← Quay lại trang sách

Phòng Thuế Quan Đề mở đầu cuốn Chữ A màu đỏ

Thật cũng hơi kỳ - tôi vốn không thích nói quá nhiều bản thân và việc riêng của mình với những người thân trong gia đình và với bạn bè gần gũi - ấy thế mà lần này đã là lần thứ hai trong đời, tôi lại bốc lên trình bày tự truyện trước công chúng độc giả.

Lần đầu cách đây khoảng ba bốn năm gì đấy, tôi đã ưu đãi bạn đọc một cách vô cớ - chả có chút lý do nào mà độc giả khoan dung hay tác giả “không mời mà nói” này có thể viện ra được để biện hộ - món quà ưu đãi lần ấy là một mẫu chuyện mô tả cuộc sống của tôi trong không khí tĩnh mịch sâu lắng tại một ngôi nhà mục sư cổ. Còn lần này thì vì tôi đã vinh hạnh – quá mức xứng đáng với mình – được một vài bạn đọc lắng nghe chuyện tôi trong dịp trước, nên tôi lại mạn phép níu áo độc giả để xin kể câu chuyện về ba năm tôi sống ở một phòng thuế quan. Quả là cái gương của anh chàng “P.P.” trứ danh. “tu sĩ của sứ đạo này” chưa bao giờ được noi theo một cách trung thực hơn thế. Tuy nhiên, tôi thấy thực sự dường như là: khi tác giả tung những trang tâm hồn của mình bay đi theo cánh gió, thì không phải chàng ta muốn nói với số đông là những kẻ sẽ quẳng cuốn sách của chàng sang một bên hoặc không bao giờ cầm lấy nó, mà là muốn trò chuyện cùng số ít, là những kẻ sẽ hiểu chàng hơn phần lớn những bạn học hoặc bạn đời của chàng. Một số tác giả lại còn đi xa hơn thế nữa, họ tự cho phép mình rủ rỉ những điều tâm sự sâu kín đến mức chỉ đáng thổ lộ duy nhất với một trái tim và một khối óc nào đó hoàn toàn thông cảm với mình ; như thế là cuốn sách in xong, được phóng thả khắp cõi đời rộng lớn, chắc chắn sẽ tìm ra một mảnh bị chia cắt của bản thân nhà văn lạc loài giữa không gian ngoại cảnh và đưa anh ta ghép lại với nó để nối trọn mạch vòng đời của anh. Tuy nhiên, nói ra tất cả mọi điều chắc là không phải phép, ngay cả khi chúng ta không ám chỉ riêng ai. Nhưng vì lẽ tư duy dễ bị đông cứng lại và sự phát biểu bị tê cóng không thốt nên lời, trừ phi giữa người nói với người nghe có mối quan hệ chân tình thực sự, cho nên có thể là ta đáng được tha thứ nếu ta hình dung có một người bạn nào đó, tuy không phải là thân nhất, nhưng là người bạn tốt bụng và tri kỷ, đang lắng nghe ta nói ; và vậy là băng giá của sự dè dặt bẩm sinh sẽ tan ra dưới hơi ấm của lòng hiểu biết nồng hậu ấy, khiến chúng ta lại có thể huyên thiên về những sự kiện chung quanh ta và ngay cả về bản thân ta nữa, tuy nhiên vẫn giữ cái “Tôi” sâu tận đáy lòng nằm yên đằng sau tấm màn che kín. Theo tôi, hình như là ở chừng mực đó, trong phạm vi giới hạn đó, một tác giả được phép trình bày tự truyện mà không phạm đến quyền của người đọc hay quyền của bản thân mình.

Các bạn cũng sẽ thấy rằng bức phác họa Phòng Thuế quan này mang một tính hợp thức nào đó đã luôn luôn được thừa nhận trong văn học, vì nó sẽ giải thích lý do làm sao mà tôi đã thu thập vào tay mình một phần lớn tư liệu trong những chương tiếp sau đây, và vì nó cung cấp những bằng chứng về tính xác thực của câu chuyện kể trên những trang ấy. Tóm lại, chỉ có lòng mong muốn tự đặt mình vào đúng vị trí là người biên tập, hoặc hơn thế một chút xíu thôi, của câu chuyện dông dài nhất trong tập truyện của tôi 1 – chỉ có điều đó, chứ không có gì khác nữa, là lý do thực sự khiến tôi đem cá nhân mình ra kể lể với công chúng. Trong khi thực hiện mục đích chủ yếu ấy, tôi thấy hình như là mình có thể được phép gia thêm vào bức họa một vài nét chấm phá để miêu tả sơ qua một cảnh sống chưa từng được nói đến, cùng với một số nhân vật hoạt động giữa khung cảnh ấy, trong số đó tình cờ cũng đã có mặt tác giả cuốn sách này.

Tại thành phố Salem quê hương tôi ở đoạn đầu một cái bến trước kia vốn là một cầu tàu nhộn nhịp sầm uất vào thời Lão vương Derby cách đây khoảng một nữa thế kỷ - nhưng nay thì chỉ còn mấy dãy nhà kho bằng gỗ đã đổ nát, và ít có hoặc không có biểu hiện gì của cuộc sống giao lưu buôn bán, trừ một chiếc thuyền ba buồm hay hai buồn gì đấy, ghé vào nửa vời bên bờ cảng dài đượm vẻ ưu sầu, dỡ lên những món hàng da sống, hoặc một con thuyền nhỏ kiểu Nova Scotia đỗ vào sát hơn, tung lên bờ những đống cũi – vâng, tôi xin kể lại rằng ở đầu cái bến tàu đã tàn tạ ấy, người ta tìm thấy một dinh thự bằng gạch rộng lớn. Bờ cảng thường bị nước thủy triều tràn ngập. Dấu vết của nhiều năm dài vô vị lững lờ trôi qua còn ghi lại ở một rìa cỏ hoang dại chạy dọc bến, dưới chân móng đằng sau dãy nhà ven cảng. Các cửa sổ mặt trước dinh thự to lớn kia nhìn xuống khung cảnh ấy, một khung cảnh chẳng lấy gì làm sinh động cho lắm,

và từ đó nhìn ra bao quát toàn bến cảng. Ngự trị ở điểm cao nhất trên mái dinh thự, trong thời gian đúng ba tiếng rưỡi đồng hồ mỗi buổi sáng, lá cờ nước cộng hòa khi bay khi rủ, tùy lúc trời có gió hay không ; nhưng mười ba cái vạch trên cờ không nằm theo chiều ngang mà lại nằm theo chiều dọc, chứng tỏ đây không phải là một trụ sở nhà binh, mà là một cơ quan dân sự của chính quyền Chú Sam. Công trình trang trí mặt trước ngôi nhà là một hành lang với sáu trụ gỗ trên có ban công, bên dưới là những bậc thềm đá hoa cương thênh thang xuống đến tận đường phố. Trên lối ra vào, lơ lửng một hình mẫu to tướng của chú đại bàng tượng trưng cho nước Mỹ, cánh dang rộng, một cái khiên trước ức, và nếu tôi nhớ không sai, mỗi chân của chú quắp một bó vừa lưởi tầm sét vừa mũi tên có ngạnh trộn lẫn. Với đặc điểm tính khí thất thường của loài chim hung bạo này, chú có vẻ như muốn dùng sự dữ tợn của chiếc mỏ khoằm và đôi mắt, và thái độ nói chung là hùng hổ của mình để đe dọa những ai định gây tổn hại đến cộng đồng lương thiện ; đặc biệt là để cảnh cáo tất cả những công dân biết giữ mình hãy chớ có xâm phạm đến những tài sản mà chú bảo vệ dưới đôi cánh rộng của chú. Tuy nhiên, dù rằng chú đại bàng liên bang có cái vẻ gây gổ như vậy, nhưng chính vào lúc này lại có nhiều kẻ đang tìm sự che chở dưới đôi cánh của chú ; tôi cầm bằng là họ hình dung bộ ngực của chú hoàn toàn mềm dịu và ấm áp y hệt chiếc gối lông vịt biển. Thế nhưng ngay cả vào thời điểm chú dễ tính nhất, chú đại bàng này cũng chả dịu dàng gì lắm, và sớm muộn gì – thường sớm hơn là muộn – chú ta cũng rất có thể sẽ hất tung những con chim non rút đầu nép mình vào ngực chú, sau khi dùng vuốt cào ra, dùng mỏ mổ, hoặc dùng những mũi tên có ngạnh quặc cho bị thương đau.

Trên mặt nền bốn chung quanh tòa dinh thự mô tả trên đây – xin phép giới thiệu ngay: đó là Phòng Thuế quan của cảng – cỏ mọc khá xanh tốt giữa các kẽ của những tấm đá lát, chứng tỏ là suốt thời kỳ vừa qua không có nhiều bước chân người lui tới. Tuy nhiên, trong một vài tháng cuối năm, củng thường có những buổi sáng nào đó bỗng nhiên công việc giao dịch rộ lên với một nhịp độ sôi nổi hơn hẳn. Những dịp như vậy có thể gợi cho người công dân lão thành nhớ lại cái thời xa xưa ấy, trước cuộc chiến tranh cuối cùng với nước Anh, khi mà tự thân Salem còn đàng hoàng là một hải cảng thực sự ; không phải như hiện nay bị các lái buôn và chủ tàu của chính mình rẻ rúng, bỏ mặc cho các bến tàu của Salem rơi vào cảnh tàn tạ suy đồi trong khi công việc kinh doanh của họ chuyển sang tăng thêm một phần chả đáng là bao và không cần thiết cho làn sóng buôn bán vốn đã dân trào cực thịnh tại Niu York hoặc Boston. Vào những buổi sáng như vậy, khi có ba bốn chiếc tàu tình cờ cập bến Salem cùng một lúc – thông thường từ châu Phi hoặc Nam Mỹ tới – hay sắp rời cảng đi về những miền đó, thì liên tục có tiếng những bước chân nhanh nhẹn lên xuống các bậc thềm đá hoa cương. Tại đây, ngài có thể chào đón người thuyền trưởng vừa mới chân ướt chân ráo lên cảng, ngay cả trước khi ông ta được bà vợ yêu đón mừng, khuôn mặt ông đỏ ửng vì nắng gió đại dương, nách cặp chiếc hộp sắt tây đã xỉn đựng giấy tờ hàng hải. Cũng tại đây, ngài được gặp người chủ chiếc tàu ấy, sắc mặt hớn hở hoặc tối sầm, thái độ hào hoa hay cáu kỉnh, tùy theo kết quả chuyến đi biển đã kết thúc của ông có biến được ý đồ ông thành hiện thực dưới dạng hàng hóa sẵn sàng đổi thành vàng, hay là chôn vùi ông dưới đống của nợ ế ẩm chẳng ma nào buồn rước đi hộ. Và cũng tại nơi đây, chúng ta thấy có mặt chàng thư ký tàu buồm trai trẻ tinh ranh – chồi non sẽ trở thành nhà buôn tương lai râu lốm đốm hoa râm và vầng trán nhăn nheo đầy tư lự - chàng trai đã sớm bén mùi buôn bán như chú sói con bén mùi máu tươi, đã dám liều đội chuyến hàng trên tàu của chủ, trong khi đáng ra chàng chỉ nên chơi với những mô hình tàu thủy trong bể nước ở nhà. Một loại nhân vật khác cũng có mặt giữa khung cảnh này, là chàng thủy thủ sắp ra nước ngoài, đến đây xin một tờ chứng nhận: hoặc người thủy thủ ốm từ biển trở về, xanh xao suy nhược, đến xin giấy đi bệnh viện… Chúng ta cũng không nên quên kể đến những thuyền trưởng của những con tàu nhỏ cổ lỗ trở củi từ tỉnh lẻ nước Anh tới đây: một hạng gấu biển có vẻ thô lổ, không có cái phong thái linh lợi của người Niu Inglơn 2, nhưng đã đóng góp một phần không phải là không đáng kể cho nền thương nghiệp đang sa sút ở nơi đây.

Tất cả những cá nhân ấy đồng thời quy tụ lại, thỉnh thoảng vẫn có lúc như vậy, cùng với một số nhân vật linh tinh khác thành một đám người nhiều màu nhiều vẻ, và thế là họ biến Phòng Thuế quan giữa lúc như thế này trở thành một khung cảnh sôi động.

Thế nhưng, nói chung, khi ngài trèo lên hết các bậc thềm, cái cảnh mà ngài thường hay nhìn thấy hơn là – ngay ở lối ra vào nếu là mùa hè, hoặc trong từng buồng làm việc nếu là mùa đông hay vào lúc thời tiết khắc nghiệt – một dãy những nhân vật đáng kính, ngồi lọt trong những chiếc ghế bành kiểu cổ, lưng ghế ngả trên hai chân sau tựa vào tường. Thường thường các vị ngủ, nhưng thi thoảng có thể nghe các vị nói chuyện cùng nhau, bằng thứ tiến dở nói dở ngáy, và với cái giọng thiếu sinh lực rất đặc thù của những loại người sống trong trại tế bần hoặc bất cứ ai khác sống lệ thuộc vào của bố thí, vào lao động bị độc chiếm hay vào bất cứ thứ gì ngoài sự nỗ lực độc lập của bản thân mình. Các vị già lão ấy – được đặt vào vị trí giống như Matthew ngồi thu thuế, nhưng không có nhiều khả năng là từ cương vị đó, giống như Matthew, lại được mời đi phục vụ công việc của các tông đồ - các vị già lão ấy chính là những viên chức của Phòng Thuế quan.

Xin giới thiệu thêm, bên mé trái ngôi nhà, nếu ngài bước vào cửa trước, ngài sẽ nhìn thấy một gian buồng, hoặc cũng có thể gọi là một phòng giấy, vuông vức mỗi bề khoảng mười lăm bộ, cao khoảng khoát, có hai cửa sổ tò vò nhỉn ra bao quát cả cảnh tượng bến tàu tàn tạ đã được mô tả trên kia, và một cửa sổ thứ ba trông qua bên kia một con đường hẹp và dọc một phần phố Derby. Qua ba cửa sổ này ta nhìn thấy rõ những cửa hàng tạp hóa, những cửa hiệu của thợ làm khuôn mũ cửa hiệu bán quần áo may sẵn rẻ tiền, những gian hàng bán các thứ trang bị cho tàu thủy. Bên các cửa ra vào những căn nhà ấy, người ta thường thấy túm tụm cười nói và tán gẫu những tay thủy thủ và dân anh chị lêu lỗng thường lai vãng ở bến cảng. Gian buồng nói trên đầy mạng nhện, mặt tường vôi cũ cáu bẩn, nền nhà trát bằng cát xám. Cái kiểu trát nền này, nơi khác người ta đã bỏ đi từ lâu. Bằng vào cái vẻ nói chung là nhếch nhác của chốn này, có thể dễ dàng đi đến kết luận rằng đây là một nơi ẩn náu kín đáo. Giới phụ nữ, với những công cụ đầy phép thần thông của họ là cái chổi và cái tải lau sàn, hẳn là rất hiếm khi được đặt chân tới nơi này. Về mặt tiện nghi, có một bếp lò với một ống khói to tướng; một bàn làm việc cũ bằng gỗ thông, một chiếc ghế đẩu ba chân đặt bên cạnh ; vài ba chiếc ghế dựa mặt gỗ, rệu rã và xiêu vẹo ; và – còn khoản tủ sách nữa chứ, xin chớ quên – có một vài cái giá, trên đó đặt khoảng ba bốn chục tập Luật Quốc hội, với một cuốn sách đồ sộ tóm tắt luật Thuế quan. Một cái ống sắt tây chọc qua trần thông lên phía trên, tạo thành một môi giới truyền thanh âm thông giữa buồng này với những nơi khác trong ngôi nhà.

Chính tại căn buồng này đây, khoảng sáu tháng về trước, có một con người lững thững đếm từng bước chân đi đi lại lại từ góc này sang góc khác, hoặc uể oải ngồi trên chiếc ghế đẩu cao cẳng, khuỷu tay chống trên bàn, luồng mắt đưa lên đưa xuống lướt theo những cột chữ trên tờ báo buổi sáng. Thưa quý độc giả tôn kính, ngài có thể nhận ra gã chính là kẻ trước đây đã đón tiếp ngài vào thăm căn phòng làm việc nho nhỏ vui mắt của gã, nơi có những tia nắng chập chờn lách qua những cành liễu mé đằng tây ngôi nhà mục sư cổ lọt vào nhảy múa trên sàn. Thế nhưng bây giờ đây, nếu ngài tới Phòng Thuế quan tìm gã, thì ngài sẽ nhọc công vô ít không còn hỏi đâu ra được viên thanh tra thuộc phái Locofoco của Đảng Dân chủ hồi ấy. Chiếc chổi của cuộc cải cách đã quét gã ra khỏi cơ quan, và một vị kế nghiệp xứng đáng hơn đã đến lĩnh lấy chức vị của gã và đút túi khoản tiền lương của gã.

Cái thành phố Salem cổ xưa ấy – nó chính là quê hương tôi, mặc dù tôi chỉ ở đó rất ít, kể cả hồi bé và lúc đã trưởng thành – hiện nay đang, hoặc vốn từ trước đã, có một sức thu hút tình cảm của tôi rất mạnh, mà tôi chưa bao giờ nhận thức thấy rõ trong những giai đoạn thật sự sống ở đây. Thực ra, xét vẻ bề ngoài của nó – với địa thế bằng phẳng đơn điệu, với những ngôi nhà đa số làm bằng gỗ, ít có hoặc thậm chí không có ngôi nhà nào có thể dám tự hào là công trình kiến trúc mỹ thuật, với kiểu phố xá xây dựng tùy nghi, không theo quy cách gì, nhưng lại không sinh động, cũng chả có chút gì ngộ, mà chỉ là tẻ nhạt, với con đường phố chính dài lê thê chán ngắt uể oải trườn qua toàn bộ phạm vi bán đảo, một đầu là Gallows Hill và New Guinea, đầu kia là một góc nhà tế bần – những nét đặc trưng của thành phố quê hương tôi là thế, vậy mà lại thích nó thì có khác gì thích một cái bàn cờ lộn xộn? ấy thế nhưng, dù rằng khi sống ở nơi khác bao giờ tôi cũng thấy vui sướng hơn, trông lòng tôi vẫn có một niềm xúc cảm thật là khó diễn đạt, mà tôi đành phải gọi là “tình thương”, bởi không có một từ nào thích đáng hơn thế. Tình cảm ấy có thể là do dòng họ tôi đã từ lâu đời cắm rễ sâu vào mảnh đất này. Tính đến nay đã gần hai thế kỷ và một phần tư kể từ lúc người Anh đầu tiên mang tên dòng họ tôi di cư sang đây xuất hiện ở khu định cư hoang dã tiếp giáp núi rừng về sau dần dà đã trở thành đô thị này. Và tại nơi đây, con cháu bậc tiền bối ấy đã lần lượt sinh ra và mất đi, trộn lẫn những nắm vật chất trần tục của họ với đất, mãi cho đến khi không còn nhất thiết phải có một phần nhỏ nào của vật chất ấy dính dáng ruột rà với cái thể xác người trần của bản thân tôi đây đang lui tới đi lại giữa phố phường trong quãng đời ngắn ngủi. Bởi vậy, một phần của tình cảm gắn bó mà tôi vừa nói là sự đồng cảm mang tính vật chất đơn thuần giữa bụi đất với bụi đất. Ít người đồng hương với tôi có thể biết được sự đồng cảm ấy là như thế nào ; mà vì sự di thực thường xuyên có lẽ là tốt nhất đối với nòi giống, cho nên họ cũng chả cần xem điều đó là điều cần phải biết.

Thế nhưng tình cảm còn có tính tinh thần của nó. Hình ảnh của cụ tổ đầu tiên ấy – theo lời truyền miệng qua bao đời trong gia tộc thì hình ảnh cụ lờ mờ thể hiện những đường nét của một tính cách vĩ đại – đã xuất hiện trong trí tưởng tượng ấu thơ của tôi từ thời bé bỏng xa xăm nhất mà tôi còn nhớ lại được. Hình ảnh ấy mãi còn ám ảnh tôi, và khiến tôi cảm thấy một thứ tình gắn bó mật thiết với quá khứ, cái quá khứ mà tôi không cho là có liên quan gì đến giai đoạn hiện tại của thành phố này. Hình như chủ yếu là vì cụ tổ ấy, một con người trang trọng, hàm râu rậm, khoác áo choàng đen, đội mũ chóp nhọn – con người đã đến đây sớm như vậy tự thuở ban sơ với cuốn kinh thánh và thanh gươm trong tay, đã đặt bước chân đi với tư thế oai nghiêm nhường ấy trên đường phố mới tinh khôi chưa mấy ai qua lại, và đã gây nên một ấn tượng lớn lao đến thế với tính cách một con người của cả hai tình huống chiến tranh và hòa bình – hình như chủ yếu là vì cụ mà tôi được đòi hỏi quyền cư trú ở thành phố này, hơn là vì bản thân tôi đây, một kẻ hiếm ai nghe tên và hầu như chả ai biết mặt. Cụ là một chiến sĩ, một nhà lập pháp, một quan tòa ; cụ là một vị cầm quyền của Giáo hội ; cụ có tất cả những nét cả tốt lẫn xấu của người Thanh giáo. Cụ là một đao phủ tàn bạo, những tín đồ Quây-cơ đã chứng kiến điều đó và đã nhắc đến cụ trong những cuốn sử của họ. Họ đã kể lại một vụ trừng phạt khắc nghiệt không chút thương xót của cụ đối với một người đàn bà trong phái họ. Những ký ức như vậy e rằng sẽ lưu truyền lâu dài hơn bất kỳ những điều ghi chép nào về việc làm tốt của cụ mặc dù hành động tốt của cụ không phải là ít. Ông con trai của cụ cũng vậy, đã thừa kế tinh thần khủng bố quyết liệt ấy và đã trở thành một nhân vật nổi bật trong việc hành hình đọa đày những người bị kết tội phù thủy, đến nỗi có thể nói không ngoa rằng máu của họ đã nhuốm vào người ông cụ này thành vết. Những vết máu đã thấm sâu đến nỗi trên nắm xương tàn của ông trong lòng nghĩa địa phố Charte hẳn còn loan lổ màu đỏ bầm của máu, nếu như bộ hài cốt ấy chưa hoàn toàn tiêu tan thành bụi đất. Tôi không biết các vị tổ tiên ấy của tôi có nghĩ lại mà hối hận và cầu xin Thượng đế tha thứ cho những hành động tàn ác của họ hay không, hay là dưới một dạng tồn tại khác họ đang rên siết vì những hậu quả nặng nề của tội ác. Dù sao đi nữa, thì tôi, kẻ đang cầm bút lúc này, với tư cách là người đại biểu cho các cụ, tôi cũng xun vì các cụ mà nhận lấy mọi hậu quả về mình, và xin cầu nguyện rằng nếu như có lời trù rủa nào đó úm vào họ - như tôi đã được nghe kể lại, và như cái tình trạng suy vi ảm đạm của dòng họ tôi trong nhiều năm dài trước đây đã tỏ ra là có thể có thật – thì cầu sao những lời trù rủa ấy từ nay về sau được giải bỏ đi.

Tuy nhiên, không hồ nghi gì cả, cả hai cụ ông Thanh giáo nghiêm khắc có vầng trán cau có ấy đều chắc chắn sẽ nghĩ rằng tội ác của mình đã bị trừng phạt khá là đích đáng, từ thân cây gia hệ cổ thụ đã được phủ biết bao nhiêu lớp rêu đáng kính lại nảy ra ở ngọn cây trên chót một cành non như tôi, một kẻ ăn không ngồi rồi vô tích sự. Không có một hoài bão nào mà tôi hằng ấp ủ sẽ hòng được các cụ chấp nhận là đáng khen ngợi. Bất cứ một thắng lợi nào của tôi – nếu như cuộc đời tôi, ngoài công việc gia đình, quả đã từng có lúc rạng lên niềm vui thắng lợi – cũng đều sẽ bị các cụ xem là vô giá trị, nếu không phải là điều hết sức đáng hổ thẹn, chứ đừng hòng được các cụ đánh giá là gì khác. “Hắn làm cái nghề gì vậy?” – Một trong hai cái bóng già nua tổ tiên của tôi lẩm bẩm với cái bóng kia – “Viết tiểu thuyết hả? Ái chà! Nó là cái thứ nghề ngỗng gì ở đời vậy? Làm sáng danh Chúa và giúp ích nhân loại trong thời đại hắn và thế hệ hắn theo cái kiểu thế ư? Hừ! thằng nhỏ mất gốc này hẳn cũng có thể làm một tên kéo nhị, thì cũng một tuồng như vậy thôi!”. Đấy, những lời khen ngợi của các cụ tổ của tôi, truyền qua vực thẳm thời gian đến với tôi, là như vậy. Nhưng dù sao, tùy các cụ muốn khinh rẻ tôi như thế nào cũng được, những nét đanh thép trong bản chất các cụ vẫn cứ phải đang quyện vào trong bản chất của tôi.

Cắm sâu vào mảnh đất thành phố cổ tự thuở sơ khai non trẻ của nó bởi hai nhân vật nghiêm khắc và đầy nghị lực ấy, dòng họ tôi đã mãi từ đó sinh sống ở đây ; cũng luôn luôn giữ được tư cách đáng trọng, không bao giờ, theo tôi biết, bị một thành viên không xứng đáng nào làm ô nhục ; nhưng hiếm có, hoặc có thể nói là không bao giờ có ai, sau hai thế hệ ban đầu ấy, đạt được một công tích gì đáng ghi nhớ, hoặc ngay cả đáng để cho thiên hạ chú ý đến cũng không. Dần dần, hình ảnh những thành viên dòng họ tôi mờ nhạt đi hầu như biến mất, giống như những ngôi nhà cổ, đây đó ở các ngả đường, bị đất mới tích tụ dần lên đến nửa vời khoảng dưới mái chìa gần như che khuất. Từ đời cha đến đời con trong hơn một trăm năm đều theo nghề đi biển. Mỗi thế hệ có một thuyền trưởng tóc đã hoa râm rời boong lái lui về vườn, trong khi một chàng trai mười bốn tuổi đến đứng vào vị trí cha truyền con nối của người thủy thủ, đương đầu với bụi nước chát mặn đầu ngọn sóng tung lên và những cơn bão biển đã từng hung tợn hăm dọa cha ông của gã. Đến một thời gian thích đáng nào đó, chàng trai cũng chuyển từ khoang thủy thủ lên buồng thuyền trưởng, trải qua cuộc đời dông bão của trang nam tử, rồi lại lui về sau những chuyến lang thang khắp thế giới, để mà già đi, rồi chết, trộn lẫn nắm bụi tàn của mình vào đất mẹ. Sự liên kết lâu dài đó của gia tộc với địa phuong, lấy địa phương đó làm nơi sinh ra mà cũng là nơi mai táng, tạo ra một thứ quan hệ họ hàng giữa con người với đất, hoàn toàn không phụ thuộc vào bất cứ một sức hấp dẫn nào của cảnh vật hoặc trạng huống tinh thần bao quanh con người đó. Đó không phải là tình yêu, mà là bản năng. Người mới đến cư trú – bản thân họ hoặc cha, ông họ từ một miền đất xa lạ tới đây – rất ít có quyền đòi hỏi được gọi là người Salem ; họ đâu có chút khái niệm nào về cái tính gan lì như giống hà bám đá, của một dòng họ lập nghiệp lâu đời đang bước vào tuổi thế kỷ thứ ba, cái tính gan lì quyết bám lấy nơi đã gắn bó cuộc đời của bao nhiêu thế hệ kế tiếp. Không thành vấn đề gì dù nơi này có buồn tẻ với anh, dù anh có chán ngấy những ngôi nhà gỗ cổ lỗ, cảnh bùn lầy và bụi bặm, địa hình và tình cảm phẳng lì nhạt nhẽo, ngọn gió từ hướng Đông giá lạnh, và không khí quan hệ xã hội lại càng giá lạnh chẳng có đâu bằng. Tất cả những điều đó, và bất cứ những khiếm khuyết nào khác nữa mà anh có thể nhìn thấy hoặc tưởng tượng ra, đều không thành vấn đề gì cả. Sức quyến rũ huyền diệu vẫn cứ còn đó, cuốn hút thật là mạnh mẽ, cứ như thể nơi chôn nhau cắt rốn này là một thiên đường giữa trần gian. Đấy, trường hợp của tôi là như vậy. Tôi cảm thấy hầu như số phận đã định đoạt Salem phải là quê hương tôi, để mà, nối theo dòng trôi vĩnh cửu của thời gian – khi một đại biểu của dòng họ nằm xuống mồ thì một đại biểu khác đổi gác, có thể cho là như vậy, tiếp nhận nhiệm vụ của người quá cố đi tuần tra dọc con đường phố chính – cái khuôn đặc điểm và cái mẫu tính cách đã từng suốt từ đầu đến cuối thân thuộc với nơi này có thể vẫn còn tiếp tục thể hiện và được nhận ra ở quảng đời ngắn ngủi của tôi trong thành phố cổ. Tuy nhiên cũng chính thứ tình cảm ấy là một dấu hiệu chứng tỏ rằng mối liên kết đó giữa con người với đất ít ra cũng cần phải được cắt đứt đi bởi nó đã trở thành một mối liên kết không lành. Sức sống con người sẽ không thể phát triển tươi tốt gì hơn một cây khoai nếu bị trồng đi trồng lại mãi qua quá nhiều thế hệ nối tiếp nhau dài đằng đẵng trên cùng một mảnh đất đã bạc màu. Các con tôi đã sinh ra ở nơi khác, và chừng nào mà vận mệnh của chúng còn nằm trong tay tôi thì chúng nhất định sẽ cắm rễ cuộc đời của chúng vào đất lạ.

Khi tôi rời khỏi ngôi nhà mục sư cổ, chính cái thứ tình cảm gắn bó kỳ lạ, thiếu sinh khí và không có niềm vui ấy đối với thành phố quê hương, là động lực chủ yếu khiến tôi đến nhận một chỗ làm trong tòa dinh thự của Chú Sam mà tôi đã nói trên kia, trong khi đáng ra tôi có thể đi nơi khác cũng được một việc làm chẳng kém gì hoặc còn tốt hơn. Thế là sợi dây định mệnh đã buộc tôi lại. Đó không phải là lần đầu tiên cũng chả phải là lần thứ hai, mà sau khi đã ra đi – tưởng rằng đi hẳn – nhưng tôi lại quay đầu trở về. Giống như một kẻ tầm thường cứ bám nhằng nhẵng lấy nơi mình không thích, hoặc như thể Salem đối với tôi nhất thiết phải là trung tâm của vũ trụ. Vậy là một buổi sáng đẹp trời nọ, tôi leo lên những bậc thềm đá hoa cương, với tờ công vụ lệnh có chữ ký tổng thống trong túi, và được giới thiệu với toàn thể các viên chức trong cơ quan, những người sẽ giúp đỡ tôi hoàn thành trọng trách một viên chủ sự Phòng Thuế quan.

Tôi thật hết sức hồ nghi – hay nói đúng ra là tôi không hồ nghi chút nào cả - rằng không biết một vị chủ sự nào đó của nước Mỹ, trong ngạch dân sự hoặc quan sự, đã bao giờ như tôi có dưới quyền mình một đội ngũ viên chức kỳ cựu già lão đến như vậy không. Câu hỏi “Vị cao tuổi nhất vùng này ở nơi nào nhỉ?” lập tức được giải đáp ngay khi tôi nhìn thấy họ. Trong hơn hai mươi năm qua, cái thế độc lập của viên Giám đốc đã giữ cho Phòng Thuế quan Salem đứng được ra ngoài cơn xoáy lốc của những thăng trầm chính trị đã khiến cho các quan chức của những cơ quan khác – nói chung khó lòng giữ yên được chiếc ghế của mình. Là một nhà quân sự - nhà quân sự lỗi lạc nhất của miền Niu Inglơn -, ông ta, tướng Miller, đã đứng vững trên chiếc bệ của những thành tích dũng cảm của mình, và trong khi bản thân ông được yên ổn dưới chính sách rộng rãi khôn ngoan của những chính quyền kế tiếp mà ông đã phục vụ, ông lại đã là cái ô bảo đảm an toàn cho những nhân viên dưới quyền trong nhiều giờ phút hiểm nguy và cơ cấu trung ương rung chuyển. Ông ta về căn bản là con người bảo thủ: một con người mà bản chất đôn hậu không mảy may chịu ảnh hưởng của tập quán ; kiên quyết gắn bó với những khuôn mặt quen thuộc ; người ta khó lòng lay chuyển được ông để ông chịu chấp nhận những sự thay đổi, ngay cả trường hợp sự thay đổi chắc chắn sẽ mang lại tiến bộ không ai chối cãi được. Ấy vì vậy, khi đến nhậm chức, tôi thấy hầu như tất cả nhân viên ở đây đều là những người nhiều tuổi. Họ phần lớn là những cựu thuyền trưởng, sau thời gian dài vật lộn với sóng gió khắp mọi vùng biển cả và cứng cáp đương đầu với bão táp cuộc đời, cuối cùng đã trôi giạt vào cái xó xỉnh yên tĩnh này. Và tại nơi đây, ít bị cái gì quấy rầy, trừ những nỗi khiếp sợ theo chu kỳ trong mỗi cuộc bầu cử tổng thống, tất cả bọn họ không trừ một ai đều đã kiếm được niềm vui cuộc sống. Dù rằng chẳng có chút khả năng gì hơn các đồng loại của mình để tránh khỏi tuổi già sức yếu, nhưng hiển nhiên là những vị này có một thứ bùa chú hay phép màu nào đó để buộc thần chết phải đứng xê ra. Trong số bọn họ có hai ba người gì đấy, như lời người ta quả quyết với tôi, bị bệnh gút và thấp khớp, hoặc phải nằm liệt giường có lẽ, không hề xuất hiện ở cơ quan Phòng Thuế quan trong một phần lớn thời gian mỗi năm. Nhưng, sau một kỳ ngủ lịm qua đông, họ sẽ bò ra giữa nắng ấm tháng năm tháng sáu, uể oải bắt tay vào cái mà họ gọi là quân sự, thế rồi, tùy nghi chọn lúc ung dung và thuận tiện cho bản thân mình, lại rời cơ quan trở về nhà lên giường nằm ngủ. Tôi phải nhận là mình có tội khi người ta lên án rằng tôi đã rút ngắn quãng đời phục vụ công tác của không phải chỉ một người trong số những công bộc đáng kính ấy của nước cộng hòa. Nhờ có sự thay mặt của tôi, họ đã được phép nghỉ, khỏi còn phải làm những công việc lao động gian khổ của họ nữa. Và sau đó chẳng bao lâu – như thể nguyên tắc duy nhất giữa họ lại với sự sống đã từng luôn luôn là lòng nhiệt huyết phục vụ đất nước – mà tôi đích thực tin là như vậy – họ đã rút lui về thế giới bên kia tốt đẹp hơn. Một niềm an ủi đầy ơn phước đối với tôi, là chính nhờ sự can thiệp của tôi mà họ đã có được một khoảng thời gian đủ để ân hận về những tật xấu và thói hư hỏng mà coi như mọi viên chức Phòng Thuế quan tất nhiên đều phạm phải. Không có một cửa nào của Phòng Thuế quan này, dù là ở mặt trước hoặc mặt sau, mở ra lối đi lên thiên đường cả.

Phần lớn các viên chức dưới quyền tôi là đảng viên Đảng Uých 3. Một điều may mắn cho nhóm người đáng kính cùng chí hướng với nhau ấy là đảng Thanh tra mới không phải là một nhà chính trị. Mặc dù về nguyên tắc chàng ta là một đảng viên trung thành của Đảng Dân chủ, nhưng cả việc nhận chức lẫn việc giữ chức của chàng đều không có liên quan gì đến vấn đề phục vụ nhiệm vụ chính trị cả. Phải như sự việc diễn ra khác đi – nghĩa là ví như một nhà hoạt động chính trị tích cực được đặt vào chức vụ đầy thế lực này, để đảm nhận một công việc dễ dàng là đương đầu chống lại một Giám đốc đảng viên Đảng Uých là người mà sức khỏe ốm yếu không cho phép đích thân quản trị được cơ quan – thì hầu như không một kẻ nào trong đội ngũ viên chức cũ kia có thể kéo dài hơi thở cuộc đời cộng tác được một tháng kể từ khi vị thiên sứ hủy diệt ấy bước lên những bậc thềm của Phòng Thuế quan. Theo luật lệ được chấp nhận đối với những vấn đề như vậy, việc đưa tất cả những mái đầu kia đút vào dưới lưỡi dao của máy chém sẽ không có gì là vượt quá chức phận của một nhà chính trị. Thật chẳng khó gì mà không nhận thấy rõ là những ông bạn già ấy kinh hãi một đòn bất lịch sự kiểu như vậy từ tay tôi giáng xuống. Tôi thật đau lòng, nhưng đồng thời cũng buồn cười, khi nhận ra những nỗi khiếp sợ cùng phát sinh một lúc với sự xuất hiện của tôi tại cơ quan, khi thấy một khuôn mặt với đôi má nhăn nheo, dày dạn phong trần qua hàng nữa thế kỷ bão bùng sóng gió, bỗng nhiên tái xám đi lúc bắt gặp cái liếc nhìn của một kẻ hiền lành vô sự như tôi ; khi phát hiện thấy thanh âm run rẩy trong giọng người này hoặc người nọ nói với tôi, giọng nói ấy trước đây trong những ngày quá khứ xa xôi đã từng quen gầm lên qua chiếc loa trên tàu biển với sức vang động ghê gớm đủ khiến cho ngay cả Thần Gió Bấc cũng phải khiếp mà câm lặng. Họ, những bậc cao niên trung hậu ấy, biết rằng, theo mọi thứ quy tắc đã định – và riêng đối với một số trong bọn họ thì còn phải xét vấn đề thiếu năng lực làm việc – họ đáng ra đã phải nhường chỗ cho những người trẻ hơn, có tư cách chính thống hơn về chính trị, và về mọi mặt phải xứng đáng hơn họ để phục vụ Chú Sam của tất cả mọi người chúng ta. Tôi cũng biết điều đó, nhưng không bao giờ có có thể nỡ lòng hành động theo điều mình biết. Bởi vậy cho nên họ vẫn tiếp tục, trong suốt thời gian tôi giữ chức, lén đi lang thang quanh quẩn ở các bến tàu và tha thẩn lên xuống các bậc thềm của Phòng Thuế quan, rất đáng để cho bản thân tôi phải mất hết lòng tin cậy, và làm tổn thương nhiều đến lương tâm của tôi đối với công vụ. Họ cũng dùng một phần lớn thời gian để lại tiếp tục ngồi ngủ trong những xó quen thuộc của họ, trên những chiếc ghế bành ngả về phía sau dựa vào tường, tuy nhiên vẫn thức dậy một hoặc vài lần mỗi buổi sáng để quấy rầy nhau bằng những câu chuyện đùa lỗi thời nhạt phèo, những thứ chuyện này lâu dần đã trở thành khẩu lệnh vả mật hiệu giữa họ với nhau.

Người ta đã sớm phát hiện ra, là tôi đoán vậy, rằng vị Thanh tra mới nhậm chức không có gì đáng sợ lắm. Thế là, trong lòng nhẹ nhõm và vui sướng thấy mình được sử dụng có ích – ít nhất là có ích cho bản thân họ nếu không phải là cho đất nước yêu quý của chúng ta – những bậc lão thành đôn hậu ấy đã chấp hành đầy đủ mọi thứ thủ tục trong công việc. Sắc sảo minh mẫn làm sao những con mắt của họ dướI đôi mắt kính chăm chú dò xét các hầm tàu chứa hàng! Quyết liệt xiết bao những cơn sục sôi om sòm của họ về những chuyện vặt vãnh, nhưng cũng kỳ diệu biết nhường nào sự trì độn của họ đã đôi lúc để những vụ lớn sổng ra tuột khỏi tay họ! Mỗi khi một chuyện không may như vậy xảy ra – sau khi những đống hàng lậu quý giá chất đầy xe đã lén lút tuồn nhẹ lên bờ chạy thoát, có lẽ ngay giữa ban ngày ban mặt, và ngay trước lỗ mũi không đánh hơi thấy gì của họ - thì thật là không có gì sánh nổi tinh thần cảnh giác cẩn mật và sốt sắng nhanh nhảu của họ lúc ấy: vội vàng khóa chặt lại, khóa trong khoá ngoài, bịt thật chắc chắn, niêm phong gắn xi cẩn thận tất cả những lối ra vào con tàu tội phạm. Đáng lẻ phải khiển trách họ trước đó đã lơ dễnh sơ suất. thì trong trường hợp này có vẻ như lại cần phải tuyên dương hành động cẩn thận đáng khen của họ sau khi điều tai hại đã xảy ra ; cảm kích thừa nhận sự mau lẹ hăng hái của họ vào lúc mà sự việc đã xong xuôi không còn một biện pháp khắc phục nào nữa.

Trừ khi gặp phải loại người quá ư khó chịu, tôi vẫn có cái thói xuẩn ngốc là thích quan hệ ân tình thân ái với mọi người. Những mặt tốt trong tính nết của một người, nếu người ấy quả là có mặt tốt, thường là nhân tố đáng được trọng thị nhất trước mắt tôi, và hình thành nên kiểu tính cách mà tôi nhìn nhận ở người ấy. Do đa số các vị viên chức già của Phòng Thuế quan đều có những mặt tốt, và do cương vị của tôi đối với họ mang tính chất bao dung che chở, thuận lợi cho việc phát triển những tình cảm thân thiết, nên chẳng bao lâu tôi đã đâm ra ưa thích tất cả bọn họ. Những buổi sáng mùa hạ - khi mà cái nóng nung người dường như có thể làm hóa lỏng mọi kẻ khác nhưng đối với họ thì chỉ là một thứ hơi ấm ôn hòa dễ chịu thấm vào những bộ phận cơ thể uể oải đờ đẫn của họ - vào những buổi sáng như vậy, thật là thú vị khi để tai nghe họ tán dóc với nhau ở phía cửa hậu. Tại đó, tất cả bọn họ ngồi trên ghế bành thành một dãy ung dung tựa lưng vào tường như thường lệ, và những lời dí dỏm cũ rích của những thế hệ trước đã đông cứng như băng nay lại tan ra tuôn chảy từ miệng họ lẫn với tiếng cười ùng ục. Nhìn bề ngoài, cái vui nhộn của người già trông rất giống sự vui đùa của trẻ thơ, chả đòi hỏi trí tuệ hay khả năng hài hước gì mấy ; trong cả hai trường hợp, đều là những tia sáng chập chờn đùa giỡn trên bề mặt, khoác cho cả những cành non xanh tươi lẫn những thân già mục ruỗng một cái vẻ bên ngoài tươi sáng và hân hoan vui vẻ giống như nhau. Nhưng chỉ có điều là trong trường hợp kia, đó thực sự là ánh sáng mặt trời, còn trong trường hợp này thì nó giống ánh ngời lân tinh của gỗ mục.

Sẽ là một sự bất công đáng buồn, hẳng độc giả cũng thông cảm, nếu miêu tả toàn bộ những ông bạn già ưu tú ấy của tôi là đều lẩm cẩm. Trước hết phải nói rằng không phải những viên trợ lý ấy của tôi đều già như nhau ; có những người đang giữa thời kỳ cường tráng và phát triển rực rỡ, có tài năng và nghị lực rõ rệt, tư cách hoàn toàn vượt lên trên tầm của lối sống lờ phờ và lệ thuộc mà ngôi sao chiếu mệnh hẩm hiu của họ đã buộc họ vào. Thêm nữa, thỉnh thoảng người ta vẫn nhận thấy rằng những mái tóc pha sương lại là lớp tranh phủ bên ngoài rường cột của một ngôi nhà trí tuệ còn tốt. Thế nhưng, nói về phần lớn những người trong đội ngũ lão thành này, sẽ chả có gì là sai trái nếu tôi mô tả họ nói chung là một mớ linh hồn già cỗi chán ngắt, không tập hợp được tí gì đáng gìn giữ lại từ kinh nghiệm phong phú của đời họ. Dường như họ đã vứt đi tất cả những hạt vàng của sự từng trải thực tế mà trước kia đã có biết bao nhiêu thời cơ gặt hái, để nâng niu cất giữ toàn là vỏ trấu trong kho ký ức của họ. Họ nói chuyện về bữa ăn lót dạ buổi sáng, hoặc bữa cơm tối hôm qua, hôm nay, ngày mai với một sự quan tâm và niềm khoái trá hơn hẳn lúc nói chuyện về một vụ đắm tàu bốn năm mươi năm về trước và về tất cả những điều kỳ diệu trên thế giới mà họ đã được chứng kiến hồi họ còn trai trẻ.

Người nhiều tuổi nhất của Phòng Thuế quan – vị cao niên bậc nhất không những của nhóm viên chức này, mà tôi dám nói là còn của toàn bộ đội ngũ nhân viên thuế quan đáng kính trên khắp nước Mỹ - là một ông cụ giữ một chức Phó Thanh tra thường trực suốt đời. Người ta có thể thật sự gọi cụ là người con chính thống của toàn ngành thuế vụ, “được nhuộm từ lúc chưa xe thành sợi”, hay nói cho đúng hơn, thuộc “dòng dõi con nhà” ; bởi thân phụ của cụ, một đại tá thời Cách mạng và trước đây làm Giám đốc chủ sự thuế quan của cảng, đã đặt ra một chức dành cho cụ, bổ nhiệm cụ giữ chức đó, vào một thời xa xưa mà ít người còn sống đến nay có thể nhớ lại được. Vị Phó Thanh tra ấy, khi tôi bắt đầu biết cụ, là một người tuổi đã tám mươi hoặc xấp xỉ, và chắc chắn là một trong những vật mẫu kỳ diệu nhất của thứ cây lộc đề mà may ra chúng ta có thể phát hiện được nếu bỏ công tìm kiếm suốt cả cuộc đời.

Với đôi má đỏ au, dáng người chắc nịch, diện chiếc áo bành tô xanh bảnh bao có hàng cúc sáng chói, với bước đi nhanh nhẹn và rắn rỏi, với vẻ bên ngoài còn khỏe mạnh tráng kiện, nhìn chung ông cụ có vẻ, dĩ nhiên không phải là trẻ, mà như là một thứ công trình mới sáng chế của Bà-Mẹ-Tạo-Hóa dưới dạng con người, mà tuổi già và sức yếu không có quyền đụng đến. Tiếng nói và tiếng cười của cụ, không ngừng vang dội qua suốt toàn bộ tòa nhà Phòng Thuế quan, chả có tí thanh âm nào run và khàn của tiếng người già, mà bật ra từ lồng ngực cụ sang sảng như tiếng gà gáy hoặc tiếng kèn đồng. Nếu ta xem xét ông cụ đơn thuần ở tính chất là một động vật – mà cũng rất ít có tính chất gì khác ở ông cụ để ta xem xét – thì ông cụ quả là một đối tượng làm ta thỏa mãn nhất, ở sức khỏe và sự tráng kiện hoàn hảo của cơ thể, và ở khả năng của cụ, khi tuổi đã cao đến như vậy, vẫn còn có thể tận hưởng được tất cả, hoặc hầu như tất cả, mọi thứ lạc thú mà cụ đã từng theo đuổi hoặc nghĩ ra. Yên trí với cuộc sống được bảo đảm tại Phòng Thuế quan, với một khoản thu nhập đều đặn tuy có lúc cụ cũng lo bị loại khỏi cơ quan, nhưng nỗi lo ấy chỉ như màn sương thoảng qua và cũng hiếm khi xảy ra trong đầu cụ, một tâm hồn thư thái như vậy chắc chắn đã góp phần làm cho thời gian trôi qua thật là nhẹ nhàng đối với cụ. Nhưng những nguyên nhân chủ yếu là có tác động hơn cả nằm trong sự hoàn thiện hiếm có của tính chất động vật của cụ, với một phần trí tuệ rất có mức độ, pha lẫn một số nhân tố tinh thần và tâm hồn vặt vãnh ít ỏi không đáng kể ; quả là những đức tính này chỉ vừa đủ độ để giữ cho ông già khỏi đi bằng bốn chân. Ông cụ không có khả năng tư duy, không có chiều sâu cảm xúc, không có những nhạy cảm rắc rối ; tóm lại, không có gì cả ngoài một vài bản năng tầm thường, những bản năng này công với một tính khí tất nhiên là vui tươi nhờ thể chất cường tráng của cụ, đã đóng vai trò thay thế cho trái tim một cách khá thỏa đáng và làm hài lòng được mọi người nói chung. Cụ có ba đời vợ, tất cả đã mất từ lâu ; hai mươi người con, đa số cũng đã trở về với bụi đất ở mọi lứa tuổi, từ khi còn nhỏ hoặc lúc đã trưởng thành. Mọi người chắc sẽ cho rằng bấy nhiêu đau thương ấy hẳn đã đủ nhuốm đi nhuốm lại thấm đẫm một màu đen tối vào bất kỳ một tâm tính nào tươi vui nhất. Nhưng đối với vị Phó Thanh tra già của chúng ta thì lại không thế. Một cái thở dài gọn là đủ để cất đi toàn bộ gánh nặng của những kỷ niệm sầu muộn ấy. Chỉ trong chốc lát, ông cụ đã lại sẵn sàng vui đùa như bất kỳ đứa trẻ nào: hồn nhiên hơn nhiều so với cậu thư ký văn phòng ông Giám đốc, cậu này chỉ mới mười chín tuổi mà đã có vẻ là bậc đàn anh và trang nghiêm hơn cụ.

Tôi thường chăm chú theo dõi và quan sát kỹ nhân vật già lão ấy. Có lẽ cụ là kẻ đã kích thích sự tò mò của tôi mạnh mẽ hơn bất kỳ một kiểu người nào khác mà tôi đã để ý đến. Quả thật cụ là một hiện tượng kỳ lạ hiếm có ; về một phương diện nào đó, con người ấy thật là hoàn hảo ; về mọi phương diện khác thì lại thật là trống rỗng, thật là hư ảo, thật là khó nắm bắt, như là dạng phi thực thể tuyệt đối. Tôi đi đến kết luận rằng ông cụ không có hồn, không có tim, không có óc ; như tôi đã nói, không có gì cả ngoài bản năng ; thế nhưng, đồng thời, những mảnh chất liệu ít ỏi của tính cách của cụ lại được lắp ghép vào nhau một cách khéo léo đến nỗi người ta không cảm thấy khó chịu vì một sự khiếm khuyết nào đó, mà riêng tôi lại thấy vừa lòng hoàn toàn với những gì tôi nhận thấy ở cụ. Có thể là người ta khó mà tưởng tượng ra được là cụ sẽ tồn tại như thế nào đây trong thế giới bên kia, bởi vì cụ có vẻ quá ư trần tục và duy khoái cảm. Nhưng chắc chắn là sự tồn tại của cụ giữa cõi trần này, dù sẽ phải chấm dứt cùng với hơi thở cuối cùng của cụ, đã được Thượng đế ban cho một cách không phải là không tử tế ; chẳng phải có trách nhiệm tinh thần gì cao hơn những thú vật ngoài đồng ruộng ; nhưng lại được hưởng những lạc thú nhiều hơn chúng, mà lại cũng nhận được trọn vẹn điều ơn phước Thượng đế ban cho chúng là được miễn trừ khỏi phải hứng chịu nỗi buồn thảm và bóng tối của tuổi già.

Một điểm tạo cho cụ lợi thế lớn hơn rất nhiều so với các sinh vật bốn chân là khả năng cụ nhớ lại được những bữa ăn ngon lành mà cụ đã được hưởng, những bữa ăn ấy đã góp phần không nhỏ trong niềm hạnh phúc của cuộc đời cụ. Tính sành ăn của cụ là một nét rất thú vị: nghe cụ nói chuyện về thịt quay cũng như về món nộm hoặc sò huyết, người ta đều cảm thấy thật ngon lành. Do cụ không có một tư chất nào cao hơn nữa, và không phí phạm hoặc làm hao tổn một tí phú tính tinh thần nào, cụ dành hết tất cả sinh lực và tài năng của mình cho việc phục vụ sự khoái cảm và lợi ích của cái bao tử, cho nên tôi luôn luôn thấy thích thú và hài lòng khi nghe cụ kể dài dòng văn tự về những món tôm, cá, gà vịt, thịt lợn, thịt bò, và những phương pháp thích hợp nhất để nấu nướng chế biến các món đó. Những mẫu chuyện cụ thuật lại về những bữa tiệc tùng thịnh soạn, dù cho đám tiệc thực tế mà cụ dự phần đã xảy ra từ lúc nảo lúc nào xa lơ xa lắc, vẫn dường như mang lại mùi thơm ngon của thịt lợn thịt gà ngào ngạt trước mũi người nghe chuyện. Có những món cụ ăn cách đây đã dễ có đến sáu mươi hoặc bảy mươi năm, mà đến nay hương vị vẫn còn đọng lại mãi trong mồm cụ, vẫn có vẻ còn đậm đà y nguyên như là hương vị miếng thịt sườn cừu mà cụ vừa chén trong bữa điểm tâm sáng nay vậy. Tôi đã nghe cụ chép miệng ngon lành khi kể lại những bữa tiệc mà mọi vị khách tham dự, trừ cụ ra, đều đã nằm xuống từ lâu làm mồi cho giun đất. Thật là một điều kỳ diệu khi quan sát thấy những bóng ma của những bữa ăn trong dĩ vãng cứ hiện lên liên tục trước mặt ông cụ - không phải để cáu giận hoặc tính sổ với cụ, mà lại như thể là hàm ơn cụ trước đây đã biết thưởng thức chúng – và tìm cách phủ định mọi điều thích thú khác vừa hư ảo vừa cụ thể vẫn nối tiếp diễn ra vô cùng vô tận trên đời. Cụ thường nhớ lại một miếng thịt bò mềm mại, một miếng thịt mông bê, một món sườn lợn, một giã gà giò đặc biệt, hoặc một con gà tây tuyệt trần, là những thứ có lẽ đã tô điểm bàn ăn của cụ từ thời thổng thống Adams cha. Trong khi đó thì tất cả những điều mà loài người chúng ta đã kinh qua cho đến nay và tất cả những sự kiện đã đem lại niềm vui hoặc nỗi buồn cho đời hoạt động của riêng cụ đều đã bay biến, không lưu lại được trong đầu óc cụ tí ảnh hưởng gì lâu bền hơn một làn gió nhẹ thoảng qua. Sự kiện bi thảm chủ yếu trong cuộc đời ông cụ, theo nhận xét của tôi, là một lần cụ bất hạnh gặp phải một chú ngỗng nào đó đã sống và qua đời cách đây khoảng hai mươi hoặc bốn mươi năm, một chú ngỗng co1 hình dáng đầy hứa hẹn, nhưng đến khi được bày lên bàn thì thịt lại dai nhách, đến nỗi con dao ăn chẳng làm nên trò trống gì được trên cái thân xác của chú, họa chăng chỉ có chiếc rìu và chiếc cưa mới có thể xẻ chú ra được.

Nhưng thôi đã đến lúc phải ngừng bức phác họa này lại, tuy rằng tôi sẽ rất vui lòng được tiếp tục điểm thêm vào đó rất nhiều nét chi tiết khác, bởi vì trong số những người mà tôi đã từng quen biết, nhân vật này là con người thích hợp nhất để làm một viên chức của Phòng Thuế quan. Hầu hết mọi người đều bị những hậu quả tai hại về tinh thần do lối sống đặc biệt ở đây gây ra, vì những lý do mà có thể những trang giấy này không đủ chỗ cho tôi nêu ra được hết. Ngày phó thanh tra già này không thể rơi vào tai họa đó, và giá như cụ cứ tiếp tục ở cơ quan cho đến tận cùng cuộc đời, cụ sẽ vẫn khỏe mạnh y nguyên như lúc này, và mỗi khi ngồi vào bàn ăn sẽ vẫn giữ được trọn vẹn sự ngon miệng như vậy.

Còn có một nhân vật khác, mà nếu tôi không kể ra đây thì có lẽ gian trưng bày chân dung các nhân vật Phòng Thuế quan sẽ bị khiếm khuyết nghiêm trọng, nhưng do tôi chỉ có tương đối ít cơ hội quan sát người này, nên tôi chỉ có thể phác ra được những nét chủ yếu nhất. Nhân vật ấy là ông Giám đốc, vị tướng quân gan dạ đã có thành tích phục vụ xuất sắc trong quân đội, sau khi rời quân ngũ đã cầm quyền ở một địa hạt hoang dã ở miền Tây, rồi cách đây hai mươi năm đã đến nơi này, để sống qua buổi xế chiều của cuộc đời phong ba và vinh quang của mình. Người lính dũng cảm ấy đã suýt soát hoặc vừa đúng tuổi bảy mươi, đang đi tiếp chặng đường còn lại của cuộc hành quân giữa trần thế, trên mình chồng chất những tật bệnh ốm đau, mà ngay cả tiếng nhạc hùng dũng dậy lên trong hồi ức khiến tinh thần phấn chấn cũng không làm thuyên giảm đi được bao nhiêu. Đôi chân của ông, xưa kia từng xông lên hàng đầu giữa trận mạc, nay đã tê liệt. Chỉ có nhờ một người hầu dìu đi, và nặng nề chống tay vào hàng lan can bằng sắt, ông mới có thể chậm rãi và vất vả leo lên những bậc thềm Phòng Thuế quan, rồi lần từng bước cực nhọc trên sàn lê tới chiếc ghế bành quen thuộc của ông bên lò sưởi. Ông thường ngồi ở đấy, với một vẻ trầm lặng hơi đờ đẫn, đưa mắt nhìn những dáng hình ra vào qua lại, giữa những tiếng giấy tờ sột soạt, tiếng tuyên thệ, tiếng bàn luận công tác, và tiếng trò chuyện tầm phào ; tất cả những tiếng động và sự việc ấy hình như chỉ tác động lờ mờ đến giác quan của ông và khó mà thâm nhập được vào cõi trầm tư mặc tưởng bên trong ông. Trong tư thế yên tĩnh ấy, trông ông thật dịu dàng và đôn hậu. Nếu có ai đó hỏi han, nét mặt ông liền rạng lên một vẻ ân cần niềm nở và quan tâm, tỏ ra trong con người ông vẫn còn lửa sống, chẳng qua vì bị môi trường bao bọc bên ngoài ngọn đèn trí tuệ che khuất đi nên những tia sáng không lọt ra được đấy thôi. Càng sâu sát nhìn thấu vào thực chất khả năng tư duy của ông thì càng thấy rõ đầu óc ông vẫn minh mẫn. Đến khi không còn gì yêu cầu ông phải cất tiếng nói hoặc lắng tai nghe nữa – cả hai việc này đều đòi hỏi ở ông một sự nỗ lực rõ rệt – thì nét mặt ông lập tức chìm trở lại vào cái vẻ trầm lặng ban đầu tuy không phải là rầu rĩ. Nhìn nét mặt ấy, người ta không cảm thấy mủi lòng, bởi vì tuy hơi đờ đẫn, nhưng nét mặt ấy không có cái vẻ ngây dại của tuổi già lụ khụ. Bộ khung của thể chất ông, xưa kia vốn khỏe mạnh vạm vỡ, nay chưa phải đã suy sụp. Tuy nhiên, qua cái bề ngoài ốm yếu ấy, việc nhận xét và xác định tính cách của ông là một việc cũng khó khăn chả kém gì hình dung và tái hiện trong trí một pháo đài cổ như pháo đài Ticoderoga chẳng hạn, lúc nhìn vào tàn tích đổ nát xám xịt của nó. Có thể đây đó còn những mảng tường gần như nguyên vẹn: nhưng ở chỗ khác thì có thể chỉ còn những đống lô nhô không ra hình thù gì nữa, lù lù cả một khối nặng nề, cỏ cây hoang dại mọc tràn che kín qua những năm dài hòa bình và lãng quên.

Ấy thế mà, khi nhìn người chiến sĩ già bằng con mắt mến yêu – chả là, tuy giữa tôi với ông chỉ có mối giao tiếp sơ sài, nhưng tình cảm của tôi đối với ông, cũng giống như tình cảm của tất cả những sinh vật hai chân hoặc bốn chân đã gần gũi ông, có thể được gọi là lòng mến yêu, gọi như thế không có gì là quá đáng – tôi có thể thấy rõ được những nét chủ yếu của con người ông. Đặc trưng ở con người ấy là những đức tính cao thượng và quả cảm, tỏ ra rằng ông có được danh tiếng lẫy lừng không phải là do sự tình cờ, mà chính là do ông thật sự xứng đáng. Tôi nhận thức được rằng đặc điểm tinh thần ông là không bao giờ bối rối ngại ngần ; chắc hẳn là trong bất kỳ giai đoạn nào của đời ông cũng đã phải có một sức mạnh nào đó thôi thúc ông hành động ; nhưng một khi đã phấn chấn lao vào cuộc, trước mắt có biết bao trở ngại phải vượt qua và một mục tiêu xứng đáng để đạt tới, thì ông không phải là thứ người chịu ngã quỵ và thất bại. Ngọn lửa nhiệt tình mà sức nóng đã từng lan tỏa khắp trong bản chất của ông trước kia, và cho đến nay vẫn còn chưa tắt, không bao giờ là thứ lửa vụt lóe sáng và bập bùng trong một đám cháy bột phát, mà là một thứ lửa đỏ rực nung nấu của khối sắt hay lò rèn. Sức nặng, tính rắn chắc, sự vững vàng, đó là những nét toát ra từ tư thế nghỉ của ông, ngay cả vào giai đoạn mà tôi đang nói đây, khi mà sức khỏe ông đã suy sụp quá sớm như vậy. Nhưng tôi vẫn có thể hình dung rằng, ngay cả vào lúc này, nếu có một tác nhân kích thích tác động sâu vào tiềm thức của ông – do một hồi kèn xung trận khuấy động, với tiếng vang đủ lớn để đánh thức dậy tất cả những sinh lực của ông đang thiu ngủ, chứ không phải đã tắt lịm – thì ông vẫn còn có thể vứt đi mọi tật bệnh ốm đau như vứt đi chiếc áo bệnh nhân, quẳng chiếc gậy chống của tuổi già để nắm lấy thanh gươm trận, và lần nữa đứng bật dậy trở lại là người chiến sĩ. Và trong giây phút hừng hực ấy, thái độ của ông sẽ vẫn điềm tĩnh. Nhưng nói vậy thôi, chứ đó chỉ là hình ảnh gợi lên trong trí tưởng tượng, không phải là điều tiên đoán, cũng không phải là điều người ta mong muốn. Những gì mà tôi nhìn thấy ở ông – cũng rõ rệt như nhìn thấy ở thành lũy Ticonderoga cổ kính không gì hủy diệt nổi, mà tôi đã nêu ra trên đây làm hình ảnh so sánh xác đáng nhất – là những nét đặc trưng: biểu hiện sức chịu đựng ngoan cường và trụ bám không lay chuyển, tính chất này hồi ông còn trẻ rất có thể đã lên tới mức bướng bỉnh ; biểu hiện tính toàn vẹn, nó cũng như đã số những khả năng thiên phú khác của ông, là thuộc tính của một khối nặng chắc nịch không thể dát mỏng và không thể uốn nắn, hệt như một khối quặng sắt: và biểu hiện lòng nhân ái, dù cho ông đã từng hung tợn dẫn quân tuốt lê trần xung phong ở Chippewa hoặc Fort Erie, tôi vẫn hiểu rằng ông có một lòng nhân ái thực sự, hoàn toàn chả khác gì tình thương yêu nhân loại dạt dào trong lòng bất kỳ một nhà từ thiện nào đang đấu tranh cho lòng bác ái trên diễn đàn của thời đại. Theo tôi biết, ông đã từng giết người bằng chính bàn tay mình – chắc chắn là kẻ thù đã