CHƯƠNG 36
Giáo sư Henry, thường được những người mà ông quí mến đến mức chửi rủa họ gọi là Skipper, trông giống một con rùa biển già hiền lành, bao gồm cả cái kính kẹp mũi. Cặp mắt ông lồi ra sau cặp kính bám chênh vênh ở đầu chiếc mũi khoằm. Mùi rượu ngô nhà nấu bao bọc lấy ông, vì Skipper Henry tin rằng thứ tốt nhất để làm sạch mũi người đàn ông trong buổi sáng là một ngụm whisky, và ông cũng tin rằng bữa trưa của người đàn ông sẽ ngon miệng hơn sau hai ba ngụm whisky, và răng người đàn ông sẽ nghĩ ra những điều hay nhất trong chiếc ghế thoải mái vào ban đêm sau ba, bốn hoặc năm ngụm whisky.
Skipper Henry khoảng chừng sáu mươi tuổi, và đã làm nghe báo trong phần lớn cuộc đời, bắt đầu là thợ học việc của nhà in khi ông mười bốn tuổi. Ông chưa bao giờ tạo ra sự kiện lớn; chưa bao giờ tạo ra những tạp chí lớn; chưa bao giờ làm việc ở New York, Washington hay Chicago. Ông chưa bao giờ viết sách. Nhưng như một nhà báo tích cực ông đã tìm được đủ thời gian để tích luỹ đủ những chứng chỉ cần thiết cho bậc đại học, phần lớn đạt được ở trường buổi tối và những khóa học qua thư, và ông cũng tìm được thời gian, ở Raleigh, Norforlk, Greensboro và Charlotte, để khám phá những thể chế chính trị khác nhau đã biến ông thành nhân viên điều tra những xác chết chính trị trong hai giai đoạn - những xác chết mà mùi của nó bốc đến tận Washington.
Ông vào làm việc ở trường đại học vì ông thích không khí ở đây, vì ông không muốn làm việc vất vả thêm nữa, và vì trường đại học là nguồn gốc của đời sống chính trị ở các vùng miền Nam. Raleigh có Nghị viện Bang; Greensboro có thuốc lá; Charlotte có dệt; Wilmington có văn hóa, nhưng Chapel Hill mới là nơi điều khiển cỗ máy chính trị, Chapel Hill có truyền thống, và các nam sinh viên của trường đang ngồi trong các cơ quan lập pháp, trở thành thống đốc và thượng nghị sĩ, và có ảnh hưởng tới những cuộc họp kín trong hậu trường dựng nên những thống đốc và thượng nghị sĩ, những người thông qua những bộ luật để tạo ra những vua dệt và triệu phú thuốc lá.
Skipper vẫn viết những bài báo được đăng tải trên một nửa trong số hàng chục tờ báo có thế lực, ra hằng ngày, cũng như trên vô số những tờ báo ra hằng tuần hoặc tuần hai số. Nó có tên là Grits và Chithn's và sự giản dị lạc hậu trong tiêu đề của nó dễ đánh lừa người khác. Nó thật sự không liên quan với bộ tiêu hóa của lợn và với món ăn có tên là bánh đúc ngô; nó soi sáng những căn phòng tối kín đáo, nói ra những câu bí ẩn được nghiên cứu tỉ mỉ ở Nghị viện Bang, và hết lần này đến lần khác bầu lên hoặc làm sụp đổ các chính trị gia. Ông ngồi, người toàn mùi rượu ngô ưa thích, quần áo nhàu nhĩ, khuôn mặt rùa, như một giáo sư hoàn hảo của Trường báo chí, và mỗi khi ông động vào cây viết cho Grits và Chithn's trên cái tên Oliver gầy gò của ông, thì người ta cảm nhận được rung động địa chấn lan khắp bang, và đôi khi nó chôn vùi cả một hệ thống trong hậu trường lập pháp ở Washington.
Thực ra, ông là người tận tâm, với tiếng cười giống như kéo gỗ. Ông giống vị phật béo, luộm thuộm, đốm bạc, da mồi, cà vạt thắt lệch, tóc xõa sợi, gan có đốm. Ông là nhà tiên tri mà các chính trị gia thường đến để xin lời khuyên cho chiến dịch tranh cử, các nhà vận động hành lang phải quị lụy, và cuối cùng, là các ông chủ của những tờ báo lớn và nhỏ tin cậy như một nơi cung cấp những tài năng trẻ. Hằng năm, đến lễ tốt nghiệp, các tổng biên tập lại xin giáo sư Henry những tay cừ nhất trong số những học trò yêu của ông.
“Thầy Skip,” Fran Mayfield nói. “Đây là bạn mới của em. Anh ấy có một tiếng đồng hồ không biết làm gì trong quý này và anh ấy muốn ngồi trong lớp.”
“Tại sao? Trông anh ta có vẻ thông minh lắm mà,” Skipper Henry nói. “Tại sao anh ta lại muốn hao tốn thời gian với tôi?” ông hướng đôi mắt lạnh lẽo của rùa về phía Alex.
“Đây là nơi thuận tiện nếu em muốn mua cho Fran một ly cà phê vào giờ in,“ Alex nói. “Em sẽ không phải đi quá xa. Hãy tha lỗi cho em, thưa thầy,” đột nhiên nhớ đến cách cư xử của mình. “Em không định thô lỗ thế. Đó chỉ là buột miệng thôi.”
Skipper Henry lắc cái đầu to bạnh của mình và phá lên cười
“Trời đất quỷ thần ơi, tôi thấy giống như Diogen vậy! Rốt cuộc sau từng ấy năm tôi đã tìm thấy một người trung thực! Cậu được chấp nhận,” ông nói và đột ngột quan sát Alex một cách chăm chú và sắc sảo. “Cậu muốn làm việc hay chỉ ngồi ngắm đùi của Frannie?”
“Em sẽ không phản đối được làm việc một chút,” Alex nói. “Nếu điều đó không làm phiền thầy quá. Và không gây trở ngại cho cặp đùi của Frannie. Em chẳng biết gì cả ngoài những điều em đã đọc trên các báo. Hoặc trong sách. Nhưng em được giáo sư Jamieson cho điểm A về môn văn. Nếu có thể coi đó là thư giới thiệu.”
“Cậu được điểm A của cái con rùa già ấy cơ à? Tôi biết lão ta đã bốn mươi năm và tôi chưa bao giờ thấy lão ta cho bất kỳ ai hơn điểm B, kể cả thống đốc đương nhiệm”.
“Vâng, thưa thầy,” Alex nói. “Đó là một kỷ lục.”
Skipper Henry nhìn Alex Barr với vẻ tò mò hơn.
“Cậu chuyên về lĩnh vực nào?”
“Thường là kinh tế.”
“Thường là là thế nào?”
“Vâng, em hơi thích ngôn ngữ Anh. Vì vậy em bắt đầu là một người không chuyên về tiếng Anh, nhưng em nắm được đủ môn phụ tuỳ chọn, vì vậy thầy có thể nói rằng em cũng chuyên về tiếng Anh.”
“Hừm.” Vị giáo sư già châm thuốc, rồi cắm khoảng một nửa điếu thuốc vào miệng, và phun ra một đám mây những mảnh thuốc lá.
“Cậu định làm gì khi được tự do vào tháng Sáu này?”
“Em không biết, thưa thầy,” Alex nói. “Thật sự là em không biết.”
“Không có nhiều nghề cho những nhà kinh tế miệng còn hơi sữa và những chuyên gia văn học Anh tuổi thiếu niên,” giáo sư Henry nói. “Có lẽ là ngành Luật chăng?”
“Em không có tiền, thưa thầy. Mãn tính. Luật là ngành mà với nó, người ta không thể làm cho đường đời của mình thông suốt, và thưởng thức không gì hơn ngoài những quyển sách, không khác gì cái người ta có thể với y học.”
“Thế còn dạy học?”
Alex cười. “Một con đường quá dài. Em không đủ tiền để đi hết quãng đường đó. Xin thầy thứ lỗi.”
Skipper Henry thổi phù mẩu thuốc lá trong miệng ra, tro và tàn lửa bay tung toé.
“Nói cho cậu hay,” ông nói. “Chúng tôi không có nhiều nhân tài - tha lỗi cho ta, Fran, cô đủ đẹp để không phật lòng - nhưng thực sự là ở đây chúng tôi không có nhiều nhân tài. Phần lớn bọn trẻ dự giờ học vì tôi được coi là một lão sư cụ thô lỗ hay kể những chuyện đùa tục tĩu và không bắt làm bài kiểm tra. Nhưng đôi khi chúng tôi cũng có một nhân tài nào đó, và đôi khi tôi có thể ngửi thấy nó.”
Ông ngừng lời để phun mẩu thuốc lá cắn nham nhở vào cái ống nhổ kiểu cũ.
“Cậu đã bao giờ nghĩ tới việc viết báo chưa?” Cặp mắt hấp háy nheo nheo.
“Không thật sự. Không, thưa thầy.”
“Cậu có cái nhìn, có lẽ cậu có cả năng khiếu nữa. Nói cậu hay. Cậu có biết chuyện về Abraham và Isaac trong kinh Cựu Ước không?”
“Có thưa thầy. Đại khái.”
“Cậu có biết gì về Esau và quyền thừa kế và việc bán nó để lấy bữa xúp thịt không?”
“Có thưa thầy. Em tin là biết.”
“Được rồi.” Người thầy giáo già nhìn ra cửa. “Đây sắp là tín đồ ngoan đạo, trong việc kiểm tra kiến thức. Tên cậu là gì ấy nhỉ?”
“Barr, thưa thầy. Alex Barr.”
“Biến khỏi đây đi, Alex Barr, và viết cho tôi hai bài báo. Viết cho tôi một bài thật hoa mĩ về Abraham và Isaac và bộ râu bốc cháy, như thể chuyện xảy ra ngày hôm nay - như thể đấy là một tội ác không được hoàn thành vì các cha truyền giáo đã dính dáng đến nó. Hãy viết cho tôi một bài báo buồn, nếu anh có thể, về Esau và quyền thừa kế. Anh biết đánh máy chứ?”
“Không, thưa thầy. Em chưa bao giờ có máy chữ.”
“Tốt hơn là cậu bắt đầu ngay bây giờ. Cậu có thể dùng cái máy trong văn phòng của tôi. Hãy viết bài đầu tiên bằng chữ thường - lần này tôi sẽ đổ mồ hôi vì chúng - nhưng hãy đến vào ngày mai và thấy liệu họ có viết tốt hơn trên máy mặc dù lúc đầu còn chậm. Ta thích bạn của con đấy, Injun ạ,” ông nói với Fran. “Rất vui là con đã mang cậu ta đến đây.”
Alex Barr nhìn người đàn ông già lôi thôi luộm thuộm, và đột nhiên rùng mình sởn gai ốc. Anh chợt thấy rõ điều anh sẽ viết về Abraham và Isaac, về Esau và quyền thừa kế. Anh có thể nhìn thấy nó được dựng lên như một câu chuyện, một câu chuyện hiện đại, trong những từ ngữ lâm ly thống thiết dị đoan của người miền Nam, trong những từ ngữ của sự Buồn Chán đang ngự trị trên mặt đất.
“Cảm ơn thầy,” anh nói. “Thầy sẽ có những câu chuyện vào ngày mai.”
Ông giáo già cụp mi mắt xuống như thể nháy mắt.
“Đừng cố cải tiến quá nhiều Kinh Thánh,” ông nói. “Những người Do Thái ấy biết giá trị của động từ mạnh, mặc dù họ có lẫn lộn chút ít trên thực tế. Hẹn gặp cậu ngày mai.” Ông chậm rãi lắc đầu. “Alex Barr. Một cái tên thích hợp cho một nhà văn.”