở trong triều cũng phụ họa vào; lại còn bọn ngờ nghệch như Turgot, Quesnay, Malesherbes [2], bọn chủ trương chủ nghĩa trọng nông, và vân vân, rồi thế là các vụ lộn xộn bắt đầu. Vạn sự khởi đầu từ bọn văn sĩ dở, thi sĩ cùn. Phái Bách khoa! Diderot! D’Alembert! [3] Chà! Một bọn vừa độc hại vừa đần độn. Một người thông minh như vua nước Phổ mà cũng bị chúng lôi cuốn! Phải tay tôi, tôi đã trừ tiệt hết cái bọn cạo giấy đó. Đúng! Chúng tôi là những người phán xét. Người ta có thể thấy ở đây, trên tường, vết những bánh xe xé xác. Chúng tôi không đùa. Không, không, không thể có bọn thợ văn ấy được! Còn có bọn Arouet [4] thì còn có bọn Marat. Còn có bọn văn sĩ tồi bôi bác thì còn có bọn du côn giết người; còn mực thì còn nhem nhuốc; còn có người quắp trong mấy ngón tay cây bút lông ngỗng thì những chuyện dại dột phù phiếm sẽ đẻ ra những chuyện dại dột tàn khốc. Sách vở gây ra tội ác. Từ chimère bao hàm hai nghĩa, một nghĩa là ảo mộng, một nghĩa là quái vật. Người ta khéo bày bao nhiêu trò hão huyền. Các ngài muốn nói gì khi nói về cái gọi là quyền lợi của chúng ta? Nhân quyền! Dân quyền! Thật là rỗng tuếch, ngu dại, mơ hồ, vô nghĩa! Tôi đây, khi tôi nói: Havoise, chị của Conan II đem của hồi môn là lãnh địa Bretagne về cho Hoën bá tước vùng Nantes và Cornouailles, ông này truyền ngôi lại cho Alain Fergant, chú của Berthe, bà này kết duyên với Alain Le Noir, lãnh chúa vùng Laroche-sur-Yon và sinh ra Conan Con [5], tổ tiên của Gauvain de Tour, tổ tiên chúng ta, là tôi đã nói ra một việc cụ thể, đó là một cái quyền. Nhưng còn bọn vô lại, bọn đểu giả, bọn làm loạn của các ngài họ gọi quyền của họ là cái gì? Quyền giết chúa, quyền giết vua. Quả là ghê tởm! Bọn khốn kiếp! Tôi lấy làm buồn cho ngài, nhưng ngài vốn thuộc dòng máu kiêu hãnh của xứ Bretagne, ngài và tôi, hai ta cùng có tổ nội là Gauvain de Thouars, trong số tổ tiên của chúng ta còn có Quận công De Montbazon, nguyên lão nước Pháp, đã được tặng thưởng bội tinh vàng, người đã tấn công vào ngoại ô thành Tours và bị thương trong trận Arques, thọ tám mươi tuổi, mất tại lâu đài của ngài ở Touraine. Tôi còn có thể nói với ngài về nhiều vị quý tộc trong họ ta nữa. Nhưng để làm gì? Ngài đã có vinh dự được làm thằng ngốc; ngài thích được bình đẳng với tên giữ ngựa của tôi. Xin ngài biết cho điều này, lúc ngài còn là một đứa trẻ thì tôi đã luống tuổi rồi. Tôi đã vắt mũi cho ngài và đáng lẽ tôi còn vắt mũi cho ngài nữa. Càng lớn lên, ngài lại càng tìm cách co rúm lại. Từ khi hai chúng ta xa cách nhau, mỗi người đi một đường, tôi đi theo con đường danh giáo, ngài đi con đường ngược lại. Tôi chẳng biết rồi những chuyện đó sẽ kết thúc như thế nào; nhưng những ông bạn của ngài đều là những quân khốn nạn kiêu căng. Phải, đẹp lắm, tôi đồng ý, nhiều tiến bộ huy hoàng trong quân đội, người ta đã bỏ chế độ phạt người lính say rượu phải uống nước trừ bữa trong ba ngày liền; ta có hình phạt tối đa, Viện Quốc ước, giám mục Gobel, ngài Chaumette và ngài Hébert, và người ta diệt trừ ồ ạt tất cả quá khứ, từ ngục Bastille đến cuốn thông lịch. Người ta lấy rau cỏ thay cho các thánh. Được, thưa các ngài công dân, các ngài cứ làm chủ, tất cả những chuyện đó không ngăn nổi tôn giáo vẫn là tôn giáo, nền quân chủ vẫn có một nghìn năm trăm năm lịch sử và hàng ngũ quý tộc lâu đời của nước Pháp mặc dầu bị mất đầu vẫn còn cao hơn các ngài. Còn như các ngài không thừa nhận đặc quyền có tính chất lịch sử của tầng lớp quý tộc thì chúng tôi hoài hơi mà cãi vã với các ngài. Đó không phải là vấn đề. Vấn đề là sự tồn tại của một vương quốc lớn, một nước Pháp cổ kính, một quốc gia có tổ chức quy củ tuyệt vời, trong đó trước hết người ta coi trọng vai trò thần thánh, nhà vua, chúa tể tối cao của nhà nước, rồi đến các hoàng thân, các quan chức trong thủy quân lục quân, pháo binh, ngân khố. Ngoài ra còn có tòa án tối cao và hạ thuộc, các tổ chức quản lý thuế muối và tổng thu nhập quốc gia, cuối cùng là ngành cảnh sát ở trung ương, địa phương và cơ sở. Như thế đấy, thật là đẹp và sắp đặt chững chạc; các ngài đã phá hủy hết. Các ngài đã xóa bỏ hệ thống tỉnh cũ, dốt nát đến thế là cùng, các ngài chẳng hiểu gì về ý nghĩa của hệ thống tỉnh. Tinh hoa của nước Pháp là kết tinh của tinh hoa lục địa, và mỗi một tỉnh của nước Pháp tiêu biểu cho một đức tính của châu Âu; tính cương trực của nước Đức thể hiện ở Picardie, tính độ lượng của Thụy Điển ở Champagne, cái tinh xảo của Hà Lan ở Bourgogne, tính chất linh lợi của Ba Lan ở Languedoc, tính chất nghiêm nghị của Tây Ban Nha ở Gascogne, cái khôn ngoan của Ý ở Provence, cái tế nhị của Hy Lạp ở Normandie, truyền thống trung thực của Thụy Sĩ ở Dauphiné. Các ngài không biết mảy may về tất cả cái đó; các ngài phá vỡ, đập nát, hủy hoại, và các ngài cứ thản nhiên như những con vật vô tri. A ha! Các ngài không muốn có quý tộc nữa! Được, các ngài sẽ không có họ nữa. Các ngài sẽ được vừa ý. Các ngài sẽ không có hiệp sĩ, không có anh hùng. Kính chào những vang bóng một thời. Hãy tìm xem cho tôi một Assas [6] của ngày nay! Tất cả các ngài chỉ sợ chết. Các ngài sẽ không thể có những người như các hiệp sĩ ở Fontenoy [7] kính cẩn chào nhau trước khi nổ súng, cũng không thể có những chiến sĩ đi bít-tất lụa để chiến đấu, trong trận bao vây Lérida, các ngài không thể có những cuộc diễu hành hùng vĩ với các chùm lông cắm trên mũ các binh sĩ lướt như sao bay trên bầu trời, các ngài là một dân tộc kiệt quệ, một dân tộc sẽ bị ngoại bang đè đầu cưỡi cổ, nếu Alaric II trở lại sẽ không có Clovis nào chặn đường hắn; nếu Abdérame trở lại thì cũng không còn Charles Martel nào đón đánh, nếu giặc Saxon trở lại cũng không còn ai như Pépin chặn chúng nữa; các ngài sẽ không bao giờ có Agnadel, Rocroy, Lens, Staffarde, Nerwinde, Steinkerque, La Marsaille, Raucoux, Lawfeld, Mahon; các ngài sẽ không có những chiến thắng như François I ở Marignan; các ngài sẽ không có Bouvines với Philippe Auguste một tay tóm cổ bá tước De Boulogne và tay kia bá tước De Flandre. Các ngài có thể có một Azincourt, nhưng các ngài sẽ không có một đội viên giữ cờ vĩ đại như Bacqueville lấy quốc kỳ quấn thân mình mà chết! Mà thôi! Các ngài là những con người mới. Các ngài muốn làm gì cứ làm, muốn trở thành nhỏ mọn, cũng tùy.

Lantenac im lặng một lát rồi lại tiếp:

- Muốn gì thì muốn, chúng tôi vẫn là những kẻ cả. Các ngài giết vua, giết quý tộc, giết tu sĩ, cứ đạp đổ, tàn phá, sát hại, dày xéo tất cả, cứ dẫm lên các châm ngôn cổ kính, đánh đổ ngai vàng, xéo lên bàn thờ, tiêu diệt Chúa! Đó là việc của các ngài. Các ngài là bọn phản trắc và hèn nhát, những con người không thể biết đến tận tụy, hy sinh. Tôi nói hết rồi. Thưa tử tước, ngài cho chặt đầu tôi đi. Tôi rất vinh hạnh được hầu ngài.

Rồi lão nói thêm:

- Tôi đã nói tất cả sự thật về các ngài! Tôi chết đến nơi rồi, còn sợ gì nữa.

- Ông được tự do - Gauvain nói.

Rồi Gauvain tiến đến gần hầu tước, cởi chiếc áo choàng của mình ra khoác lên vai lão và kéo sụp cái mũ chụp xuống trước mắt lão. Tầm vóc hai người bằng nhau.

- Này, làm gì vậy? - Hầu tước hỏi.

Gauvain cất cao giọng nói:

- Trung úy, mở cửa cho tôi.

Cửa mở ra.

Gauvain vẫn cao giọng nói:

- Tôi ra khỏi thì anh đóng cửa lại.

Rồi Gauvain đẩy lão hầu tước, đang sửng sốt, ra ngoài.

Gian phòng thấp, biến thành trạm gác, như ta còn nhớ, chỉ có một ngọn đèn chao nhỏ, ánh sáng chập chờn, hắt ra nhiều bóng tối hơn ánh sáng. Trong ánh sáng mờ nhạt ấy những người lính còn thức nhìn thấy một người cao lớn mặc áo choàng có mũ chụp gắn lon chỉ huy trưởng đi qua chỗ họ để ra cửa; họ chào nhau theo kiểu nhà binh và người này đi qua.

Lão hầu tước từ từ đi qua tốp lính canh, chui qua lỗ tường thủng, nhiều lần đụng vào tường, và ra ngoài.

Người lính gác phía ngoài, tưởng là Gauvain, bồng súng chào.

Ra ngoài rồi, chân đã dẫm lên cỏ, chỉ còn đi hai trăm bước nữa là ra đến rừng, trước mắt là không gian, là đêm tối, là tự do, là cuộc sống, lão dừng lại và đứng lặng một lúc như một người bị động, sau giây lát ngỡ ngàng đã thừa cơ thoát thân, nay muốn điểm lại xem làm như vậy có đúng không, ngập ngừng trước khi đi xa hơn và suy nghĩ lần cuối cùng. Sau vài giây thẫn thờ lão giơ bàn tay phải lên, bật ngón tay giữa vào ngón tay cái, rồi nói.

- Đành vậy thôi!

Rồi lão bước đi.

Chú thích:

[1] Voltaire (1694 - 1728) và Rousseau (1712 - 1778) là những nhà văn và nhà tư tưởng vĩ đại của nước Pháp trong thời tiền cách mạng tư sản.

[2] Turgot (1727 - 1781), Quesnay (1694 - 1774) và Malesherbes (1721 - 1794) là những nhà kinh tế học Pháp, cùng theo chủ nghĩa trọng nông do Quesnay thủ xướng. Thuyết này tuy gọi là “trọng nông” nhưng trong nội dung lại bao hàm tính chất chống phong kiến như bỏ thuế quan ở nội địa, tự do thương mại và công nghệ v.v...

[3] Diderot (1713 - 1784), D’Alembert (1717 - 1783), những nhà khoa học và tư tưởng sáng lập phái Bách Khoa.

[4] Arouet, tên thật của Voltaire.

[5] Xứ Bretagne xưa có bốn quận công Conan I, II, III và IV.

[6] Louis D’Assas: Sĩ quan chỉ huy thuộc trung đoàn Auvergne. Trong một cuộc hạ trại ngày 10-10-1760, ông ta đi một mình ra rừng thăm dò địch và bất chợt bị địch vây. Chúng bắt ông im lặng, dọa giết. Nhưng ông ta vẫn hô hoán cho binh sĩ biết và do đó bị địch giết tại trận.

[7] Một thị trấn ở nước Bỉ. Ở đó quân Anh và Hà Lan đã bị quân Pháp đánh thua ngày 11-05-1745. Trong trận đó quân Anh và Pháp dàn trận cách nhau năm mươi mét. Họ chào nhau và nhường nhau nổ súng trước. Rốt cuộc, bên nổ súng trước là quân Anh.

II

Tòa án quân sự

Cánh cửa hầm giam đã khép lại. Gauvain ở trong đó.

Hồi đó, trong các tòa án binh, gần như mọi việc còn do vị chánh án tùy tiện quyết định. Ở Quốc hội lập pháp, Dumas đã phác thảo một bản dự luật về pháp chế trong quân đội, về sau Talot trong Hội đồng năm trăm người có tu chỉnh lại, nhưng đạo luật chính thức về các hội đồng quân sự thì mới được thảo ra trong thời đế chính [1]. Xin nói thêm là đến thời kỳ đế chính mới có quy định bắt buộc các tòa án binh khi quyết án phải lấy biểu quyết từ cấp dưới. Dưới thời Cách mạng, luật này chưa hề có.

Năm 1793, viên chánh án tòa án binh nắm cả quyền hành; ông ta chọn các thành viên của phiên tòa án xếp đặt thứ tự cấp bậc, định ra phương thức quyết án; vừa là quan tòa, vừa là chúa tể.

Cimourdain quyết định phiên tòa mở ngay tại gian phòng ở tầng dưới cùng, trước đó là hầm cố thủ và bây giờ là trạm gác. Ông ta muốn rút gọn tất cả lại, cả con đường từ nhà tù tới tòa án và từ tòa án đến đoạn đầu đài.

Đến trưa, theo lệnh của ông, phiên tòa mở với hình thức long trọng như sau: ba ghế tựa bằng rơm, một bàn gỗ thông, hai cây nến thắp sáng, một cái ghế đầu ở trước bàn.

Các quan tòa ngồi ghế tựa, bị can ngồi ghế đẩu. Ở hai đầu bàn còn có thêm hai ghế đẩu nữa, một cái cho ủy viên dự thính, một hạ sĩ quan quân nhu, một cái cho viên lục sự đeo lon cai.

Trên bàn có một thỏi xi đỏ, một con dấu của chính phủ cộng hòa bằng đồng, hai giá bút mực, mấy chiếc cặp đựng giấy trắng và hai tờ thông cáo in trải rộng trên bàn, một tờ là lệnh đặt tội nhân ra ngoài vòng pháp luật, tờ kia là bản sắc luật của Viện Quốc ước.

Ghế chính giữa tựa vào một cụm cờ tam tài; trong thời kỳ hết sức giản đơn ấy việc trang trí giải quyết hết sức nhanh gọn và chỉ cần một ít thời giờ để chuyển một trạm gác thành một phòng xử án.

Ghế giữa là ghế chánh án ngồi nhìn thẳng vào cửa hầm giam. Công chúng dự phiên tòa là binh sĩ.

Hai cảnh binh đứng canh ghế bị can.

Cimourdain ngồi ghế giữa, bên phải là đại úy Guéchamp, hội thẩm thứ nhất, bên trái là viên đội Radoub, hội thẩm thứ hai.

Ông ta đội mũ có chùm lông màu tam tài, bên cạnh đặt thanh kiếm, ở thắt lưng giắt hai khẩu súng lục. Cái sẹo đỏ thắm làm cho vẻ mặt ông ta dữ tợn thêm.

Radoub rốt cuộc rồi cũng đã để cho người ta băng bó. Đầu ông ta buộc chiếc khăn tay có vết máu thấm ra từ từ và loang rộng.

Đến trưa, phiên tòa vẫn chưa mở, một liên lạc viên đứng chờ bên bàn các quan tòa; người ta thấy ngựa của anh ta giậm móng ở bên ngoài.

Cimourdain đang viết, ông ta viết thế này:

Các công dân ủy viên Ủy ban cứu quốc,

Đã bắt được Lantenac. Sáng mai sẽ hành hình.

Ông ta để ngày tháng, ký tên, gấp lại, niêm bức thư, rồi trao cho người liên lạc, người này vội vã đi ngay. Xong, Cimourdain tuyên bố dõng dạc.

- Mở cửa ngục.

Hai người cảnh binh kéo chốt, mở cửa ngục rồi đi vào.

Cimourdain ngoảnh đầu lên, khoanh tai lại, nhìn cánh cửa nói to:

- Giải phạm nhân ra đây!

Một người đàn ông hiện ra giữa hai người cảnh binh, dưới khung bán nguyệt của cái cửa mở.

Đó là Gauvain.

Cimourdain giật mình, kêu lên:

- Gauvain!

Rồi ông nói tiếp:

- Tôi đòi phạm nhân kia mà.

- Chính là tôi - Gauvain đáp.

- Anh?

- Chính tôi.

- Thế Lantenac?

- Thoát rồi.

- Thoát?

- Vâng.

- Trốn?

- Trốn.

Cimourdain run lên, miệng lẩm bẩm:

- Đúng rồi, tòa tháp này là của hắn, hắn biết hết mọi ngóc ngách, dưới ngục chắc là có đường thông ra ngoài, lẽ ra ta phải để ý đến điều đó, có lẽ hắn tìm được cách trốn thoát, chẳng cần ai giúp đỡ.

- Có người giúp hắn - Gauvain nói.

- Giúp hắn trốn?

- Giúp hắn trốn.

- Ai giúp hắn?

- Tôi.

- Anh?

- Tôi.

- Anh ngủ mê!

- Tôi vào ngục, chỉ có tôi với phạm nhân, tôi cởi áo của tôi khoác lên người hắn, tôi kéo sụp mũ xuống che mặt cho hắn, hắn thay tôi đi ra, tôi thay hắn ở lại. Và bây giờ thì tôi đây.

- Anh không làm như vậy!

- Tôi đã làm như vậy.

- Giải Lantenac ra đây!

- Hắn không còn đây nữa. Binh sĩ thấy hắn mặc áo khoác của người chỉ huy nên tưởng lầm là chính tôi và để cho hắn đi. Lúc đó còn là đêm.

- Anh điên rồi.

- Tôi nói sự thật.

Im lặng một lát, Cimourdain lắp bắp:

- Thế thì anh đáng...

- Tội chết - Gauvain nói.

Cimourdain tái nhợt đi như một cái đầu chết chém. Ông ta lặng đi như người vừa bị sét đánh. Hình như ông ta không thở nữa. Một giọt mồ hôi to tướng long lanh trên trán.

Ông ta lấy giọng đĩnh đạc rồi nói:

- Cảnh binh, cho bị can ngồi xuống.

Gauvain ngồi xuống chiếc ghế đẩu.

Cimourdain lại ra lệnh.

- Cảnh binh, tuốt gươm ra.

Đó là nghi thức thời ấy khi bị can đáng tội xử chém. Cảnh binh tuốt gươm ra.

Giọng Cimourdain trở lại bình thường. Ông nói:

- Bị can, đứng dậy.

Ông ta không xưng hô thân mật với Gauvain nữa.

Chú thích:

[1] Thời đế chính do Napoléon thành lập sau một cuộc đảo chính năm 1804. Hai cơ quan lập pháp của thời kỳ này là Hội đồng kỳ cựu (2050 đại biểu) và Hội đồng năm trăm người (500 đại biểu).

III

Quyết án

Gauvain đứng dậy.

- Tên họ là gì? - Cimourdain hỏi.

Gauvain trả lời:

- Gauvain.

Cimourdain tiếp tục hỏi cung:

- Anh là ai?

- Tôi là tư lệnh trưởng quân đoàn chinh phạt Bờ Biển Phía Bắc.

- Anh có họ hàng thân thích gì với tên phạm nhân vượt ngục không?

- Tôi là cháu gọi phạm nhân bằng ông.

- Anh đã biết sắc lệnh của Viện Quốc ước chứ?

- Tôi trông thấy tờ in sắc lệnh để trên bàn kia.

- Anh có ý kiến gì về sắc lệnh đó?

- Chính tôi đã ký tiếp vào đó, chính tôi đã ra lệnh thi hành, chính tôi đã cho yết lên và dưới tờ cáo thị đó có tên tôi.

- Anh hãy chọn người bào chữa.

- Tôi tự bào chữa lấy.

- Cho anh nói.

Cimourdain đã trở lại lạnh lùng. Có điều là vẻ lạnh lùng ấy giống cái im lìm của một tảng đá hơn là sự bình thản của một con người.

Gauvain im lặng một lát và có vẻ trầm mặc.

Cimourdain lại hỏi:

- Anh muốn nói gì?

Gauvain từ từ ngẩng lên, không nhìn ai cả, trả lời.

- Tôi muốn nói thế này: một việc này đã ngăn tôi không thấy việc kia; một nghĩa cử nhìn quá gần đã che mắt tôi không trông thấy hàng trăm tội ác; một bên là một ông già, một bên là lũ trẻ thơ, những cái đó đã ngăn cách tôi với nhiệm vụ. Tôi đã quên mất những xóm làng bị đốt cháy, những cánh đồng bị xéo nát, những tù binh bị tàn sát, những thương binh bị hạ thủ, những người đàn bà bị bắn, tôi đã quên cả nước Pháp đang bị đem bán cho nước Anh; tôi đã phóng thích cho một kẻ sát hại tổ quốc. Tôi có tội. Nói như vậy hình như tôi buộc tội tôi; nhưng không. Tôi nói để bênh vực tôi. Khi một kẻ phạm tội đã nhận ra lỗi của mình thì kẻ đó cứu vãn được một điều duy nhất đáng cứu vãn, đó là danh dự.

- Đó là tất cả những điều anh tự bào chữa? - Cimourdain hỏi lại.

- Tôi xin nói thêm, là chỉ huy, tôi phải làm gương, và các ngài cũng vậy, là quan tòa, các ngài cũng phải làm gương.

- Anh muốn làm gương bằng cách nào?

- Bằng cái chết của tôi.

- Anh cho thế là đúng?

- Và cần thiết nữa.

- Anh ngồi xuống.

Viên hạ sĩ quan quân nhu, ủy viên dự thính, đứng dậy đọc, thứ nhất quyết nghị đặt nguyên hầu tước Lantenac ra ngoài vòng pháp luật; thứ hai sắc lệnh của Viện Quốc ước kết án tử hình bất cứ ai giúp cho kẻ phản nghịch thoát ngục. Ông ta đọc cả mấy câu sắc lệnh in ở dưới tờ cáo thị “cấm cứu giúp che chở” cho tên phản nghịch có tên trên đây, “ai vi phạm sẽ bị xử tử”, và ký tên: Tư lệnh trưởng quân đoàn chinh phạt, Gauvain.

Đọc xong, ông ủy viên dự thính lại ngồi xuống.

Cimourdain khoanh tay lại, nói:

- Bị cáo, chú ý. Công chúng, hãy lắng nghe, nhìn cho rõ và giữ im lặng. Trước mắt các người là pháp luật. Bây giờ đến lúc quyết án. Tòa tuyên án theo đa số tương đối. Mỗi vị quan tòa sẽ lần lượt nói lên ý kiến của mình và nói to trước mặt bị cáo, vì công lý không có gì phải giấu giếm.

Cimourdain nói tiếp:

- Mời ông hội thẩm thứ nhất nói. Đại úy Guéchamp, xin mời ông.

Đại úy Guéchamp hình như không thấy Cimourdain, cũng không thấy Gauvain. Mí mắt ông hạ xuống, che lấp đôi tròng mắt đang chăm chú nhìn tờ cáo thị in sắc lệnh như nhìn một vực thẳm. Ông ta nói:

- Bản chất pháp luật là cứng rắn. Một quan tòa hơn một con người bình thường mà cũng là một con người thường; kém một con người thường vì quan tòa không có trái tim; ông ta hơn người thường vì ông ta có thanh kiếm. Năm 414 thời đế chế La Mã, Manlius đã hạ lệnh giết con trai chỉ vì con ông đã thắng trận nhưng không được ông cho lệnh đánh. Người vi phạm kỷ luật phải bị trừng phạt. Ở đây chính pháp luật bị vi phạm mà pháp luật còn cao hơn kỷ luật. Vì một phút thương người mà Tổ quốc lại bị lâm nguy. Lòng thương hại có thể gây tác hại như tội ác. Tư lệnh Gauvain đã để cho tên phiến loạn Lantenac vượt ngục. Gauvain đã phạm tội. Tôi biểu quyết tử hình.

- Lục sự, ghi vào. - Cimourdain nói.

Gauvain cất cao giọng nói:

- Guéchamp, quyết nghị của ông rất đúng, xin cám ơn.

Cimourdain lại cất tiếng:

- Mời vị hội thẩm thứ hai phát biểu. Ông đội Radoub, xin mời ông.

Radoub đứng dậy, quay lại Gauvain và chào bị cáo theo lối nhà binh. Rồi anh ta nói to:

- Nếu vậy, hãy chém đầu tôi. Tôi xin nói ở đây rằng nếu tôi ở trong trường hợp này tôi rất muốn hành động, trước hết như lão già, sau như tư lệnh của tôi. Khi tôi thấy con người tám mươi tuổi đầu kia nhảy vào lửa cứu ba đứa trẻ thơ, tôi đã bảo rằng: Tốt đấy! Và khi tôi được biết rằng chính tư lệnh của tôi đã cứu lão già khỏi cái máy chém chết tiệt của các ngài thì xin thề là tôi đã nói rằng: Thưa tư lệnh, đáng lẽ ngài phải làm vị tướng của tôi, ngài thật là một con người chân chính và tôi, nếu có quyền, tôi sẽ tặng ngài huân chương Thánh Louis, nếu còn có huân chương, còn có thánh, và còn có Louis. Trời! Tại sao chúng ta có thể ngu xuẩn đến thế? Nếu chỉ để có những trò như thế này mà ta đã thắng trận Jemmapes, trận Valmy, trận Fleurus và trận Wattignies, thì phải nói ra. Chính tư lệnh Gauvain trong bốn tháng qua đã trống giong cờ mở đánh đuổi bọn bảo hoàng chó đểu chạy dài, chính ông ta đã vung gươm lên cứu nền cộng hòa, đã chiến thắng ở Dol với một tài trí phi thường, ấy thế mà khi đã có một con người như vậy, các ngài lại cố tình làm cho không còn con người ấy nữa! Và đáng lẽ phải đưa ông lên làm tướng, các ngài lại đem chém đầu! Tôi xin nói thẳng: như vậy ai mà chịu được và người ta có thể đâm đầu xuống sông mà tự tử đi được. Còn ông, công dân Gauvain, thưa tư lệnh, nếu ông không là tướng của tôi mà là cai của tôi, thì tôi xin nói với ông rằng lúc nãy ông đã nói bậy. Lão già cứu lũ trẻ là đúng, ông cứu lão cũng là đúng, và nếu người ta chặt đầu những người có những nghĩa cử như vậy, chẳng còn hiểu ra sao nữa. Không có lý gì để người ta dừng lại ở đấy. Có đúng thế không? Tôi tự véo vào mình xem tôi tỉnh hay mê. Tôi chẳng hiểu gì cả. Vậy lẽ ra phải để cho lão già mặc cho lũ trẻ bị thiêu sống, phải để cho tư lệnh của tôi mặc cho lão bị chém cổ. Thưa các ngài, tôi nói thật; cứ chém cổ tôi đi. Tôi thích thế hơn đấy. Nói ví thử, nếu như lũ trẻ kia chết đi thì tiểu đoàn Mũ Đỏ chúng ta tiêu ma danh dự. Có phải ta muốn thế chăng? Nếu thế thì ta ăn thịt lẫn nhau đi. Tôi hiểu biết chính trị cũng như các ngài ở đây, trước kia tôi cũng có chân trong câu lạc bộ đội xung kích. Mẹ kiếp! Cuối cùng là chúng ta đâm ra đần độn cả! Tôi xin tóm tắt quan điểm của tôi. Tôi không ưa thích những cái làm cho người ta chẳng biết đường nào mà lần. Tại sao chúng tôi lại phải vào sinh ra tử? Để cho các ngài giết chỉ huy của chúng tôi ư? Đừng làm thế, Lisette [1]! Tôi đòi lại chỉ huy của tôi! Phải trả chỉ huy lại cho tôi! Hôm nay, tôi yêu chỉ huy hơn hôm qua. Đưa chỉ huy ra chặt đầu, các ngài làm tôi buồn cười quá mất. Những việc như thế, chúng tôi không muốn. Tôi đã nghe tất. Ai muốn nói gì thì nói. Nhưng trước hết là không thể như thế được.

Rồi Radoub ngồi xuống. Vết thương của ông ta lại vỡ ra. Một dòng máu từ chỗ cái tai bị cắt đứt thấm qua băng chảy xuống cổ.

Cimourdain quay lại Radoub:

- Ý ông muốn biểu quyết cho bị can được miễn tố?

- Tôi biểu quyết nâng ông ta lên cấp tướng.

- Tôi muốn hỏi ông, có phải ông muốn bị can được tha bổng không?

- Tôi biểu quyết đưa ông ta đứng đầu nước cộng hòa.

- Đội Radoub, ông có biểu quyết cho tư lệnh Gauvain được tha hay không?

- Tôi biểu quyết người ta cắt đầu tôi thế cho ông ấy.

- Tha bổng, ông lục sự, ghi như thế. - Cimourdain nói.

Viên lục sự ghi: “Đội Radoub: tha bổng”.

Rồi viên lục sự nói:

- Một ý kiến xử tử. Một ý kiến tha bổng. Ngang nhau.

Đến lượt Cimourdain biểu quyết.

Ông ta đứng dậy. Ông bỏ mũ, đặt xuống bàn.

Ông ta không còn tái xanh, cũng không còn tím bầm như trước. Sắc mặt ông ta thành màu đất.

Tất cả mọi người im lặng như nằm trong áo liệm.

Cimourdain nói, giọng nghiêm nghị, chậm rãi và chắc nịch:

- Bị can Gauvain, tội đã rõ ràng. Nhân danh chính phủ cộng hòa, tòa án quân sự, với đa số là hai phiếu thuận và một phiếu chống...

Ông ta ngừng lại, như muốn nghỉ hơi; ông ngần ngừ trước cái chết? Ông ngần ngừ trước cái sống? Bao nhiêu lồng ngực đều thở dốc. Cimourdain nói tiếp:

- Tuyên án tử hình.

Trên khuôn mặt của ông hiện lên nỗi dày vò của một thắng lợi thảm khốc. Có lẽ khi thánh Jacob xin vị thiên thần mà thánh đã quật ngã ban phúc cho, thánh cũng có nụ cười ghê rợn như thế.

Nụ cười đó thoáng hiện lên và tắt ngay. Cimourdain lại trơ như đá, lại ngồi xuống cầm mũ đội lên đầu, rồi nói thêm:

- Gauvain, anh sẽ bị hành hình ngày mai, khi mặt trời mọc.

Gauvain đứng dậy, chào rồi nói:

- Xin cám ơn tòa.

- Dẫn tội nhân đi. - Cimourdain nói.

Ông ra hiệu, cửa hầm lại mở, Gauvain bước vào, cửa hầm đóng lại. Hai cảnh binh đứng gác hai bên, gươm tuốt trần.

Radoub ngã bất tỉnh, được khiêng đi...

Chú thích:

[1] Nhân vật phụ nữ trẻ trung trong các vở hài kịch, trong các bài thơ, bài hát dân gian. Do quen miệng, nên giữa phiên tòa viên đội Radoub cũng gọi tên đó ra. Ý nói: Không thể như thế được đâu, em ạ. Em đùa dai quá!

IV

Sau Cimourdain quan tòa là Cimourdain thầy giáo

Trại lính là một cái tổ ong bàu vẽ. Nhất là trong thời cách mạng. Trong con người lính có cái nọc của người công dân sẵn sàng thò ra nhanh chóng, và chẳng nề hà gì mà không chích vào người chỉ huy ngay khi đánh đuổi được quân thù. Trong đoàn quân dũng cảm đã chiếm lĩnh tháp Tourgue có những tiếng xôn xao rất khác nhau. Mới đầu họ chê trách tư lệnh Gauvain khi biết tin Lantenac vượt ngục. Tới khi thấy Gauvain ở trong hầm bước ra chứ không phải là Lantenac như người ta ta tưởng, thì chỉ trong phút chốc cả đoàn quân đã biết tin ấy, nhanh như điện. Tiếng thì thầm nổi lên khắp hàng quân. Tin đầu tiên là: “Họ đang xử Gauvain. Vờ đấy thôi. Cứ tin tưởng vào bọn quý tộc hết thời và bọn thầy tu! Chúng ta đã thấy một bá tước cứu một hầu tước, rồi chúng ta sẽ thấy một thầy tu miễn tội cho một tên quý tộc!” Đến lúc tin kết án Gauvain lan truyền thì trong hàng quân lại có ý kiến thứ hai: “Thế thì quá lắm! Kết tội chỉ huy của chúng ta, chỉ huy dũng cảm của chúng ta, chỉ huy trẻ tuổi của chúng ta, một vị anh hùng! Là tử tước mà theo cộng hòa càng đáng khen chứ! Làm sao có thể kết tội người giải phóng Pontorson, Villedieu, Pont-au-Beau! Người chiến thắng ở Dol và tháp Tourgue! Người đã làm cho chúng ta trở nên vô địch! Người như mũi kiếm cộng hòa đâm vào vùng Vendée! Người đã năm tháng nay đương đầu với bọn phiến loạn và sửa chữa mọi sai lầm của Léchelle và các tướng khác! Một người như thế mà ông Cimourdain dám kết án tử hình! Tại sao? Tại vì ông ta cứu một lão già đã có công cứu sống ba đứa trẻ! Một thầy tu giết một quân nhân!”

Tiếng phẫn nộ dậy lên khắp hàng quân chiến thắng. Một làn sóng giận dữ bao vây Cimourdain. Bốn nghìn người chống lại một người, có vẻ như một lực lượng áp đảo, nhưng không phải. Bốn nghìn con người là một đám đông, Cimourdain là một ý chí. Người ta biết rằng Cimourdain thường hay cau mày lại, và chỉ riêng cái đó cũng khiến cho quân đội phải kính nể ông ta. Trong thời kỳ nghiêm ngặt ấy chỉ cần có bóng dáng của Ủy ban cứu quốc sau lưng một người là đủ cho người đó trở nên đáng sợ và đủ biến dư luận phẫn nộ thành những lời xì xào và dẫn lời xì xào đến im lặng. Trước và sau những lời xì xào Cimourdain vẫn là người cầm vận mệnh Gauvain cũng như vận mệnh những người khác. Người ta đều biết không thể cầu xin gì được ở ông ta, ông chỉ tuân theo tiếng gọi của lương tâm, mà chỉ riêng ông nghe được. Mọi việc do ông định đoạt. Điều ông đã làm với chức trách chủ trì tòa án quân sự, ông có thể hủy bỏ với tư cách là đại diện của chính phủ. Chỉ riêng ông có quyền ân xá. Ông có toàn quyền hành động; chỉ ra hiệu một cái là ông có thể tha Gauvain; ông nắm quyền sinh quyền sát; ông là người ra lệnh chém đầu. Trong giờ phút bi thảm này, ông là nhân vật tối cao.

Người ta chỉ còn biết chờ đợi.

Đêm đến.

V

Hầm giam

Phòng xử án lại trở thành trạm gác; cũng như hôm qua, vẫn gác đôi. Hai người đứng canh cửa hầm giam đóng kín.

Lúc nửa đêm, một người tay cầm đèn đi qua trạm gác, xưng danh và ra lệnh mở cửa hầm.

Đó là Cimourdain.

Ông ta vào và cánh cửa vẫn để hé đằng sau lưng ông.

Hầm giam tối tăm và lặng lẽ. Cimourdain bước một bước trong bóng tối, rồi dừng lại, đặt cây đèn xuống đất. Có tiếng người ngủ thở đều đều. Cimourdain lắng nghe tiếng thở bình thản ấy, nghĩ ngợi.

Gauvain nằm trên ổ rơm trong góc hầm giam. Nghe rõ ràng anh ta thở. Anh ta đang ngủ say.

Cimourdain tiến lại hết sức nhẹ nhàng, đến gần bên và nhìn Gauvain; một người mẹ nhìn đứa con nhỏ của mình ngủ cũng không có cái nhìn dịu hiền và khó tả hơn thế. Cái nhìn ấy có lẽ còn mạnh hơn cả Cimourdain; như đôi khi trẻ con vẫn làm, Cimourdain ấn hai nắm tay vào mắt mình rồi đứng im lặng trong giây lát. Rồi ông ta quỳ gối xuống khẽ nâng tay Gauvain và áp môi vào.

Gauvain cựa quậy. Anh mở mắt ra với cái vẻ ngỡ ngàng của người đang ngủ bỗng giật mình tỉnh giấc. Chiếc đèn rọi ánh sáng yếu ớt trong gian phòng. Anh nhận ra Cimourdain.

- Kìa, thầy đấy à.

Cimourdain bỗng rùng mình như khi người ta bị một ý nghĩ đột ngột ám ảnh, như một cơn bão táp ập vào tâm hồn, lòng rối bời, ông chẳng biết nói sao. Ông chỉ thốt ra: Gauvain!

Rồi hai người nhìn nhau, Cimourdain, mắt trào ra những giọt nước mắt nóng bỏng, Gauvain với nụ cười dịu dàng.

Gauvain chống khuỷu tay nhấc mình dậy và nói:

- Cái sẹo trên mặt thầy đó là nhát gươm mà thầy đã nhận lấy thay tôi. Mới hôm qua đây, trong lúc hỗn chiến, thầy ở bên tôi và vì tôi. Nếu số mệnh không đưa thầy đến bên nôi tôi thì hôm nay tôi ở đâu? Trong đêm tối. Nếu tôi có được ý thức về nghĩa vụ chính là nhờ thầy. Tôi bị trói buộc từ khi ra đời. Thầy đã vứt bỏ cho tôi những giây rợ thành kiến, thầy đã giúp tôi lớn lên trong tự do, và từ một cái chỉ là xác ướp thầy đã tái tạo thành một đứa trẻ. Trong thằng bé thầy đã đặt vào một lương tâm. Không có thầy, tôi lớn lên với một tâm hồn nhỏ nhen. Nhờ thầy mà tôi sống như ngày nay. Tôi chỉ là một lãnh chúa, thầy đã biến tôi thành một công dân, một công dân thầy đã biến tôi thành một tâm hồn; thầy đã làm cho con người trần tục của tôi và linh hồn của tôi xứng đáng với kiếp thiên đường. Thầy đã cho tôi cái chìa khóa chân lý để đi vào cuộc sống thực tại và cái chìa khóa ánh sáng để đi lên chốn cao siêu kia. Xin cám ơn thầy. Chính thầy là người sáng tạo ra tôi.

Cimourdain ngồi lên ổ rơm cạnh Gauvain và nói:

- Tôi tới ăn bữa tối cùng anh.

Gauvain bẻ miếng bánh mì đen rồi đưa cho Cimourdain. Cimourdain cầm lấy một mẩu; rồi Gauvain lại đưa cho ông bình nước.

- Anh uống trước. - Cimourdain nói.

Gauvain uống rồi chuyển bình nước cho Cimourdain uống sau. Gauvain chỉ uống một ngụm. Cimourdain uống hàng hơi dài.

Trong bữa tối đó, Gauvain ăn, Cimourdain uống, hiện tượng ấy chứng tỏ một người thì bình thản, và một người thì nôn nao.

Có cái gì yên tĩnh ghê sợ trong căn hầm ấy. Hai người trò chuyện.

Gauvain nói:

- Những việc lớn lao đang được phác họa ra. Cái mà cách mạng đang làm lúc này thật là bí ẩn. Đằng sau cái sự nghiệp nhìn thấy được còn có cái sự nghiệp không thể thấy được. Việc này che khuất việc kia. Cái có thể thấy được thì tàn nhẫn, cái không thấy được thì cao cả. Trong giây phút này, tôi nhìn nhận ra mọi việc rất rõ ràng. Thật lạ lùng và đẹp đẽ. Cần phải dùng đến những chất liệu của quá khứ. Do đó mới có cái năm 93 phi thường này. Dưới cái dàn giáo man rợ đang xây dựng lên một đền đài văn minh.

Cimourdain trả lời:

- Đúng. Từ cái tạm thời này sẽ thoát ra cái hoàn chỉnh. Cái hoàn chỉnh, nghĩa là quyền lợi và nghĩa vụ song song, thuế tỉ lệ và lũy tiến, chế độ cưỡng bách quân dịch chính sách san bằng, không thiên lệch, và bên trên mọi người và trên tất cả, là một đường thẳng tắp, pháp luật. Là thể chế cộng hòa tuyệt đối.

- Tôi muốn nền cộng hòa lý tưởng. - Gauvain nói.

Anh dừng lại rồi tiếp luôn:

- Thầy ạ, trong tất cả những điều thầy vừa nói, thầy định đặt vào chỗ nào lòng tận tụy, đức hy sinh, sự tiết chế dục vọng, nhân đức, tình yêu? Làm cho cân bằng tất cả là tốt; làm cho hòa hợp tất cả, còn tốt hơn nữa. Bên trên cán cân còn có cây đàn lia [1]. Nền cộng hòa của thầy ghép con người vào chừng mực, vào khuôn phép; nền cộng hòa của tôi cuốn con người lên tít trời xanh. Đó là sự khác biệt giữa một định lý và một con đại bàng.

- Anh ngập trong mây.

- Thầy ngập trong con tính.

- Có mơ mộng trong sự hài hòa.

- Cũng có mơ mộng trong đại số.

- Tôi mong ước con người do Euclide [2] tạo ra.

- Còn tôi - Gauvain nói - tôi ước mơ con người do Homère [3] tạo ra.

Cimourdain nhìn Gauvain với nụ cười nghiêm khắc như muốn chặn đứng tâm hồn kia lại.

- Thơ mộng. Hãy coi chừng các ông thi sĩ.

- Vâng tôi biết. Hãy coi chừng gió thổi, hãy coi chừng tia sáng, hãy coi chừng hương thơm, hãy coi chừng bông hoa, hãy coi chừng các chùm sao.

- Tất cả những cái đó không làm cho con người ta no bụng.

- Thầy biết đâu đấy? Tư tưởng cũng là thức ăn. Suy tưởng chính là ăn.

- Đừng trừu tượng. Nền cộng hòa là hai lần hai thành bốn. Khi tôi đem lại cho mỗi người phần quyền lợi của họ.

- Như vậy, nghĩa là thế nào?

- Nghĩa là sự nhân nhượng lẫn nhau vô bờ bến, một người nhân nhượng mọi người và mọi người nhân nhượng một người, và đó chính là tất cả đời sống xã hội.

- Ngoài quyền lợi sát nút không còn gì nữa.

- Có tất cả.

- Tôi chỉ thấy có công lý.

- Tôi, tôi nhìn cao hơn nữa.

- Vậy, trên công lý là gì?

- Công bằng.

Thỉnh thoảng hai người dừng lại, tưởng như có những luồng ánh sáng lướt qua.

Cimourdain tiếp:

- Nói cụ thể xem nào, tôi đố anh đấy?

- Được. Thầy chủ trương cưỡng bách quân dịch chống ai? Chống lại những người khác. Tôi, tôi không muốn có quân dịch. Tôi muốn có hòa bình. Thầy muốn những người khốn khổ được cứu giúp, tôi muốn xóa bỏ sự nghèo khổ. Thầy muốn có thuế má theo tỷ lệ, tôi không muốn có chút thuế má nào nữa. Tôi muốn sự chi tiêu chung được giảm đến độ thấp nhất, và do giá trị thặng dư xã hội đài thọ.

- Như vậy, nghĩ là thế nào?

- Thế này: trước hết là xóa bỏ chế độ ăn bám; chế độ ăn bám của thầy tu, của quan tòa, của binh lính. Sau đó, khai thác những tài nguyên của đất nước; phân bón đổ xuống cống rãnh thì đem đổ lên luống cầy. Ba phần tư đất đai còn bỏ hoang, hãy vỡ hoang đất nước ta, xóa bỏ những đồng cỏ vô dụng; hãy chia công điền công thổ. Làm sao cho người nào cũng có đất, đất nào cũng có người. Do đó, của cải xã hội sẽ được nhân lên gấp trăm lần. Nước Pháp hiện nay chỉ cấp cho nông dân mỗi năm được bốn ngày thịt; được cày cấy tốt, nước Pháp nuôi nổi ba trăm triệu người nghĩa là toàn châu Âu. Hãy sử dụng tốt thiên nhiên, lực lượng vô tận còn bị bỏ phí. Hãy làm cho tất cả các luồng gió, các nguồn nước, các nguồn điện phục vụ con người. Địa cầu có một hệ thống tĩnh mạch dưới mặt đất, trong đó có một cơ cấu lưu thông kỳ diệu của nước, dầu và lửa; hãy chọc thủng tĩnh mạch ấy và làm cho nước đó vọt lên cho các máy nước, dầu đó cho các ngọn đèn và lửa cho các bếp lò. Hãy suy nghĩ về sự chuyển vận của sóng, của con nước, và thủy triều lên xuống. Đại dương là gì? Là một lực lượng khổng lồ bị mất mát. Không sử dụng đại dương! Quả đất này quả là ngu xuẩn.

- Anh đang ngập trong mơ.

- Tức là trong thực tế.

Gauvain lại nói:

- Còn đàn bà? Thầy cho họ làm gì?

Cimourdain trả lời:

- Như hiện nay. Phục vụ cho đàn ông.

- Vâng. Với một điều kiện.

- Gì vậy?

- Là đàn ông cũng sẽ là tôi tớ của đàn bà.

- Chả đời nào! - Cimourdain kêu lên - Đàn ông làm tôi tớ ư? Không thể thế được. Đàn ông là người chủ. Tôi chỉ chấp nhận một vương quyền, cái vương quyền của gia đình. Trong gia đình người đàn ông là vua.

- Vâng. Với một điều kiện.

- Gì vậy?

- Là người đàn bà trong gia đình sẽ là hoàng hậu.

- Nghĩa là anh muốn cho đàn ông và đàn bà...

- Bình đẳng.

- Bình đẳng! Thôi xin anh. Hai bản chất khác nhau.

- Tôi nói bình đẳng, tôi không nói đồng nhất.

Đến đây lại một lát im lặng, như một cuộc đình chiến giữa hai luồng tư tưởng chọi nhau như tia chớp. Cimourdain phá tan cái im lặng đó.

- Còn trẻ con. Anh giao nó cho ai?

- Trước hết cho người bố sinh ra nó, rồi đến người mẹ đẻ ra nó, rồi đến thầy giáo dạy dỗ nó, rồi đến xã hội nuôi dưỡng nó rồi đến tổ quốc, người mẹ cao cả, rồi đến nhân loại, tổ tiên vĩ đại của nó.

- Anh không nói đến Chúa.

- Mỗi một cấp đó, cha, mẹ, thầy giáo, xã hội, tổ quốc, nhân loại, là một bậc của cái thang dẫn tới Chúa.

Cimourdain im lặng, Gauvain tiếp tục:

- Khi lên đến bậc thang cuối cùng thì tới Chúa. Chúa mở lòng ra và con người chỉ việc bước vào trong lòng Chúa.

Cimourdain cử động như một người vẫy gọi một người khác.

- Gauvain, hãy trở về trái đất. Chúng tôi muốn thực hiện cái có thể thôi.

- Hãy bắt đầu bằng cách đừng biến nó thành cái không có thể.

- Cái có thể bao giờ cũng thực hiện được.

- Không phải bao giờ cũng được. Nếu người ta ngược đãi ước mơ thì chính là người ta bóp chết nó. Còn có cái gì không có khả năng tự vệ bằng quả trứng.

- Tuy nhiên, phải nắm lấy ước mơ, kiềm chế nó trong thực tế. Ý nghĩ trừu tượng phải biến thành ý nghĩ cụ thể; mất phần hào nhoáng lợi về phần hữu ích, kém đi nhưng tốt hơn. Phải đưa quyền lợi vào trong pháp luật; và khi quyền lợi đã vào trong pháp luật thì nó trở thành tuyệt đối. Đó là cái có thể.

- Cái có thể còn hơn thế.

- A! Anh lại mơ rồi.

- Cái có thể là một con chim bí ẩn lúc nào cũng bay lượn trên con người.

- Phải bắt lấy con chim ấy.

- Bắt sống.

Gauvain tiếp:

- Tôi nghĩ là: phải luôn luôn đi tới. Nếu Chúa muốn cho con người đi thụt lùi thì Chúa đã cho con người một con mắt đằng sau gáy. Chúng ta phải luôn luôn nhìn về phía rạng đông, phía nảy nở, phía phát sinh. Cái rụng xuống cổ vũ cái đi lên. Tiếng gãy răng rắc ở cây già là tiếng gọi cây non mọc lên. Mỗi thời đại sẽ làm sự nghiệp của nó. Hiện nay là vấn đề quyền lợi, mai đây là vấn đề tiền công. Tiền công và quyền lợi về căn bản là một. Con người không phải sống để không được đền công; khi Chúa ban cho sự sống là chưa mắc một món nợ; quyền lợi, đó là tiền công bẩm sinh; tiền công, đó là quyền lợi giành được.

Gauvain nói với vẻ trầm mặc của một nhà tiên tri. Cimourdain lắng nghe. Vai trò đã đảo lộn, và bây giờ hình như người học trò là thầy.

Cimourdain lẩm bẩm:

- Anh đi mau quá.

- Đó là vì có lẽ tôi hỏi vội. - Gauvain trả lời, miệng mỉm cười.

Rồi anh tiếp:

- Thầy ạ, đây là sự khác biệt giữa hai ước mơ. Thầy muốn quân dịch cưỡng bách, còn tôi, tôi muốn học đường cưỡng bách. Thầy mơ con người quân nhân, tôi mơ con người công dân. Thầy muốn con người đó dữ tợn, tôi muốn con người giàu suy tưởng. Thầy xây dựng một nền cộng hòa gươm đao, tôi xây dựng...

Anh ta dừng lại:

- Tôi sẽ xây dựng một nền cộng hòa trí tuệ.

Cimourdain nhìn xuống nền hầm giam và nói:

- Trong lúc chờ đợi, anh muốn gì?

- Như hiện nay.

- Vậy anh tha thứ cho hiện tại?

- Vâng.

- Vì sao?

- Vì đó là một cơn bão táp. Bão táp bao giờ cũng có chủ tâm. Chỉ một cây sồi bị sét đánh, biết bao rừng cây được lành mạnh! Cơn gió mạnh đó sẽ cứu thoát nền văn minh đang bệnh hoạn. Nó không kén chọn kỹ, có lẽ thế. Nó có thể làm gì khác chăng? Nhiệm vụ quét dọn của nó quá là nặng nề! Phải có một luồng gió cực mạnh để xua sạch chướng khí.

Gauvain lại tiếp:

- Vả chăng, bão táp có can hệ gì nếu tôi đã có kim chỉ nam và các biến cố có làm gì được tôi nếu tôi có lương tâm?

Rồi anh nói tiếp với giọng trầm và trang trọng:

- Bao giờ cũng cứ phải để cho vị đó an bài.

- Ai? - Cimourdain hỏi.

Gauvain giơ ngón tay lên quá đầu. Cimourdain nhìn theo hướng ngón tay chỉ lên và qua vòm hầm giam, ông như thấy bầu trời đầy sao.

Hai người lại im lặng.

Cimourdain tiếp:

- Một xã hội lớn hơn thực tế hiện tại. Đó không còn là cái có thể nữa mà là giấc mơ.

- Đó là mục đích. Nếu không, cần gì phải có xã hội? Cứ sống theo thiên nhiên. Cứ làm người man rợ. Otaïti là một chốn thiên đường. Có điều là ở chốn thiên đường ấy người ta không suy nghĩ. Thà một âm phủ thông minh còn hơn là một thiên đường ngu xuẩn. Nhưng không, không âm phủ nào cả. Hãy sống cái xã hội loài người. Nó lớn hơn thiên nhiên. Đúng thế. Nếu không thêm được gì cho thiên nhiên thì vượt ra ngoài làm gì? Nếu thế thì cứ bằng lòng với công việc của con ong, cái kiến. Cứ làm con ong thợ cục mịch, còn hơn làm con ong chúa thông minh. Nếu ta thêm được gì vào thiên nhiên, nhất thiết ta sẽ lớn hơn thiên nhiên; thêm tức là tăng, tăng tức là lớn lên. Xã hội tức là thiên nhiên được vĩ đại hơn. Tôi muốn những cái gì còn thiếu ở tổ ong, tổ kiến, tôi muốn đền đài, nghệ thuật, thơ ca, anh hùng, thiên tài. Mang gánh nặng đời đời không phải là quy luật của kiếp người. Không, không, không, tôi muốn không còn cùng khổ, không còn nô lệ, không còn khổ sai, không còn đày đọa! Tôi muốn rằng mỗi một đặc trưng của con người là một tượng trưng của văn minh, một mẫu mực của tiến bộ; tôi muốn tư tưởng tự do, tình cảm bình đẳng, tâm hồn bác ái. Không! Không còn gông cùm! Con người sinh ra không phải để kéo lê xiềng xích mà để mở rộng đôi cánh. Không còn con người bò sát nữa. Tôi muốn sâu bọ biến thành cánh bướm; tôi muốn con giun đất biến thành bông hoa tươi và biết bay. Tôi muốn...

Anh ngừng lại. Mắt sáng long lanh.

Môi mấp máy. Anh thôi không nói nữa.

Cửa vẫn để ngỏ. Một vài tiếng ồn ào bên ngoài lọt vào trong hầm giam. Người ta thoáng nghe thấy tiếng kèn đồng, có lẽ là kèn báo thức; rồi có tiếng báng súng nện xuống đất, đó là tiếng lính đổi gác, rồi gần sát lâu đài, từ trong bóng tối có tiếng gì như tiếng chuyển ván gỗ và tiếng động chắc nịch và ngắt quãng như tiếng búa nện.

Cimourdain nghe, mặt tái nhợt. Gauvain không nghe thấy gì. Giấc mơ của anh mỗi lúc càng lắng sâu. Hình như anh không thở nữa, tâm trí hoàn toàn bị chi phối bởi những ảo ảnh hiện lên trong đầu óc. Người anh rung động nhẹ nhàng. Trong tròng mắt của anh, hiện lên ánh bình minh mỗi lúc một sáng hơn.

Một khoảng thời gian trôi qua như vậy. Cimourdain hỏi anh:

- Anh nghĩ gì đó?

- Nghĩ đến tương lai. - Gauvain đáp.

Rồi anh lại trầm mặc, Cimourdain đứng lên khỏi ổ rơm, nơi hai người ngồi. Gauvain vẫn không nhận thấy, Cimourdain, mắt vẫn ấp ủ người trai trẻ đang suy tưởng, lùi dần cho tới cửa, rồi ra ngoài. Cửa hầm giam khép lại.

Chú thích:

[1] Đàn cổ có tính cách tượng trưng cho sự hài hòa, tượng trưng cho âm nhạc.

[2] Nhà toán học cổ Hy Lạp.

[3] Nhà thơ trứ danh cổ Hy Lạp.

VI

Nhưng rồi mặt trời mọc

Chẳng bao lâu trời hửng sáng.

Vừa lúc đó, ở cao nguyên Tourgue. Trên cánh rừng Fougères, hiện lên một vật kỳ dị, không động đậy, hết sức đột ngột mà những con chim trời ở đấy chưa từng thấy.

Vật ấy vừa được đặt lúc đêm, được dựng lên hơn là được xây đắp. Trông từ xa đó là một hình thù in trên chân trời thành những đường thẳng và cứng, giống như hình dạng một chữ Hê-brơ hoặc một chữ tượng hình Ai Cập trong bộ chữ cái bí ẩn thời xưa.

Thoạt nhìn có vẻ vô dụng. Nó đứng đó, giữa những bụi thạch thảo rộ hoa. Người ta tự hỏi cái vật ấy có thể dùng để làm gì. Rồi người ta cảm thấy rùng mình. Nó như một cái mễ mà bốn chân là bốn cột. Ở một đầu mễ lại có hai cột cao dựng đứng, đỡ ở phía trên một đà ngang và có treo một vật hình tam giác như in màu đen lên trời xanh ban mai. Đầu mễ kia, có một cái thang, giữa hai cột cao, dưới phía cái vật hình tam giác, có một miếng ván gồm hai phần tách rời nhau và nếu đem ghép lại thì người ta sẽ thấy một lỗ tròn gần bằng cái cổ người. Phần nửa trên miếng ván chạy trong rãnh, có thể nâng lên hạ xuống được. Lúc này, hai vành bán nguyệt mà khi ghép lại thì thành cái vòng cổ, hãy còn tách rời ra. Dưới chân hai cột cao treo cái vật hình tam giác còn có một tấm ván xoay đi xoay lại trên bản lề nom giống như một cái bàn cân. Cạnh tấm ván đó có một cái sọt dài và ở phía trước giữa hai cột cao, ở đầu mễ có một cái rổ vuông. Tất cả sơn màu đỏ. Tất cả bằng gỗ trừ cái vật hình tam giác là bằng sắt. Người ta cảm thấy như cái đó do con người làm ra, vì nó xấu xí, ti tiện, nhỏ bé; và hình như phải có quỷ thần mang tới đó vì trông nó thật là kinh khủng. Cái công trình kỳ dị ấy là cái máy chém.

Đối diện cái máy chém, cách đó vài bước, sau đường hào là một quái vật khác, tháp Tourgue. Một quái vật bằng đá sánh đôi với con quái vật bằng gỗ. Mà phải nói rằng khi con người đã đụng vào gỗ đá thì gỗ đá không còn là gỗ đá nữa mà đã mang chút gì của con người. Một lâu đài là một tín điều, một công cụ là một ý niệm. Tháp Tourgue là kết tinh tất yếu của quá khứ, cũng như ngục Bastille ở Paris, tháp Luân Đôn ở Anh, thành Spielberg ở Đức, lâu đài Escurial ở Tây Ban Nha, điện Kremlin ở Mát-xcơ-va, lâu đài Saint-Ange ở La Mã.

Trong tháp Tourgue chung đúc lại một ngàn năm trăm năm, thời trung cổ, chế độ hôi thần, chế độ nông nô, chế độ phong kiến; trong cái máy chém chỉ là một năm, năm 93; và mười hai tháng này đã cân bằng với mười lăm thế kỷ kia.

Tháp Tourgue là nền quân chủ; cái máy chém là cách mạng.

Sự đối chọi bi thảm.

Một bên là nợ, một bên là thời điểm trả nợ. Một bên là kiểu thức Gô-tích pha tạp, là nông nô, lãnh chúa, nô lệ, chủ nô, bần dân, quý tộc, là luật lệ rắc rối đã biến thành tập tục, là quan tòa và thầy tu cấu kết với nhau, là vô số những ràng buộc, là thuế má, tài sản bị khống chế, đặc cách, đặc quyền, đặc lợi, thành kiến, cuồng tín, chuyên chế, là quyền trượng, ngai vàng, là độc đoán, là thần quyền; còn bên kia, chỉ một vật đơn giản, một lưỡi dao. Một bên là cái dây thòng lọng; một bên là lưỡi búa.

Đã từ lâu, tháp Tourgue đứng một mình ở nơi hoang vu này, với những lỗ châu mai qua đó đã từng chảy không biết bao nhiêu là dầu sôi sùng sục, nhựa thông chảy và chì lỏng, với những con đường ngầm ngổn ngang xương người; với phòng hành hình xé xác tội nhân; tất cả là một tấm thảm kịch khổng lồ; bộ mặt tang tóc của nó ngất ngưởng trên