← Quay lại trang sách

Chương 17

Người thành phố thường dậy muộn hơn dân quê. Nhưng dòng đời phố xá bốc lên nhanh như đám cháy được tưới dầu. Khoảng sáu giờ rưỡi sáng các gian hàng còn khóa chặt, chỉ các cửa ra vào lười lĩnh hé nửa cánh cho mấy người giúp việc ra quét vỉa hè hoặc để mấy bà chủ đầu còn ghim đầy những lọn cuốn tóc vừa bước ra vừa che miệng ngáp áo quần nhàu nhỉnh hớ hênh tìm gọi người bán bánh cuốn rong hoặc sôi nóng hoặc bánh mì pa-tê loại bình dân cho bữa sáng của chồng con. Tới 7 giờ, tất tật các gian hàng đã mở, sáng choang, hàng hóa bầy đâu vào đấy người chạy ra chạy vào nườm nượp. Không gian đầy màu sắc, đầy âm thanh, và cũng bắt đầu bốc bụi. Giữa dòng đời náo nhiệt ấy, Hoan sống lãng đãng như kẻ mộng du. Anh chẳng thức khuya cũng không dạy sớm. Thường bảy rưỡi sáng anh mới mở mắt nhưng còn nằm dài trên giường khoảng ngót một tiếng sau mới ra khỏi phòng. Giờ ấy, chị Nền đã nấu sẵn nồi nước lá thơm cho anh tắm. Mặc dù thời hiện đại, dân thành phố dùng đủ loại xà-phòng và sữa tắm ngoại nhập nhưng anh vẫn tắm nước lá cổ truyền. Ðúng thứ nước lá thơm mẹ anh vẫn tắm cho anh hồi nhỏ. Lá chanh, lá bưởi, hương nhu, cúc tần, lá sả... mùa nào thức ấy.

Tuyệt diệu nhất vẫn là những ngày cuối đông hoặc sau Tết nguyên đán, lúc đó các cây mùi đã già, lụi hoa, kết hạt đem chúng lên nấu trong những thùng nước lớn, hương thơm xông ngào ngạt, thứ hương nửa đồng nội nửa phòng the vừa gợi cho con người sự tinh thiết vừa buộc người ta tơ tưởng đến những khuôn ngực để trần.

Sớm hôm đó, Hoan vừa ra khỏi phòng tắm chị Nền đã đứng chờ anh:

- Cậu ăn sáng gì để tôi mua?

- Em chẳng ăn gì cả.

- Thế cậu dùng một tách cà-phê nhé... Cà-phê nhà không được thơm để tôi gọi quán Nhân đem sang.

- Chị đừng lo, em chẳng uống cà-phê đâu, mà em cũng chẳng đói.

- Cậu nói lạ, người đang xuân thì, không ăn sáng lấy sức đâu làm việc?

Hoan nhìn ánh mắt hoảng hốt của người đàn bà vừa như chị vừa như mẹ vừa như đầy tớ trung thành, đành nhượng bộ:

- Thế chị mua cho em gói xôi đậu xanh vậy.

Chị Nền yên tâm quay đi. Hoan ngồi pha ấm trà uống. Từ sáng hôm qua anh yêu cầu chị không làm món trứng nhúng nước sôi với lý do ăn trứng nhiều không tiêu được. Thực đơn thường ngày hai bà chị dành cho anh là ba quả trứng gà la-coóc ngày xưa ông giáo ưa thích sau đó cộng thêm một khoanh bánh mì hoặc một nắm xôi và tách cà-phê. Họ chẳng biết thứ thực phẩm đó làm đêm đêm anh khốn khổ. Vợ anh đã trở thành vợ kẻ khác. Người đàn bà góa Xóm Hà đã ngủ yên trong quá vãng và cơn đói dục tình không nguôi dịu khiến đêm đêm anh như kẻ ra đấu trường tỉ thí một mình.

- Xôi còn nóng đây, cậu ăn ngay đi.

- Em xin.

- Có ăn đường tôi mang thẩu đường lại.

- Cho em chút xíu.

- Sáng nay cô Kim Liên tới đây với đứa con gái.

- Cô ta vác xác tới đây làm gì?

- Cô ta đến lấy tiền... Cậu quên rằng tháng tháng mình vẫn phải góp tiền nuôi đứa bé ấy theo quy định của tòa án?

- Chết thật...

Hoan thốt kêu. Anh quên thật. Quên hoàn toàn bởi lâu nay chị Châu và chị Nền đã thay anh làm phận sự đó, cái phận sự hết sức phi lý mà người đời đã đặt lên vai anh. Món tiền chẳng là bao song lẽ nó là thứ nguyệt liễm bắt buộc anh phải đối mặt với quá khứ, cái quá khứ dù có muốn quên cũng không đủ sự dung thứ để lãng quên.

Sau đám cưới tai tiếng cô Kim Liên vẫn nghiễm nhiên xách áo quần về nhà ông bà giáo Huy, còn anh xách áo quần sang trú ngụ ở thôn Bảo, trong căn chòi cất rớ. Sáu tháng sau cô Kim Liên cho ra đời một đứa bé gái da nâu tóc quăn tít, chắc chắn nó phải thừa hưởng máu huyết của người đàn ông nào khác chứ không thuộc dòng giống của ông giáo Huy. Phố xá đến xem mặt đứa trẻ, nườm nượp như để minh chứng cho nỗi oan uổng của Hoan nhưng mọi người đều sợ uy ông phó chủ tịch thành phố và ngại cái mồm có quai của bà trưởng cửa hàng nên chỉ dám thì thào sau lưng họ. Bà Kim Lan tuyên bố:

- Cá nhà ai vào oi nhà ông giáo Huy vẫn là cá của ông giáo Huy.

Ông bà giáo nhẫn nhục chấp nhận. Ðứa bé được khai sinh với họ Trần. Và như để nhắc nhớ cuộc hôn phối ông phó chủ tịch thành phố đích thân đặt tên cho cháu ngoại: Trần Nguyễn Kim Loan. Họ tổ chức lễ thôi nôi cho đứa trẻ to hơn cả cỗ cưới của mọi gia đình khác... Nhưng tất thảy những sự kiện đó diễn ra như màn độc thoại. Bởi Hoan không về. Anh nằm lì trên chòi cất rớ làng Bảo. Hoặc đọc sách hoặc cất rớ và đêm đêm chờ cây cầu thang rung chuyển. Ông phó chủ tịch ngậm đắng nuốt cay im lặng. Ông thương con lẻ loi và chờ cơ hội. Vào thời kì đầu cuộc chiến, khi xảy ra vài cuộc thăm dò của phi cơ Mỹ và dăm trận khiêu khích vùng giới tuyến dân thành phố lẫn các huyện đã phải học tài liệu về âm mưu địch, về những nguy cơ chiến tranh, tầm quan trọng của tinh thần cảnh giác cách mạng... Một tối, Hoan đang nằm hóng gió trên chòi, có tiếng quát:

- Ai trên chòi, yêu cầu xuống ngay.

Anh chưa hiểu chuyện gì nhưng cũng thong thả tụt xuống. Dưới chân chòi lố nhố một đám người nai nịt sống ống.

Hoan vừa đặt chân xuống mặt đất, có tiếng quát tức thời:

- Anh là ai?

Cái giọng hách dịch lố lăng khiến Hoan bực. Anh đáp:

- Tôi là tôi.

- Không được hỗn láo với chính quyền. Họ tên là gì?

- Trần Quý Hoan.

- Hộ khẩu đâu, xuất trình?

- Hộ khẩu ở số nhà 17 phố Phạm ngũ Lão.

- Người ở đâu hộ khẩu phải ở đấy. Cớ chi anh tới đây?

- Tới đây kéo rớ.

- Chúng tôi đã theo dõi anh nhiều ngày nay. Cá anh kéo chỉ đưa vào nhà ăn hoặc thả xuống sông, anh không làm nghề như những dân chài khác... Hãy khai thật động cơ tới làng Bảo này?

- Không có động cơ gì hết.

- Chúng tôi được lệnh bắt tất cả những kẻ khả nghi về trụ sở ủy ban giao nộp cho tỉnh đội điều tra. Anh là kẻ khả nghi. Anh đã bị bắt. Hoan chưa kịp có phản ứng gì. Thậm chí anh chưa hiểu vì đâu và vì lý do nào bỗng dưng anh gặp cơn cắc cớ này. Anh ngơ ngẩn hoang mang và chính ngay lúc ấy, cái giọng hách dịch kia đã hô to:

- Các đồng chí, trói nó lại đưa về trụ sở.

Trong đám đen lố nhố, hai bóng người nhảy lại bẻ quặt hai cổ tay anh bằng một sợi thừng:

- Ði.

Cái giọng hách dịch đó hô tiếp. Một báng súng thúc vào lưng Hoan và cả bọn dẫn anh đi dọc bờ cát. Anh không biết mặt ai trong đám đông ấy, cũng chưa từng nghe cái giọng hách dịch kia bao giờ. Từ ngày đến làng Bảo, anh chỉ quen biết vài người quanh xóm Bính, xóm chuyên cất rớ sông và vài quán bán chè bán nước xung quanh. Có lẽ đám người bắt anh là dân quân thuộc làng Cát, làng kế cận làng Bảo nhưng cùng một xã Bảo Ninh. Họ thực hiện một cái lệnh nào đó của ủy ban xã... Thật tồi tệ. Anh không thể hình dung ngày nào đó anh bị liệt vào hạng người khả nghi và bị bắt, bị trói, bị đối xử một cách thô bạo như vậy... Nhưng chiến tranh, chiến tranh, chiến tranh... Anh bắt đầu hồi tưởng những gì đài phát thanh xã Bảo Ninh và cả đài phát thanh thành phố từ bên kia sông ra rả vọng sang, những lời lẽ hùng hồn và quyết liệt, rạch ròi, và tàn nhẫn... thứ văn chương đó hứa hẹn súng dao, máu đổ, đầu rơi:

Ta dại khờ... Rất có thể có những kẻ dựng chòi cất rớ bên sông để chỉ điểm cho máy bay bắn phá, hoặc thám thính tình hình dân cư, sự phòng bị và phân bố các lực lượng quốc trang... Ta chẳng có tội nhưng chính cuộc sống bất thường của ta đã khiến họ nghi ngờ...

Trên quãng đường đi tới căn phòng đầy rệp mà người ta tống giam anh, Hoan không ngừng băn khoăn về sự dại dột của mình về cuộc sống vô công rỗi nghề đã tạo cớ cho kẻ khác hồ nghi. Những ngôi nhà đen thù lù bên đường càng gia tăng nỗi sợ hãi ấy. Từ ngày có các cuộc khiêu khích của máy bay Mỹ, dân không được thắp đèn đêm. Chỉ được dùng đèn phòng không, đặt trong hộp, lỗ sáng khoét không lớn hơn con đom đóm. Khu nhà của ủy ban xã cũng đen ngòm. Một người trong bọn vẩy cây đèn pin trong tay soi ổ khóa, kẻ khác thò chìa mở. Hai cánh cửa có song sắt mở ra, một bàn tay cởi sợi thừng sau lưng Hoan và ẩy anh vào:

- Anh ở đó. Sớm mai sẽ khai báo.

Họ khép hai cánh cửa, kéo sợi xích loảng xoảng qua hai hàng song sắt và bấm ổ khóa tách một tiếng khô khục. Anh đứng lại trong gian phòng, nhìn qua hàng song sắt thấy đám người lô nhố đi xa dần, lặng lẽ như những bóng ma, chẳng ai nói thêm một lời nào nữa. Khi họ mất hút trong bóng đêm, anh vẫn đứng sững sờ, chẳng hiểu vì sao những kẻ anh không oán thù, không tranh giành lợi lộc lại có thể trói anh, thúc báng súng vào lưng anh và sau rốt đẩy anh vào một căn buồng tối tăm bốc mùi tanh và mùi mốc...

Ðêm ấy Hoan không ngủ. Anh ngồi trên đống phoi bào lẫn với lưới rách. Nơi đây hẳn đã từng dùng để chứa đồ hỏng và cũng đã từng giam người. Linh tính mách bảo anh như vậy. Lũ rệp từ mọi xó xỉnh mò đến tấn công. Hoan vừa gãi vừa mò mẫm giết chúng. Mùi máu rệp bốc lên hăng xè, hòa với mùi tanh lưu cữu của các manh lưới cũ và mùi mốc. Thứ mùi rất khó quên. Anh đã ngồi như thế cho tới tận bình minh. Khi nắng chiếu, anh mới thấy đám xác rệp be bét máu trên sàn xi-măng. Ðêm qua anh đã tàn sát chúng ra trò và chúng cũng đã hút máu anh ra trò. Vệt rệt đi thành lối, dẫn từ những cây cột nhà tới. Hoan đứng lên xem. Các kẽ nứt trên thân cột có hàng ngàn con rệp nhung nhúc. Dù ban ngày, chúng không dám bò đi bò lại nhưng vẫn nhúc nhích cựa quạy chen chúc nhau trong nơi ẩn náu quá chật hẹp. Hoan bất giác rùng mình, trong đám hàng ngàn con rệp này đêm qua mới chỉ vài trăm con tấn công anh. Nếu họ còn tiếp tục giam anh ở đây, hẳn lũ rệp sẽ lần lượt tới thăm anh cho tới khi anh còn sức mà giết chúng. Ðám xác rệp trên sàn gió đã thổi khô, dạt vào như nắm vỏ đỗ, lẫn với phoi bào. Lẫn trong đám phoi bào và lưới rách, anh nhìn thấy vài hòn gạch vỡ, mấy chiếc vỏ ốc, vài vỏ hộp đựng kim vá lưới. Hoan đá đi đá lại mấy chiếc vỏ hộp, bất chợt thấy một cây kim bật ra. Anh cầm cây kim cũ rỉ bắt đầu cuộc tàn sát lũ rệp. Chọc kim vào khe gỗ, anh khêu từng con ra, dùng mũi kim cắt thân chúng làm đôi. Xác rệp dính trên thân cột gỗ chỉ mươi phút sau đã khô queo rụng xuống. Hết rạch nứt này đến rạch nứt kia anh đã giết sạch lũ rệp bám trên thân cột đầu tiên. Lúc hơi nóng hừng hực trên đầu anh mới biết không kẻ nào đến đây để thẩm vấn anh như bọn người đêm qua đã hứa. Ném cây kim, Hoan ngồi xuống sàn:

Họ đã nói dối, cái lũ người đã tự xưng là chính quyền, đã quát nạt ta, đã thúc báng súng vào lưng ta... Và tại sao ta đưa ta cho bọn họ trói một cách dễ dàng như vậy. Ðêm không đèn lửa và lũ người bắt ta cũng không đọc lệnh bắt người. Ta là kẻ có chữ mà chịu bắt nạt như một gã nông phu thất học thời cũ...

Anh giận thân, đói và mệt. Tiếng gà gáy trưa eo óc từ nhà nào vẳng tới. Anh chẳng còn cách nào hơn là ngả lưng xuống đám lưới rách, chập chờn ngủ. Trong giấc ngủ đó, con tim anh đập nặng nề, tâm hồn anh khắc khoải, vừa oán hận một kẻ thù vô danh vừa sợ hãi một thứ tội lỗi chưa tìm ra diện mạo.

Quãng bốn giờ, bốn rưỡi chiều có tiếng mở khóa, tiếng xích loảng xoảng trên song cửa, một cô gái mặt tròn xoe lấy chân gạt rộng hai cánh cửa rồi xách chiếc làn tre bước vào:

- Cơm anh đây nè.

Cô nói, đoạn vừa liếc nhìn anh vừa mở làn lấy ra một tô canh cá còn bốc khói với đĩa cơm trên cắm cây thìa:

- Anh ăn đi.

Hoan hỏi:

- Những người giam tôi có nói với cô điều gì không?

Cô lắc đầu quầy quậy:

- Em nỏ biết, nỏ biết chi... Anh ăn đi hồi nữa em quay lại...

Nói đoạn cô hấp tấp đứng lên, chạy khỏi gian nhà và khóa cửa lại. Hoan hiểu rằng anh chẳng thể hy vọng gì nơi cô gái này. Có thể cô đã từng ở trong hàng trăm cô gái làng chài thường vụng trộm ngắm anh hoặc trêu ghẹo anh, nhưng cô cũng là nữ dân quân tự vệ xã và người ta giao cho cô nấu cơm canh cho một kẻ bị tình nghi la gián điệp... Cô không thể vượt qua phận sự của mình. Anh bưng đĩa cơm lên ăn, lòng bắt đầu bình thản lại. Thứ gạo đỏ dân chài ưa tuy không dẻo nhưng có vị ngọt đậm, món canh cá cay xè những ớt có nguyên khúc cá tươi. Ðó là bữa cơm đạm bạc của dân làng Bảo nhưng anh thấy nó rất ngon sau hai bữa ăn bị bỏ trống. Hoan khều từng mảy lá húng thơm lá thìa là nhấm nháp, húp từng ngụm canh chua cho đến giọt cuối cùng. Xong bữa cơm anh gạt bát đĩa sang một bên ngả người xuống đám lưới rách và ngủ ngay tức khắc.

Anh ngủ như thế đến lúc linh tính mách bảo rằng có ai đang ở rất gần anh. Mở mắt thấy khung trời đêm bên ngoài song cửa. Một cái đầu tròn trĩnh in trong khuôn cửa đó. Cô gái mặt tròn đang ngồi cạnh anh, im như phỗng. Hoan nhỏm dậy:

- Cô vào lúc nào vậy?

- Lâu rồi, nhưng nỏ dám thức anh.

- Sao không gọi tôi một tiếng?

- Thôi... Em đem canh vào cho anh, sợ anh đói.

- Cảm ơn, bữa cơm chiều đã đủ no.

- Không.

Cô đáp rồi bấm đèn pin soi chiếc làn tre. Anh thấy bát canh đậu xanh nấu với thịt lợn và tỏi, tỏi nổi từng nhánh trên mặt đỗ.

- Cảm ơn.

Hoan nói.

- Ăn đi.

Cô đáp.

Và cô lại ngồi im như phỗng sau khi tắt cây đèn. Hoan ăn bát canh đậu trong đêm, cô cũng ngồi chờ trong đêm, không nói gì thêm. Anh ăn xong, cô đặt vào tay anh một ca nhôm nóng bóng. Hoan đưa lên mũi, mùi chè xanh bốc bay. Cô gái lặng lẽ bỏ chiếc bát vào làn và ra về.

- Cảm ơn cô nhé.

Hoan nói vọng theo khi cô đang lúi húi khóa cửa. Cô ấp úng gì đó rồi biến mất vào đêm. Hoan ngồi uống từng ngụm chè một cho tới hết ca nước. Ðoạn anh bước vào góc phòng, tiểu. Loại nhà giam tạm bợ này vẻn vẹn chỉ có một gian, chẳng nơi tắm rửa, chẳng nơi đại tiểu tiện. Ở một góc người ta đục một lỗ thủng dưới chân tường thông ra khoảng sân cát phía sau. kẻ bị tù đái vào cái lỗ thủng đó và nước tiểu chảy ra ngoài, thấm xuống cát. Còn nếu muốn đi đại tiện, hẳn anh ta phải vơ những phoi bào mủn vào góc đó thay cho thứ bô vệ sinh thời cũ, hứng phân bằng tro. Hoan đã đủ thời giờ để quan sát cái nhà tù không chuyên nghiệp này và tự hỏi trước anh, đã có những ai từng bị giam nơi đây, và bởi những lý do nào?

Sáng hôm sau ủy ban xã mở cửa làm việc. Hoan nghe tiếng người qua lại khoảng sân tít xa vọng tới. Anh đoán chừng đó là những dân chài tới xin chứng nhận giấy tờ, học sinh tới xin con dấu và lý lịch, vài ba người ăn bận vẻ như đám cán bộ bên thành phố. Anh chắc mẩm sáng nay họ sẽ gọi anh lên đối chất và sau cuộc đối chất họ sẽ cho người điều tra, từ làng Bảo sang thành phố chỉ cách một con đò và như thế, chắc hẳn chiều nay anh sẽ được về nhà. Ngồi bó gối, anh kiên tâm chờ, nghĩ vẩn vơ đủ thứ chuyện. Rồi bất chợt tiếng gà gáy trưa vọng lại, Hoan đứng lên nhìn ra ngoài song cửa: khoảng sân cát trơ trọi chẳng bóng người. Nắng đúng đỉnh đầu. Như vậy, hẳn đám cán bộ xã đã về nhà và dùng xong bữa cơm trưa:

Lũ khốn kiếp... Không lẽ chúng muốn ta phải gào thét hay đập phá gian phòng này để làm cho rõ rành mọi chuyện? Hoặc chúng muốn làm nhục ta, muốn ta phẫn kích làm điều bậy bạ nào đó để khép ta vào tội tù đày? Nhưng là ai, và vì sao nhỉ...

Anh vừa điên giận vừa băn khoăn mọi nhẽ, lục tìm mọi kẻ thù mà không tìm nổi. Chắp hai tay sau lưng, anh đi đi lại lại trong căn nhà bẩn, chật, nóng sừng sực vì lớp ngói không trần. Trời lại im gió và không gian càng bức sốt thêm. Anh đói. Anh căm giận mình. Anh căm giận đám người đã nhốt anh vào căn nhà kho tồi tàn này rồi cố tình quên đi như để đùa rỡn anh hoặc dùng anh làm vật thí nghiệm cho một mục đích bí mật nào đó mà anh không hiểu nổi. Và anh, kẻ ngu xuẩn xứng đáng hưởng sự trừng phạt đó vì tính sĩ diện không đúng lúc của gã công tử. Lẽ ra anh phải kêu, phải gào thét, phải làm cho tất cả mọi người rõ chuyện anh đã bị bắt đi trong đêm tối bởi bọn người không rõ mặt và cũng chẳng giấy tờ, anh đã bị trói bởi một tội danh tuyên bố bằng mồm và anh đã ngoan ngoãn đi theo...

Hoan đi đi lại lại suốt buổi trưa đói khát buồn bực. Nhiều lần anh muốn cất tiếng gọi, hoặc gào thét nhưng lần nào anh cũng không mở miệng nổi. Thuở nhỏ anh đã xem những đám cãi nhau những gã say thuyết lý hoặc ca hát giữa đường, những kẻ điên vừa đi vừa lẩm bẩm vừa múa may... Tất thảy những cử chỉ kéo theo một đám đông, làm trò tiêu khiển cho đám đông đều khiến anh khiếp sợ. Anh không thể hình dung anh, con trai ông giáo Huy, có thể hò hét để kêu gọi một đám đông, để trình bày với họ sự thật, phân trần vơi họ nỗi oan uổng của mình và cầu xin nơi họ lòng trắc ẩn hay sự giúp đỡ... Không... Anh không thể... Và lần này cũng vậy vừa đặt chân tới cửa, vừa quay mặt ra phía song sắt định kêu la anh lại vội vã trở vào. Sau rốt, anh nằm xuống đám lưới rách chờ đợi sự xuất hiện của cô gái làng chài lần này nhất quyết bám theo cô đi ra tìm gặp kẻ cầm đầu lũ người bắt anh đêm trước... Anh nằm như thế qua ngày đến tối, hai mắt díp lại nhưng chẳng ngủ được. Không thấy cô gái mặt tròn. Cỡ tám, chín giờ tối, anh đoán chừng như vậy, có tiếng mở khóa cửa. Một người đàn ông bước vào. Một giọng nói xa lạ cất lên, hoàn toàn không giống với những giọng anh đã nghe trong bọn người đêm trước:

- Anh đói lắm hả? Anh ta hỏi.

Hoan không trả lời. Người lạ chẳng để ý tới thái độ của Hoan, nói tiếp:

- Từ đây anh đi chừng hai trăm thước tới gần bến đò có quán cháo ngon lắm. Trước quán đặt cây đèn phòng không, cháo bán ở phía trong. Anh đi đi.

Hoan hỏi:

- Tại sao các anh bắt tôi?

Người đàn ông đáp:

- Tôi không bắt anh nhưng tôi biết anh bị bắt.

Vì anh ta đứng đối diện nên Hoan thấy tóc anh húi móng lừa và quai hàm rất vuông. Một người tầm thước, hơi to ngang, thấp hơn anh nửa cái đầu. Hoan chưa kịp hỏi gì thêm anh ta đã nói tiếp:

- Anh hãy quay về thành phố. Gia đình anh, vợ con anh ở bên ấy, một mình anh ở đây người ta dễ sinh ngờ.

- Ngờ cái gì? Tôi có hành vi gì để ngờ vực?

- Ðất nước sắp chiến tranh... Chiến tranh là cái cớ khiến người ta dễ buộc tội nhau. Ðã là tội trong chiến tranh thì khó bề gỡ nổi... Anh hãy nghe tôi, quay về thành phố.

Hoan đứng lên, nhìn cái đầu móng lừa in trong khoảng sáng lờ mờ của khuôn cửa:

- Nhưng anh là ai chứ?

Người đàn ông thở dài:

- Tôi là một trong số những học sinh của thầy Huy, cha anh... Tôi nói như vậy, anh đủ tin rồi chứ... Thôi, hay rời khỏi nơi đây càng nhanh càng tốt...

Hoan không nói gì thêm, đi khỏi căn nhà tối om trong đó người đàn ông kia còn đứng lại. Khi tới ngả rẽ, anh quay đầu nhìn, tất cả chỉ còn là một khối đen. Ðêm ấy không trăng. Anh đi tới gần bến đò, mò vào quán cháo ăn liền ba bát cháo đoạn trở lại chòi. Quần áo đồ đạc của anh vẫn nguyên không suy suyển. Sáng hôm sau anh trở về thành phố trong chuyến đò thứ nhất. Anh không muốn dân làng Bảo biết anh đi. Anh đã đến một cách lặng lẽ, anh cũng đi lặng lẽ. Về đến nhà, anh bước thẳng vào buồng riêng. Cô Kim Liên đã ăn mặc chải chuốt chỉnh tề ngồi trên giường nhìn anh với đôi mắt sáng rực. Và tức khắc, anh hiểu ra mọi chuyện. Không nói một lời anh ra chợ mua một chiếc võng một tấm chiếu cói. Anh mắc võng vào hai cây cột hàng hiên sau nhà, nơi mọi người qua lại cả ngày lẫn đêm vì không ai tránh được lối vào nhà tắm lẫn nhà vệ sinh. Rồi anh căng mấy sợi dây, phủ tấm chiếu làm mái che sương, mắc thêm bóng đèn một trăm nến. Từ hôm ấy, cả ngày lẫn đêm anh không rời chiếc võng trừ những lúc đi dạo phố hoặc tắm biển. Anh đọc sách, anh ngủ, anh ngắm mây trời hoặc cây vườn. Ông giáo Huy chẳng nói nhưng anh biết cha ngầm ủng hộ mình. Mẹ anh thở dài sườn sượt nhưng vì yêu và nể con, bà không dám can ngăn đành cắm mặt chịu những lời rỉa rói móc mách của mụ cửa hàng trưởng. Bữa cơm, chị Nền dọn riêng cho Hoan một suất vào chiếc khay nhỏ để anh ăn trước hoặc sau mọi người. Anh ăn suất cơm của mình một cách chậm rãi vừa ăn vừa nhâm nhi đọc sách hoặc ngẫm nghĩ sự đời với vẻ ung dung của vị gia trưởng. Từ chàng trai hồn hậu dễ thương anh đã trở thành người đàn ông băng giá. Dường như anh tự cho phép mình đứng lên vị trí người đàn ông số một trong gia đình. Cha anh cùng tất cả mọi người tuân phục ý muốn ấy một cách tình nguyện và câm nín. Cả ngày Hoan không nói với ai một lời, trừ những lúc chị Nền bưng khay cơm vào cho anh hoặc khi anh hứng chí bảo chị nấu cho anh món ăn ưa thích. Không bao giờ anh đưa mắt nhìn mẹ con cô Kim Liên. Một lần nào đó, người đàn bà mặt dạn mày dày bồng đứa bé đến trước Hoan, vẻ như vừa bắt vạ vừa cầu xin:

- Nào, dù sao anh cũng bế con một lần cho nó khỏi tủi... Nó mang dòng họ Trần của anh đấy...

Hoan im lặng không trả lời. Cô Kim Liên sượng sùng quay đi. Lúc đó bà giáo bước tới, năn nỉ. Anh nhìn mẹ lễ phép trả lời:

- Con không thể... Xin mẹ để cho con yên...

Rút cục, cô Kim Liên đành bứt áo ra đi. Cô không chịu nổi cuộc sống của con vật lạc chuồng. Trong gia đình ông giáo Huy, cô sắm một vai tuồng, những người khác cũng phải sắm vai nhưng họ đứng tất về một phía. Uy tín và quyền hành của cha cô, sự đáo để nanh nọc của mẹ cô cũng không làm nổi cái điều cô thèm muốn: chúng không thể ép Hoan trèo lên bụng cô. Mà cô đã trải mùi đời. Cô chẳng thể chịu cảnh sống góa bụa. Cô trở về nhà liên tục trong nhiều ngày, khóc lóc nài nỉ cha mẹ thuận tình cho cô được ly hôn. Ông phó chủ tịch và bà trưởng cửa hàng bàn bạc mấy tháng trời trước khi bước vào cuộc mà cả. Họ cho phép Hoan được ly hôn với điều kiện phải chu cấp cho đứa bé Trần Nguyễn Kim Loan tới khi nó trưởng thành đồng thời phải đưa cho cô một số dấn vốn tương đương với năm cây vàng để bồi thường danh dự... Năm đó là năm chuẩn bị chiến tranh, đứa con cô Kim Liên vừa đầy tuổi, giờ đây nó đã mười ba. Năm tháng tưởng chừng dài dặc nhưng khi quay lại nhìn cũng ngắn ngủi như cơn mưa bóng mây, như giấc mơ đêm hạ...

Chị Nền lại mang thêm cho anh đĩa quýt chín, thứ quýt thơm chỉ trồng được trên những vùng đồi nhiều nắng:

- Cậu ăn vài trái quýt cho có chất tươi.

Hoan vừa bóc quýt vừa nhẩm tính xem năm cây vàng thời đó đáng giá bao nhiêu tiền? Anh chợt thấy sự tính toán là vô nghĩa. Vào lúc bà Kim Lan yêu cầu mẹ anh phải lo đủ năm cây vàng trước khi cô Kim Liên ký vào tấm giấy ly hôn mặt bà giáo Huy trắng nhợt, bà đã ngã khuỵu xuống đống vải dưới chân. Chị Nền phải chạy tới đỡ bà ngồi dậy. Năm cây vàng lúc đó là một gia tài kinh hoàng mà những người dân bình thường không hình dung được. Trong một xã hội phân phối từ cây kim tới sợi chỉ vá quần áo, cái xã hội tiêu chuẩn thịt trẻ em được một trăm gramme mỗi tháng chỉ cần có chiếc nhẫn một chỉ vàng đeo tay đã đủ vênh vang với mọi người. Bà giáo ông giáo không dám bàn tính vì số tiền đó ở ngoài khả năng của họ. Nhưng may mắn sao trong lúc gia đình anh tuyệt vọng, chính cô Kim Liên đã gỡ cho họ một bàn thua. Phạt mình ép xác không nổi, cô bắt nhân tình với anh trưởng phòng thu thuế Sở thuế thành phố. Anh này có cô vợ đen ròn, đảm đang, đã đẻ dốc thôi ba đứa con trai liền. Cô nuôi con hầu chồng rất tận tình nhưng ghen tuông cũng rất tận tình. Cô ta khéo chạy chọt sao mà cả một lúc bộ tứ lãnh đạo sở thuế bao gồm: Ðảng, chính quyền, công đoàn và đoàn thanh niên cùng tới rình chộp cuộc ngoại tình của cô Kim Liên với tình nhân. Cuộc vây ráp đó thành công ngoạn mục. Tất cả những kẻ tham dự đều được chứng kiến thỏa thuê đôi gian phu dâm phụ trong mọi tư thế làm tình và cô vợ lại là người kiên nhẫn đợi chờ cho tới phút đích đáng nhất mới lên tiếng hô hoán. Cả hai phạm nhân đều phải kí tên vào biên bản mới được phép mặc áo quần. Chưa hết, khi họ rời khỏi cửa, đám dân phố đã được thông báo từ trước hớn hở tới xem...

Nhờ ơn phước đó, gia đình ông giáo Huy chẳng phải nộp năm cây vàng cũng cứu được con trai khỏi cuộc hôn nhân bất hạnh.

Sau chiến tranh, mẹ con cô Kim Liên đưa nhau về thành phố. Cửa hàng bị trả lại cho gia đình Hoan, bà Kim Lan được điều phối làm trợ lý cho giám đốc sở thương nghiệp. Nhưng ông chồng bà chết, cùng với sự ra đi của ông là thế lực và may mắn bao năm nay bà vẫn quen dùng. Kiếm miếng ăn không đủ, bà xin ra ngoài mở quán Bar-Càfé. Dường như cuộc kinh doanh mới cũng không mấy suôn sẻ nên họ chỉ đủ độ nhật. Và tháng tháng họ vẫn tới tìm chị Châu đòi món tiền trợ cấp cho đứa bé kia... Bao lần phóng xe qua cửa hiệu Bar-Café Kim-Kim Hoan đều nhìn thẳng về phía trước nhưng trong thâm tâm anh thầm mong hai người đàn bà đó bất chợt xuất hiện nơi ngưỡng cửa để cho anh có dịp quan sát bộ dạng của kẻ thù. Chưa lần nào anh gặp họ và dần dà trí tò mò thù địch của anh nguôi ngoai. Tuy nhiên, những cuộc thanh toán phí tổn nuôi đứa trẻ kia vẫn xảy ra sau lưng anh và giờ đây nó chợt thức dậy những oán thù chưa hoàn toàn phai nhạt. Anh nhẩn nha bóc từng múi quýt bỏ vào miệng và sực nhớ rằng cái đứa bé gái mang tên Trần Nguyễn Kim Loan kia vẫn mang dòng họ của anh nghiễm nhiên là con anh trước luật pháp, mai này nó sẽ đủ quyền đòi chia gia sản với con trai anh, một đứa trẻ có bản tính thiên thần và đôi chút dại khờ:

Mai sau, nếu có rủi ro nào đó, ta không thể đội mồ sống dậy để đi tới phòng phân tích máu, để kiện lại những điều luật đã được tuân thủ trong một thời gian quá dài... Ta cần phải hành động ngay, để bảo vệ quyền lợi cho thằng bé...

Hoan biết những đồng tiền của anh ném ra lúc này có hiệu lực. Anh sẽ nhờ người tìm đường dây liên lạc với bọn mõ tòa:

- Cà-phê của em được chưa chị?

- Tôi đã gọi cà-phê Nhân, chắc họ đem tới bây giờ. Tôi cũng gọi thêm cho cậu chiếc mô-ka.

- Chị muốn em tăng cân như lợn hay sao?

- Không. Bánh nhà ấy nhỏ chỉ bằng quả trứng vịt thôi nhưng thơm lắm, mà kem cũng rất tươi. Lát nữa cậu nếm xem.

Ðiểm tâm xong, Hoan đến nhà Căng, người bạn buôn vừa giao du vài tháng nay. Anh ta hẹn Hoan bàn chuyện hùn vốn với một công ty sản xuất thuốc trừ sâu ở Sài-gòn. Hoan định bụng xong việc làm ăn sẽ đi tìm kẻ mách mối tới đám cán bộ tòa án. Nhưng trên đường đi anh bỗng nhức đầu dữ dội, cơn đau đánh phá bạo liệt đến mức anh cảm thấy đầu sắp tung thành mấy mảnh và óc não hỗn cuồng sôi sục trong đó sẽ bay tháo ra. Anh biết mình bị hành hạ, đành xuống xe vào quán nước, gọi liền ba cốc bột sắn uống. Hơn tháng nay anh liên tục tiếp đãi bạn hành.

Cuộc gặp nào cũng kèm theo những bữa ăn thịnh soạn. Nguồn sinh lực dồn tích không lối thoát thường xuyên dẫn đến những cơn đau đầu dữ dội, hoặc những khoảng khắc đột ngột choáng váng và mất trí nhớ. Ðêm đêm, anh như kẻ ra đấu trường đơn lẻ, đơn lẻ chiến đấu với sự hành hạ của chính thân xác mình. Ðêm đêm, anh gọi tên vợ thức dậy với manh quần bẩn, với thân xác mỏi nhừ và trạng thái tinh thần u ám như kẻ bị ma đè. Hoan biết giới tu hành có một thứ thuốc bột hiệu nghiệm uống lẫn với nước lá rau dăm. Anh muốn nhờ chị Nền đi tìm cho thứ thuốc diệt dục ấy nhưng không dám. Hai bà chị đều thầm mong cho anh tìm được người đàn bà mới, có hạnh phúc mới. Bởi, họ biết Hoan nặng lòng với Miên nên chẳng ai dám nói ra lời. Nhưng lúc này hoặc lúc khác, anh thấy xuất hiện các cô gái đã chín tuổi lấy chồng, hoặc những người đàn bà tuy dở dang nhưng còn son trẻ. Và những người ấy, như đám chim mồi, lượn lờ không mệt mỏi trước cửa hàng nhà anh chuyện trò thân tình với hai bà chị, tất cả đều chờ đợi một cơ may khi anh quên được người đàn bà xóm Núi. Hoan thấy họ tội nghiệp. Anh không còn là gã khờ năm xưa để sa chân lần nữa.

Nhưng những cơn sốt dục tình không ngừng tra tấn anh. Rồi dịp nào đó, bỗng dưng người ta giới thiệu anh tới bà chủ quán Cổ Truyền. Ðó là một quán ăn lạ kỳ, cửa hàng không nằm ngoài mặt phố mà ở trong ngõ kín. Khi tới đấy, Hoan đã phải để xe lại để thả bộ vào trong con hẻm nhỏ, lối cong queo, có rất nhiều cây cột điện thời cũ được vá víu dựng lại, nhà cửa nhỏ bé lộn xộn, cái tường ghép gỗ, cái xây gạch cao thấp chen nhau nhưng nhà nào cũng trồng một giàn hoa giấy phía trước nên khắp ngõ xác hoa giấy như rải thảm.

Quán nằm ở cuối ngõ. Một tấm bảng gỗ mộc sơn hai chữ CỔ TRUYỀN bằng hắc ín. Nhà thấp lợp ngói, bàn ghế trong quán đóng theo kiểu cổ, thuần bằng gỗ mộc, ám khói và nhẵn bóng mồ hôi. Tường không tranh, không hoa giả, không đèn điện trang trí... Tóm lại không một chi tiết nhỏ nhặt nào của đời sống hiện đại lọt vào đây và bởi thế, quán ăn này hoàn toàn như một quán ăn từ vài trăm năm trước phục chế lại. Chủ quán là một bà lão sáu mươi lăm nhưng tinh tường, khỏe mạnh, vừa oai vệ vừa ranh ma. Tóc trắng phơ cuốn lên bằng một cây trâm đồi mồi, quần áo lụa đen kiểu cổ nhưng tay lại đeo đồng hồ hãng Quac, trông bà nửa như tiên nửa là phù thủy. Quán Cổ Truyền nổi tiếng với các món ăn cầu kỳ tốn kém thời gian dẫu là món bình dân: Lươn om, ốc om, cá nướng lá chuối, cá trê nấu mẻ, xôi trắng ăn với ruốc cá rô... Nhưng bà chủ còn nổi tiếng hơn các món ăn của bà vì bà biết bắt mạch Thái Tổ, chỉ cần xem mạch đủ biết vận mệnh, hung cát. Và biết chế tác những phương thuốc bí truyền nhằm kích dục hay diệt dục, bà có thể chữa bệnh vô sinh cho kẻ này hoặc trục thai cho người khác. Cả những ông chồng bất lực đứng đắn và đau khổ lẫn bọn Sở Khanh ma cô đều phải tới cậy cục trước cửa nhà bà. Ông chồng đã quá cố của bà vốn người Tàu, một thầy thuốc lừng danh nhưng không chống lại được vận mạng đã chết trước bà hơn một thập kỷ. Chính ông đã truyền cho bà các ngón nghề bí hiểm. Hơn nữa ông còn truyền cho bà sự ngoan cường và lòng kiêu hãnh ít ai bì. Bởi thế, tuy bà chỉ là một bà già bình thường nhưng đám người có quyền chức trong thành phố cũng phải kiêng nể.

Khi Hoan gặp bà, bà đang ngồi chơi bài một mình trong phòng riêng. Bà rót cho anh một chén chè tí xíu rồi nói:

- Người ta sống thuận theo lẽ trời là tốt nhất. Cậu có chữ chắc hiểu, khi âm dương giao hòa khí huyết ắt lưu thông, mọi tương năng tương hỗ khác nhờ theo đó mà thịnh... Nếu đã cài then sập cửa, ắt ngôi nhà phải tối tăm, ngột ngạt, không nơi này thì ngã kia tù đọng, hôn ám...

Hoan im lặng. Anh không thể và không có thói quen giãi bày tình cảnh trước người thứ hai. Anh chỉ nói:

- Cảm ơn bà. Nhưng cháu cần thứ thuốc ấy.

Bà nhìn anh với cái nhìn ngao ngán lẫn chút tò mò rồi đưa cho anh thứ thuốc bột màu nâu. Anh đã uống thứ thuốc tiết dục đó, ngày ba lần sau bữa ăn, mỗi lần một thìa cà-phê đầy. Sau ba tuần mọi nhu cầu sinh lý hoàn toàn biến mất... Nhưng anh cảm thấy anh trở thành một kẻ khác. Anh rất thích ngủ, mỗi ngày ngủ đến mười hai giờ. Tay chân anh không còn ấm nóng mà lạnh đi, da anh xanh và anh đi đứng chậm rãi như kẻ chán chường. Ðôi khi, chính anh cũng sợ anh khi thấy anh trống rỗng, không muốn suy nghĩ, không muốn quan sát mọi vật, nửa như sống nửa như vất vưởng đâu đó bên ngoài cõi đời. Hai bà chị hoảng sợ hoảng sợ tìm thầy thuốc. Nhưng Hoan gạt phắt đi. Giờ, anh đã hiểu lời bà lão. Anh biết anh phải lựa chọn giữa hai trạng thái bệnh hoạn. Và anh lựa khả năng thứ hai. Bởi anh còn muốn sống như một người đàn ông khỏe mạnh, tỉnh táo. Anh còn phải làm việc cho con trai anh, cho những người thân của anh, cho người đàn bà anh chưa ngớt yêu dấu...

Uống liền mấy cốc bột sắn, Hoan ngồi bóp thái dương lẫn đỉnh đầu một lúc lâu cơn đau mới dịu. Anh tới nhà Căng. Ở đó, qua buổi trưa anh không dám uống rượu chỉ ăn hai bát cơm với đậu phụ luộc chấm tương. Gã bạn buôn cười hô hố:

- Sao anh khốn khổ thế? Một thằng gốc gác dân cày như tôi cũng chẳng cam lòng chịu đói như anh.

Vốn tính kín đáo, Hoan không có thói chuyện trò bả lả với ai. Bị người khác dò đúng căn bệnh, anh đâm lúng túng, mặt đỏ bừng.

Căng chăm chú nhìn anh, vẻ tò mò hớn hở, dường như gã vừa bắt được món tiền lớn:

- Chết nỗi, sao anh lại đỏ mặt tía tai lên như vậy? Thật không ngờ, tới hôm nay tôi mới trông thấy gáy nhà buôn lớn nhất sáu tỉnh miền Trung.

Hoa đáp:

- Ai cũng có phần ngờ nghệch. Tôi không phải người quen thuộc chốn ăn chơi.

- Thế anh tưởng tôi là kẻ ăn chơi à?

Căng cao giọng vặn lại. Rồi không chờ Hoan trả lời, hắn tiếp:

- Bốn đời nhà tôi cơ cực nên tôi chẳng dại dột ném tiền vào chốn cờ bạc gái trai... Anh biết rõ tôi đấy: Tiêu một hào tôi cũng cân nhắc bảy lần. Một bữa tiệc chốn thị thành nuôi được cả gia đình dân cày trong vài tháng mà họ hàng chú bác bên nội bên ngoại của tôi còn ở tất tật chốn bùn lầy. Tôi vẫn phải cưu mang họ... Nhưng vấn đề chính tôi nói với anh chẳng phải chuyện chơi bời mà là phép vệ sinh. Anh bỏ qua cho tôi, thật ra cái... việc đó cũng giống như việc vào hố xí. Người ta có ăn thì có ỉa, uống bia vào thì sớm muộn hai ba tiếng sau cũng phải đái ra. Ðố ai giữ nổi các thứ bã thải trong thân xác.

Hoan đáp:

- Tôi không quan niệm như thế.

Căng giương mắt nhìn anh chằm chằm:

- Trước khi tôi sống độc thân ở thành phố này tôi cũng đã có vợ. Trước khi có vợ tôi cũng đã yêu. Và tôi cũng nghĩ như anh rằng người ta chỉ có thể ngủ được với người đàn bà họ yêu thôi... Nhưng sự đời chẳng thế.

Hoan im lặng. Và bất chợt buông tiếng thở dài. Gã bạn buôn kia nói đúng. Cha anh dạy anh rằng người đàn ông chỉ hạnh phúc với người đàn bà họ yêu. Và anh hoàn toàn tin vào điều đó. Nhưng cuộc làm tình đầu tiên của anh với cô Kim Liên cũng đem cho anh sự thỏa mãn, dù anh chẳng biết cô ta là ai và cuộc làm tình đó diễn ra trong trạng thái mơ ảo... Và rồi nữa, những cuộc làm tình với người đàn bà xóm Hà trong cây chòi cất rớ ven sông Lệ Nhật... Những đêm ấy anh cũng đã leo tới đỉnh ngọn triều khoái lạc, dù chẳng là thứ khoái lạc vẹn toàn của hạnh phúc như anh từng nếm trải với Miên... Có lẽ, những điều Căng nói là sự thật. Có lẽ người đàn ông cần tìm một nguồn mạch giải tỏa cơn khát dục tình giống kẻ lữ hành trên con đường xuyên núi khô khan phải làm nguôi cơn khát bằng vũng nước bất kì bắt gặp... Và anh chợt nhớ tới Miên, chị vẫn phải chung đụng với một người đàn ông chị không còn yêu nữa. Vậy những cuộc làm tình đó cũng ở bên ngoài hạnh phúc, bên ngoài cái chuẩn mực tình yêu mà cha anh đã dạy anh...

Căng vẫn không rời mắt nhìn Hoan, lúc đó tiếp lời:

- Hoàn cảnh anh khác tôi. Vợ anh không hư hỏng do hoàn cảnh bắt buộc phải xa anh... Anh vẫn có thể thương yêu chị ấy, nhớ nhung chị ấy và vẫn có quyền tìm một người đàn bà nào khác để xả những thứ rác rưởi tồn đọng trong thân xác.

Hoan vẫn biết có cái nghề cổ xưa như trái đất. Và nghề đó thời nào cũng tồn tại dù công khai hay lén lút. Hẳn nó là thứ nghề phục vụ cho những gã đàn ông rơi vào cảnh khốn khó như anh hoặc những kẻ thiếu hụt tiền tài hay khiếm khuyết nhân dạng chẳng thể tìm nổi một người đàn bà thương yêu mình...

Phải, mọi thứ đều cũ mèm như trái đất. Trước ta cũng đã có hàng triệu người đàn ông và sau ta cũng sẽ có hàng triệu người nữa rơi vào cảnh ê chệ này...

Anh nghĩ. Nhưng anh vẫn cảm thấy hổ thẹn và lẫn chút trắc ẩn khi nghĩ tới việc tới lầu xanh để tìm một cô gái lầu xanh.

Chừng như đoán rõ những ngại ngần trong anh, Căng lên tiếng:

- Thôi đi, hàng hóa nào cũng cần kiểm nghiệm. Tối nay theo tôi. Anh sẽ thấy chẳng cần tư lự nhiều như thế. Sự đời đơn giản. Ta mua một món hàng và trả đúng giá, như các cụ đã nói từ xưa: Ăn bánh trả tiền.

Rồi Căng liếc đồng hồ. Anh ta có cái hẹn khác vào lúc một giờ rưỡi. Gã đàn ông này là cái máy kinh doanh, là con bệnh khát tiền, làm việc không kể đến thân mình bất kể loại công việc nào dù thượng vàng hạ cám. Hoan biết thứ kinh doanh khốn khổ như thế thường chẳng đem lại bao nhiêu lợi lộc cũng giống những người buôn từ nước mắm tới bấc dầu đèn dù xoay sở quần quật như trâu cũng khó kiếm nổi một số hời cho ra tấm ra món và khó có cơ ngoi lên được:

Vậy mà gã nhà que đo lọ nước mắm đếm củ dưa hành này lại là kẻ khai tâm cho ta ngày hôm nay. Ðời quả nhiều bàn cờ nhiều ván cờ, anh thắng bàn này sẽ thua bàn khác...

Hoan thầm nghĩ. Anh chào gã, ra về. Tới nhà, anh lao vào buồng ngủ một giấc tới tận ba giờ chiều mới phóng xe ra tắm biển. Khi trở lại, Căng đã đứng trước quầy thu tiền tán gẫu với chị Châu.

- Tôi chờ anh đã ba mươi lăm phút.

- Xin lỗi, tôi tưởng anh tới muộn hơn.

- Anh chưa ăn bữa chiều ngoài bãi biển đấy chứ?

Căng hỏi, nháy mắt một cách bợm bãi:

- Nghe nói ngoài bãi biển có món tôm tươi luộc ngon lắm?

Hoan không đáp. Hai bà chị anh đang đứng ở đó. Những người đàn bà của thời cũ không bao giờ dám nghĩ đến loại chuyện suồng sã như vậy. Hoan đi thẳng vào nhà tắm cất quần áo, thay bộ đồ mới rồi quay ra.

- Nào đi...

Anh quay lại dặn:

- Tối nay em không ăn cơm nhà.

Họ cùng lên xe, nổ máy phóng đi. Hoan hỏi:

- Ði đâu?

- Ðến tiệm ăn Tàu.

- Tiệm nào?

- Cao lâu đường Trần-Phú.

Ngừng lại vài giây, Căng nói tiếp:

- Trước khi tìm thú thanh lâu nên ăn món ăn của người Tàu. Ấy là bài học dân Chợ Lớn thứ thiệt đã dạy tôi.

Khi họ dựng xe, vào quán ăn, Căng lại bảo:

- Anh trả tiền chầu ăn. Tôi trả tiền chơi. Như thế công bằng.

Hoan đáp:

- Tôi sẽ trả cả hai chầu, yên tâm.

Căng cười hơ hớ:

- Hôm nay tôi gặp may.

Lúc hai người ngồi xuống bàn ăn, anh ta nói thêm:

- Nhưng kẻ may mắn không chỉ là riêng tôi... Rồi anh sẽ thấy...

Ðoạn quay vào phía trong, anh ta lớn tiếng gọi:

- Cho thực đơn ra đây...

Ðám người hầu bàn Dạ ran trong bếp. Tiếng dạ đặc biệt chỉ có ở các quán ăn Tàu, nó vừa như thứ tín hiệu đáp lời vừa như giọng nhại phía sau cánh gà sân khấu, thuần có ý nghĩa hình thức. Bởi năm sáu tiếng Dạ cùng nhất loạt cất lên nhưng phải chờ hai mươi phút sau mới có một gã trai cao lêu đêu chạy tới. Gã chìa cuốn thực đơn dày cộp, nói:

- Dạ, hai ông kêu trước đồ uống gì?

- Rượu, rượu bổ... Cho loại thượng thặng ấy...

- Dạ...

Gã cò hương quay lưng chạy đi và chừng mươi phút sau gã trở lại với chiếc khay nhỏ bày chai rượu thuốc, hai chiếc ly thủy tinh với vài đĩa đồ nhắm chơi cho vui miệng. Ðặt khay rượu lên bàn, gã lại rút cuốn thực đơn ra, cất tiếng:

- Giờ, xin hai ông gọi món chính.

Căng đặt món chim hầm bát bảo và cá hấp thịt lợn nấm hương. Anh ta gọi cho Hoan bát súp bào ngư với tô gà tần cung đình, loại già đen nhỏ chỉ độ ba bốn lạng tần với các vị thuốc bổ nhằm bồi dưỡng tinh lực vua chúa hoặc các hoàng thân đế thích xưa ưa dùng. Khi gã bồi chạy đi, Căng hỏi:

- Anh biết thứ rượu: Thang vua Minh Mạng này chưa?

- Chưa.

- Ðó là thứ rượu được sáng chế thời Minh Mạng. Vua dùng thứ rượu này và có tới một trăm mười tám người con. Nó nổi tiếng đến nỗi trong xứ ngoài xứ đều biết và được đặt tên là: Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử.

Hoan có biết chút tiếng Hán Việt nên anh kinh ngạc hỏi lại:

- Nghĩa là một đêm gặp sáu người đàn bà và thụ thai năm đứa con? Anh không nghe nhầm đấy chứ?

- Nhầm thế quái nào được? Tôi chẳng biết tí tiếng Hán nào nên kẻ cho tôi uống thứ rượu này lần đầu đã phải giảng tường tận cái tên đó... Và chẳng giấu gì anh, tôi cũng đã thử khá nhiều lần. Nào, ta thử đi... Rồi đêm nay anh sẽ thấy...

Gã cất tiếng cười rất lớn, đầy tự tin trước khi mở nút rót. Hoan nhìn chất nước màu mận chín trong chiếc ly thủy tinh, vừa nghi hoặc vừa háo hức. Anh thấy mình như thằng bé con bị dẫn dụ bởi một tên ma cô hay một gã cò mồi:

Chẳng sao hết, cuối cùng thì tất cả mọi người đều phải trả giá cho sự hiểu biết, cũng như ta...

Anh tự an ủi và dốc cạn ly rượu đầu tiên. Sau ly rượu đó, anh tự rót tiếp ly thứ hai, thứ ba, tự thấy phấn chấn, nói nhiều hơn, cười to hơn, và khi kín đáo liếc mình trong tấm gương ám khói treo tường anh kinh ngạc thấy một gã đàn ông khác, khác hoàn toàn cái tôi của mọi ngày, gã nhìn anh với cái nhìn đầy khiêu khích. Không hiểu thứ rượu thần kỳ kia hay những món ăn cung đình khiến anh rơi vào trạng thái hưng phấn lạ lùng ấy. Rồi, trong cái quán ăn ngào ngạt mùi xào nấu, ngột ngạt khói thuốc, ầm ĩ tiếng người bỗng vang lên một khúc hát anh yêu thích và anh vô tình khe khẽ hát theo:

Ta đã từng rơi vào bẫy sau những chén rượu đỏ ở nhà mụ Kim Lan. Bây giờ, ta sẽ tự tìm đến một cái bẫy khác sau những ly rượu màu mận chín, những ly rượu thuốc của ông vua cường dâm. Ngày xưa, ta là thằng bé con lớ ngớ. Giờ, ta là gã đàn ông đói dục tình. Ta có quyền làm mọi điều ta ưa thích...

Ý nghĩ ấy vang lên trong anh như một câu hát, vui vẻ, sỗ sàng, cợt nhả. Một thứ màu sắc anh chưa từng thấy trong đời, sẽ làm quen với một cuộc đời khác hay với hương vị khác của cuộc đời? Thây kệ...

Căng nhìn anh với cặp mắt ranh mãnh. Mặt gã đỏ phừng phừng.

- Ði chưa?

- Ði.

Hoan vẫy hầu bàn, thanh toán tiền rồi họ rời quán ăn. Hai người lên xe phóng tới nhà Căng, cất xe máy ở đó thả bộ theo phố. Hoan không nhớ những dãy phố anh đã qua, bao nhiêu ngã tư và bao nhiêu lần rẽ. Anh đi theo Căng, chẳng nghĩ ngợi gì, miệng lẩm nhẩm hát những câu hát cũ và đôi lúc cười tủm một mình. Sau cùng, họ tới dãy phố nhỏ có nhiều cây bàng còi cọc. Căng bước tới một quầy thuốc lá lẻ:

- Có thuốc sẵn đấy chứ?

Sau quầy nhô lên một gương mặt đàn ông, một gương mặt đầy phè thịt và dù ánh đèn đường tù mù, cũng thấy lần xần những mụn. Gã bán thuốc há miệng cười:

- Lúc nào cũng có, nhưng phải sơ tán xa.

Căng gật:

- Cũng được.

Gã hỏi tiếp:

- Nhảy dù hay qua đêm?

Căng bảo:

- Qua đêm.

- Một mình ông hay cả hai?

- Cả hai.

- Ði riêng hay đi bè?

- Riêng.

- Tôi hiểu rồi.

- Giá cả ra sao?

- Như cũ.

- Ðược. Ði thôi.

- Khoan đã. Giờ này cá lạ đứng đường. Các ông phải chờ nửa giờ nữa tới phiên gác mới.

- Thì chờ. Lại ra quán cóc vậy.

- Phải. Thu Cúc vẫn ngồi chỗ cũ.

Căng kéo Hoan đi. Họ tiếp tục đi một đoạn nữa tới quãng tối, ngồi xuống vỉa hè uống nước chè bình dân. Ðó là thứ quán lưu động thường gọi là quán cóc. Cóc nhảy. Người bán quán cóc vác đồ đạc và xách ấm nước chè chạy từ xó này qua xó khác trước cây dùi cui của cảnh sát. Nhưng các quán cóc vẫn tồn tại nguyên xi. Khi là món tiền lót tay luồn vào túi nhà chấp pháp, khi là sự kiên nhẫn chờ đợi phút nản lòng của luật lệ, người ta lại đặt chiếc thúng tre lên vỉa hè, quăng vài ba chiếc ghế đòn cho khách xung quanh. Trên thúng đặt chiếc mẹt tre và trên mẹt là tất thảy hàng hóa có thể có: Dăm túi mực nướng, dăm túi kẹo lạc hay kẹo bột, dăm gói lạc rang, mấy chiếc chén cáu để uống chè và vài ba ly thủy tinh nội địa để uống rượu. Ấm chè ủ trong giỏ, còn chai rượu giấu dưới thúng. Lúc hai người bước tới, trên mẹt của chủ hàng thắp cây đèn dầu. Người đàn bà bán hàng có gương mặt tăm tối ngồi như tượng phía sau. Căng hỏi:

- Nước nguội ngắt rồi chứ?

Người đàn bà không trả lời. Căng kéo Hoan ngồi xuống:

- Anh cao to ngồi thứ ghế đòn này hơi khó chịu... Nhưng phải chấp nhận thôi... Anh đã khát chưa?

- Chưa.

Căng quay lại bảo người bán hàng:

- Chúng tôi không uống nước... Này cầm tiền cho thuê chỗ ngồi.

Ðoạn dúi vào tay chị ta tờ bạc. Thiếu phụ trạc ngoài bốn mươi cầm tờ bạc đút vào túi áo với vẻ thờ ơ, như chẳng thèm để tâm tới. Mặc dù gương mặt u ám, chị ta có một vẻ kiêu kỳ lạnh lẽo kín đáo và huyền hoặc. Tấm khăn chị trùm đầu in hoa rất rực rỡ, cũng rực rỡ như tấm áo chị đang mặc. Anh hình dung dưới ánh mặt trời, hẳn những màu sắc đó sẽ hân hoan như tuổi trẻ và đẹp một vẻ đẹp chọn lựa.

Những người bán quán cóc thường tìm cách trò chuyện với khách và nói chung họ là những kẻ nhiều lời nhưng người đàn bà này lại câm lặng như pho tượng, vẻ dửng dưng của chị ta khiến Hoan kinh ngạc. Sau khi nhét tiền vào túi, chị ta rút một miếng mực nướng, xé từng sợi nhỏ bỏ vào miệng bộ dạng giống như đứa bé ăn quà. Thấy anh ngồi yên lặng, Căng rút thuốc mời:

- Anh có hiểu gì về thế giới của những người đàn bà ăn sương không?

- Không.

- Ðây là lần đầu anh đi thông cống?

- Phải.

- Vậy tôi giải thích đôi điều. Gái làng chơi ưa dùng tiếng lóng. Thứ tiếng đó nghe vui tai hơn tiếng của đám đông. Ví dụ, nếu anh chỉ ngủ với họ một lần người ta gọi là anh nhảy dù. Nếu thuê trọn đêm anh có thể làm tình một, hai, ba, bốn lần như lũ đàn ông động đực bình thường hoặc bảy, tám lần như đứa vua Minh Mạng, tám chín lần nếu anh còn đủ sức... Như thế gọi là đi tàu suốt...

Tới đó, người đàn bà bán hàng bỗng đập vào cánh tay Căng:

- Họ kêu ông kìa.

Cử chỉ của chị ta có một vẻ thân tình và sỗ sàng rất bất ngờ.

Hoan kinh ngạc nhưng Căng tỉnh bơ quay sang nhìn quầy bán thuốc lá lẻ đầu phố. Chiếc đèn dầu hỏa đặt trên tủ kính đang trượt đi trượt lại mấy lượt liền. Căng vụt đứng dậy:

- Ði thôi.

Trước khi đi, anh ta còn quay lại nhoẻn miệng cười với thiếu phụ:

- Sao tối nay dịu dàng nết na thế?

Người đàn bà không đáp, cúi xuống thu dọn ghế đòn bỏ vào thúng cùng những thứ hàng hóa khác rồi cắp thúng đi theo họ. Gã bán thuốc đang đi đi lại lại bồn chồn phía sau tủ:

- Cá quen đến rồi, các ông đi đi.

- Ai dẫn đường đêm nay? Căng hỏi.

Gã bán thuốc hất hàm chỉ người đàn bà bán quán cóc:

- Ðó.

Ðoạn gã bảo chị ta:

- Ngõ số ba, nhớ chưa Thu Cúc...

- Nhớ.

Chị ta cất lời, giọng trầm khàn như giọng đàn ông. Hoan lần nữa tò mò nhìn người thiếu phụ tàn úa có cái tên mỹ miều kia. Ánh đèn đường quá mờ nên anh không thể thấy gì hơn ngoài một gương mặt võ vàng dưới tấm khăn hoa sặc sỡ quấn kiểu dân Chàm. Người đàn bà đi trước, Căng dẫn Hoan theo sau. Họ vào một ngõ nhỏ, đi lòng vòng qua những ngôi nhà thấp bé, vá víu, kiến trúc nửa quê nửa tỉnh bằng tất thảy những thứ phế liệu nhặt nhạnh được. Những căn nhà lồng ghép, chồng chất chằng chịt tựa cuộc đời đám dân tứ xứ tụ bạ về đây sau chiến tranh, chúng giống đám ốc bươu con nọ bám lưng con kia, cụm này kề cụm khác... Chỉ mới vài năm sao cuộc sống nơi đây đã kịp sinh sôi nẩy nở và cũ kỹ đi nhanh làm vậy. Hai người chui qua những hàng dây thép phơi quần áo, vượt qua những mảnh sân méo mó dị hình, bước qua các đống rác tú hụ chưa kịp hốt và sau rốt leo lên một cây cầu thang ghép bởi những mảnh ván cốp-pha chưa kịp bào nhẵn xấu xí thô lậu. Hoan chưa đặt chân tới khu vực này lần nào, thậm chí anh cũng không tưởng tượng có một khu dân cư tăm tối thế trong thành phố quê hương anh. Trước chiến tranh, khu nhà này chưa hề có. Ðây là đám bèo dạt sau những năm tháng đạn bom. Hoan bảo Căng:

- Nói chị ta đi chậm chậm một chút...

Anh không muốn nói thêm rằng anh chưa quen đi trong những lối lắt lẻo, bẩn thỉu và dưới thứ ánh sáng nhập nhoạng này. Căng gọi với lên:

- Thu Cúc, đợi với...

Nhưng người đàn bà vẫn bước vùn vụt, như không nghe thấy hoặc giả bộ không nghe thấy. Căng buộc phải đuổi theo chị ta. Và Hoan buộc phải đuổi theo gã. Vì to lớn kềnh càng nên anh thật khổ sở mới theo kịp hai kẻ đi trước. Sau cùng, họ dừng lại trước một cánh cửa lớn, gỗ sơn nâu. Người đàn bà đập thình thình vào cánh cửa đoạn kéo sợi dây chuông. Tiếng leng keng rất nhỏ vang lên phía sau bức tường. Cửa mở hé. Người đàn bà dẫn đường quay ngoắt đi và nhanh như mèo chị ta biến mất. Khuôn cửa hé mở ló ra màu đỏ của một tấm màn, một thứ ánh sáng vàng vọt dơ dáy chiếu xuống. Khung cảnh khiến Hoan bất giác chùn chân lại. Chừng như đoán được sự ngại ngần của Hoan, Căng túm cánh tay anh lôi đi theo:

- Nhảy xuống nước đi, như lần đầu tập bơi vậy... Anh không còn ở tuổi ấu nhi...

Hai người bước vào khoảng không gian vàng khè hình chữ nhật. Tấm màn đỏ giăng trước mặt họ từ bức tường bên trái qua bức tường bên phải. Chính giữa treo một bóng đèn ám khói, không chao. Không để Hoan có thời giờ suy nghĩ, Căng hỏi:

- Sau tấm màn kia là hai gian buồng đi khách. Anh lấy gian bên trái hay bên phải?

Hoan đưa mắt nhìn tấm màn đỏ lem luốt những vết son phấn, vết dầu mỡ vết nhọ nồi và hàng đám những vết bẩn khác không thể đoán được lai lịch. Căng không đợi anh trả lời, nói tiếp:

- Sau tấm màn đỏ này căn phòng ngăn làm đôi, chúng ta sẽ được hưởng cái thú nghe lẫn nhau, coi như ăn một món hai lần. Tôi chọn cho anh gian buồng bên phải. Với người tập sự, hướng đó thuận tiện hơn.

Nói rồi Căng dắt tay Hoan tới bức tường bên phải, vén tấm màn đỏ đẩy anh vào trong và quay lưng đi ngay. Hoan nghe tiếng chân gã bước sang gian buồng bên kia và giọng nhẹ nhàng của một người đàn bà cất lên:

- Lâu lắm mới thấy mặt anh...

Tới đó, hai bàn tay của một người đàn bà khác từ phía sau lưng Hoan vươn qua vai anh, lướt trên cổ trên cằm xiên qua hai má và dừng lại mơn trớn nơi trái tai anh:

- Lần đầu hả anh?

Giọng người đàn bà này trầm hơn người ở buồng bên kia. Hoan không đáp. Anh không biết mình nên trả lời ra sao. Anh đứng im như tượng. Hai bàn tay đó tiếp tục ve vuốt, những chiếc móng khẽ cào qua vành tai anh, hai ngón út từ từ ngoáy vào lỗ tai anh và giọng chị ta lại cất lên, lần này rõ rành hơn, mơn trớn hơn:

- Ðừng sợ... Ðừng sợ...

Hoan rùng mình. Da thịt đàn bà đang áp sát vào lưng anh, hơi nóng xuyên qua lớp vải truyền sang da thịt anh, bắt đầu từ hai mông lan dần lên lưng tỏa xuống cặp đùi. Nhưng anh vẫn đứng im lặng. Anh vốn có thói quen im lặng khi ở những hoàn cảnh phức tạp hoặc vào những lúc anh chưa tự chế ngự được cảm xúc lẫn tinh thần. Anh ngửi thấy mùi thuốc sát trùng của bệnh viện, dù thứ mùi đó đã trộn cùng mùi son phấn, mùi xà-phòng tắm và nhiều thứ mùi không rõ rệt. Hoan không hiểu vì sao nơi gái ăn sương kiếm sống lại có mùi thuốc khử trùng, và nỗi băn khoăn đó lởn vởn trong óc.

- Anh lại giường đi chớ? Sao đứng mãi như trời trồng? Giọng người đàn bà phía sau lưng lại cất lên và lần này làn hơi ấm phả qua mang tai Hoan. Hoan không biết anh sẽ đáp lời hoặc sẽ im lặng quay lại kéo cô ta xuống chiếc giường phủ tấm vải hoa tối màu kê cách anh vừa một sải chân. Những chiếc móng tay nhọn của người đàn bà rút từ vành tai anh xuống, nhè nhẹ kéo tấm áo sơ-mi gài trong lưng quần anh rồi chúng thò vào trong, lướt dọc theo sống lưng. Một cảm giác lạ l