← Quay lại trang sách

Chương 17 Mục Sư Và Con Chiên

Dù chàng mục sư bước chậm rãi là thế, anh cũng hầu như đã đi qua hẳn trước khi Hester Prynne có thể thu được hết sức lực để phát lên tiếng nói đủ cho anh nghe thấy. Cuối cùng chị đã thành công.

- Arthur Dimmesdale! – Chị gọi, thoạt tiên yếu ớt, sau đó chị gọi to hơn, nhưng giọng khàn đặc – Anh Arthur Dimmesdale!

- Ai gọi? Chàng mục sư thốt lên.

Nhanh chóng thu mình lại, anh đứng thẳng người, như một kẻ bất ngờ bị bắt gặp trong một tư thế mà mình không muốn cho ai nhìn thấy. Lo lắng đưa mắt về phía phát ra tiếng nói, anh lờ mờ phát hiện thấy một hình thù dưới đám lá cây, trong bộ quần áo màu tối sẫm, gần như chìm hẳn vào cõi mờ mịt u ám dưới bầu trời chiều đầy mây và cành lá rập rạp, khó phân biệt đến nỗi anh không biết đây là một con người hay là một cái bóng huyền ảo. Có lẽ con đường của anh đi qua cuộc sống đang bị ám bởi một bóng ma đã lẻn ra khỏi lĩnh vực suy tưởng của anh.

Anh bước tới một bước, và nhìn thấy chữ A màu đỏ.

- Hester! Hester Prynne! – Anh nói – Em đấy ư? Em vẫn còn sống đấy chứ?

- Vâng! Em vẫn sống – Chị trả lời – Vẫn sống cuộc sống như trong bảy năm qua. Thế còn anh, Arthur Dimmesdale, anh có còn sống không?

Chẳng có gì phải lấy làm lạ là tại sao người này lại ngờ vực về sự tồn tại thật sự về mặt thể xác của người kia như vậy, và thậm chí hồ nghi cả sự tồn tại của chính mình. Họ đã gặp nhau giữa khu rừng u ám trong một trạng huống kỳ lạ đến nỗi đây giống như là cuộc gặp gỡ đầu tiên trong thế giới bên kia nấm mồ của hai linh hồn đã từng mật thiết gắn bó với nhau trong cuộc sống trước, nhưng bây giờ đang đứng lặng rùng mình trong nỗi khiêp sợ lẫn nhau, vì chưa quen với thực trạng mới của họ mà cũng chưa quen với việc kết giao giữa những linh hồn đã lìa khỏi xác. Mỗi kẻ là một bóng ma, đang bị bóng ma kia làm cho kinh hãi, bởi vì cơn khủng hoảng này đã lôi họ trở về với ký ức, bộc lộ ra cho tâm hồn mỗi người thấy rõ toàn bộ lịch sử của nó và những gì nó đã kinh qua. Đang sống thì không bao giờ xảy ra điều này, trừ phi trong những thời điểm kích động đến nghẹt thở như vậy. Linh hồn nhìn thấy nét mặt lồ lộ của nó trong tấm gương soi của giây phút vừa qua. Trong tâm trạng sợ hãi, toàn thân run rẩy, và do cảm thấy một sự cần thiết bất đắc dĩ, có thể cho là như vậy, Arthur Dimmesdale từ từ đưa bàn tay ra, bàn tay giá lạnh như xác chết, và cầm lấy bàn tay cũng giá lạnh của Hester Prynne. Cái siết tay ấy, dù lạnh lẽo là thế, cũng đã xua tan được bóng mây buồn thảm nhất trong buổi gặp mặt. Ít nhất thì bây giờ họ cũng cảm thấy họ đều là cư dân của cùng một thiên thể.

Không nói thêm một lời – cả anh và chị không ai dẫn đường cho ai, mà như đã ngầm thỏa thuận với nhau – hai người lặng lẽ trở lui vào bóng tối của khu rừng đã trùm lấy Hester lúc này, và ngồi xuống đống rêu nơi mà chị cùng bé Pearl đã ngồi với nhau. Khi họ tìm được lời để nói, thì trước tiên chỉ là để phát biểu lên những vấn đề chung và những câu thăm hỏi mà bất kỳ một đôi bạn nào cũng đều có thể nêu ra với nhau, về bầu trời u ám, về cơn giông đang đe dọa, và tiếp đó, về sức khỏe của nhau. Và cứ thế họ tiến tới, không đột ngột mà dần dần từng bước, đi vào những vấn đề đang ấp ủ trong đáy sâu tâm hồn họ. Đã quá lâu bị số phận và hoàn cảnh ly gián, hai người cần có những đề tài tự nhiên và nhẹ nhàng đơn giản dẫn đầu, mở rộng ra những cánh cửa của buổi tiếp xúc, để cho những điều thực sự là tâm tư có thể được từ từ đưa qua ngưỡng cửa.

Sau một lát, chàng mục sư nhìn chăm chú vào mắt Hester Prynne.

- Hester – Anh nói – Em đã tìm thấy sự yên tĩnh chưa?

Chị mỉm cười buồn bã, cúi xuống nhìn vào chữ A màu đỏ trên ngực.

- Còn anh thì sao? – Chị hỏi.

- Không – không có gì ngoài sự tuyệt vọng – Anh trả lời – Với tính chất một con người như anh, sống cuộc đời như cuộc đời của anh, anh còn có thể mong chờ kết quả nào khác? Giá như anh là một kẻ vô đạo, một con người không có lương tâm, một tên khốn nạn đầy bản năng thô lỗ và cục súc – thì anh có thể đã tìm thấy sự yên tĩnh từ lâu ; nói cho đúng hơn, thì anh hẳn đã không bao giờ mất sự yên tĩnh. Nhưng, bất cứ những khả năng tốt đẹp nào vốn có trong con người anh, tất cả những thiên tư quý giá nhất mà Đức Chua1ad phú cho đều đã trở thành những công cụ tra tấn giày vò tâm hồn anh. Sự thể diễn biến đối với linh hồn anh là vậy đó. Ô Hester, anh thật khốn khổ biết chừng nào!

- Dân chúng tôn kính anh – Hester nói – Và chắc chắn là anh đã làm được những việc tốt lành cho họ. Điều đó chẳng đem lại cho anh niềm an ủi sao?

- Lại càng khốn khổ thêm, Hester ạ! Chỉ càng làm cho khốn khổ thêm! – Chàng giáo sĩ trả lời với một nụ cười cay đắng – Cái điều tốt lành mà có vẻ như anh đã làm được đó, anh không tin vào nó chút nào. Nhất định nó là một ảo giác. Một linh hồn bại hoại như linh hồn anh thì làm sao có thể đem lại được cái gì cho sự cứu rỗi những linh hồn khác? Một linh hồn ô nhiễm thì có tác dụng gì đối với sự lọc trong những linh hồn khác? Còn về lòng tôn kính của dân chúng, ôi giá mà nó có thể biến được thành sự khinh bỉ và căm ghét? Làm sao mà em có thể cho đó là một niềm an ủi, Hester, khi mà anh, đứng trên bục giảng, phải đón nhận bao nhiêu luồng mắt ngước lên nhìn vào mặt mình, như thể từ khuôn mặt mình tỏa rạng ánh sáng của thiên giới! – khi mà anh phải nhìn thấy đàn chiên của anh khao khát chân lý đang lắng tai nghe những lời của anh như thể một “tiếng nói lửa thiên” tại lệ Hạ trần đang phát biểu! – rồi nhìn vào bên trong mình, thấy rõ sự thực xấu xa của những gì mà họ đã thần tượng hóa? Anh đã từng bật cười cay đắng, trong lòng đau đớn, trước sự trái ngược giữa cái “có vẻ như” ở bề ngoài của anh và cái “thực ra” ở con người của anh! Và Quỷ Xa tăng tất cũng bật cười trước sự tương phản đó!

- Anh nghĩ như vậy là không công bằng với mình – Hester dịu dàng nói – Anh đã hối hận sâu sắc và xót xa. Tội lỗi của anh đã lùi về quá khứ đàng sau anh từ lâu rồi. Thực sự là cuộc sống của anh hiện nay trong sạch thánh thiện chẳng kém gì cái “có vẻ như” trước con mắt mọi người. Phải chăng không có gì là thật trong sám hối đã được biểu thị và chứng thực bởi những việc làm tốt đẹp như vậy? Thế thì tại sao nó không đem lại cho anh sự yên tĩnh?

- Không, Hester, không! – Chàng giáo sĩ trả lời – Không có tí thực chất nào vào trong đó hết. Nó lạnh giá và chết cứng, không thể làm được gì hay ho cho anh cả. Vì vấn đề tự hành xác vì day dứt ăn năn thật đã quá đủ! Nhưng về vấn đề sám hối thì lại chẳng có gì. Nếu thực sự có sám hối thì từ lâu anh đã phải vứt bỏ chiếc áo thánh thiện giả hiệu này đi và hiện nguyên hình ra trước loài người như lúc họ sẽ nhìn thấy anh trước tòa công lý trong ngày phán quyết cuối cùng. Sung sướng thay cho em, Hester, đã được mang chữ A màu đỏ công khai trên ngực. Còn chữ A màu đỏ của anh thì lại nằm trong vòng bí mật, âm thầm thiêu đốt anh. Em không thể biết được rằng anh sẽ nhẹ nhõm ra biết chừng nào nếu như, sau bảy năm ròng tự dằn vặt vì đã làm trò gian lận, anh được nhìn vào một đôi mắt biết nhận ra anh, thực chất là kẻ như thế nào! Giá như anh có một người bạn tâm giao – hoặc một kẻ thù, thậm chí kẻ tử thù ác độc nhất đi nữa – để mà, khi nào quá mệt mỏi với những lời khen ngợi của tất cả mọi người khác, anh có thể hàng ngày tới gặp người này, và được người này biết cho rằng anh là kẻ đê hèn nhất trong tất cả những kẻ tội lỗi, thì may ra bằng cách ấy tâm hồn anh mới có thể giữ được sự sống còn của mình. Ngay cả một tí sự thật thế thôi cũng sẽ đủ để cứu vớt anh. Nhưng hiện nay thì sao? Tất cả đều là lừa dối! – tất cả đều trống rỗng! – tất cả đều chết.

Hester Prynne nhìn thẳng vào mặt anh, muốn nói nhưng lại ngập ngừng. Tuy nhiên, giữa lúc Dimmesdale phát biểu ra những xúc động dồn nén lâu ngày một cách sôi nổi như vậy, những lời anh vừa nói đó đang tạo cho chị đúng thời cơ để xen vào câu chuyện chính cái điều mà chị đến đây cốt để nói với anh. Chị cố gắng chế ngự nỗi e sợ nơm nớp trong lòng, và thốt lên:

- Người bạn mà ngay lúc này anh cũng đang mong ước đó, để mà cùng khóc với anh về lỗi lầm của anh, thì anh có em ở đây, kẻ đồng lõa với anh trong tội lỗi. – Lần nữa chị gập ngừng, nhưng hết sức cố gắng, chị lại nói ra được – Còn một kẻ thù như vậy, thì anh đã có từ lâu, nó ở cùng với anh, dưới cùng một mái nhà.

Chàng mục sư bật người đứng phắt dậy, thở hổn hển, hai tay bấu vào lồng ngực, như thể muốn giật phăng quả tim ra.

- Hả? Em bảo sao? – Anh kêu lên – Một kẻ thù? Và ngay dưới mái nhà của ta! Ý em muốn nói gì vậy?

Hester Prynne lúc này hoàn toàn cảm nhận thấy rõ sự tổn thương nghiêm trọng trong tâm thần con người bất hạnh này, mà chị là kẻ chịu trách nhiệm vì đã để cho anh, trong suốt bao nhiêu năm trời, hoặc cho dù trong một chốc lát duy nhất thôi, nằm dưới sự tùy nghi tác oai tác quái của một kẻ mà ý đồ ấp ủ chỉ là sự hiểm ác chứ không thể là gì khác. Ngay sự gần gũi của kẻ thù ấy, dù hắn tự giấu mình dưới bất cứ thứ mặt nạ nào, cũng đã đủ để làm nhiễu loạn từ trường của một con người nhạy cảm cao độ như Dimmesdale. Trước đây trong một thời kỳ dài Hester không nhận thức được vấn đề này rõ ràng được như vậy ; hoặc có lẽ, trong tâm trạng yếu thế phát sinh từ nỗi phiền muộn của chính mình, chị đành để cho chàng mục sư gánh chịu cái mà có thể chị đã hình dung ra là một thứ khổ ải còn dễ chịu hơn. Nhưng gần đây, từ cái đêm thức ấy của anh, tất cả những mối thương cảm của chị đối với anh vừa mềm dịu đi vừa được tiếp thêm sinh lực. Bây giờ thì chị đọc được trong tâm hồn anh chính xác hơn. Chị không hề hồ nghi là sự có mặt thường xuyên của Roger Chillingworth chất độc ngấm ngầm của lòng nham hiểm của lão nhiễm vào toàn bộ bầu không khí bao quanh anh, cùng với sự can thiệp của lão, mà lão được phép tiến hành với danh nghĩa thầy thuốc, vào những nỗi đau thể chất và tinh thần của anh, - những điều kiện khách quan tai hại đó đã được lão tận dụng để thực hiện một ý đồ độc ác. Bằng đủ mọi cách ấy, lão đã kìm giữ lương tâm của kẻ đau khổ trong một trạng thái thường xuyên tấy lên nhức nhối. Xu hướng tiến tới đâu phải là chữa bằng thuốc đắng đã tật, mà là làm đổ vỡ và hư hỏng toàn bộ sự sống tinh thần của anh. Kết quả là, giữa trần gian, mưu đồ ấy hầu như không thể không dẫn tới tình trạng mất trí, và trong thế giới bên kia, cái tình trạng vĩnh viễn xa lìa cái Tốt và cái Thực, mà bệnh điên có lẽ là dạng tương ứng trên cõi trần này.

Vậy đấy, chị đã để rơi vào cái vực tai họa ấy con người mà trước đây chị đã yêu – không, chẳng phải chỉ trước đây, sao không nói thẳng ra được nhỉ! – mà cả đến bây giờ chị vẫn còn yêu tha thiết! Hester cảm thấy rằng việc hy sinh thanh danh của chàng giáo sĩ, và thậm chí cái chết của chàng, như chị đã nói với Roger Chillingworth, vẫn còn hay hơn vô cùng vô tận so với phương sách mà chị buộc lòng phải lựa chọn trước đây. Và bây giờ, chị thà nằm xuống trên đám lá rừng kia mà chết đi cho rảnh dưới chân Arthur Dimmesdale, còn vui lòng hơn là phải thú nhận ra điều sai lầm nghiêm trọng ấy.

- Ôi! Anh Arthur – Chị kêu lên – Anh tha thứ cho em! Trong tất cả mọi vấn đề khác, em đã luôn cố gắng để sống thực thà. Sự thực thà là đức tính duy nhất mà em có thể giữ vững, và thực tế là em đã giữ được vững qua mọi nỗi bất hạnh cùng cực ; chỉ trừ có một lần, lúc mà lợi ích của anh – sinh mệnh của anh – thanh danh của anh – đang bị đe dọa. Lúc đó em đã phải đồng ý với một trò dối trá. Nhưng sự dối trá chả bao giờ đem lại điều gì tốt lành cả, dù rằng không chấp nhận nó thì phải nhận lấy cái chết. Anh không hiểu em muốn nói gì ư? Cái lão già ấy! – Lão thầy lang – kẻ mà người ta gọi là Roger Chillingworth ấy! – trước đây là chồng em!

Chàng mục sư nhìn chị một lúc với tất cả sự sôi sục dữ dội. Trong những phần cấu tạo nên con người của anh, sự sôi sục này – trộn lẫn dưới nhiều dạng với những đức tính thanh cao, mềm dịu của anh – thực tế chính là phần mà quỷ sứ đòi hỏi, và do đó anh tìm cách đấu tranh để giành giật giữ lại những phần còn lại. Chưa bao giờ Hester bắt gặp ở anh cái cau mày độc địa và dữ tợn như lúc này. Thoáng hiện ra trong khoảnh khắc ngắn ngủi, nó là cả một sự biến dạng làm khuôn mặt anh trở thành hắc ám. Thế nhưng tính cách của anh đã bị suy nhược đi quá đỗi vì đau khổ, đến nỗi ngay cả tí khí lực yếu ớt mới xuất hiện cũng chỉ có thể chịu đựng được một cuộc đấu tranh trong chốc lát. Anh rã rượi đổ sụp xuống mặt đất, hai bàn tay ôm lấy mặt.

- Lẽ ra ta đã có thể biết. – Anh lẩm bẩm - Ừ mà chính là ta đã biết. Chẳng phải là ta đã được tâm linh mách bảo về điều bí mật ây khi ta tự nhiên thấy giật mình e ngại ngay trong giây phút đầu tiên giáp mặt hắn và cả bất cứ lúc nào nhìn thấy hắn từ ngày ấy đến nay đó sao? Tại sao lâu nay ta lại không hiểu được nhỉ? Ôi Hester Prynne, nàng quá coi nhẹ, chẳng hình dung nổi sự thể này kinh khủng đến chừng nào! Ôi nhục nhã! Ôi thô bỉ! Ôi xấu xí ghê tởm biết bao sự phơi trần ra như vậy của một tâm hồn đau ốm và tội lỗi trước chính con mắt của kẻ thèm muốn nhìn ngắm nó cho hả. Hỡi người đàn bà kia! Nàng phải chịu trách nhiệm về việc này! Ta không thể tha thứ cho nàng được!

- Anh ơi! Nhất định anh sẽ phải tha thứ cho em! – Hester kêu lên, ngã nhào xuống trên mặt đất phủ đầy lá rụng bên cạnh anh – Hãy để cho Chúa trừng phạt! Còn anh, nhất định anh sẽ tha thứ.

Trong lòng đột nhiên trào lên một tình cảm âu yếm thương yêu tuyệt vọng, chị quàng hai tay ôm lấy anh, ghì chặt đầu anh vào ngực mình, chẳng màng chú ý là má anh áp vào chữ A màu đỏ. Anh cố vùng ra nhưng không được. Hester không muốn thả anh ra, sợ anh lại nhìn vào mặt chị bằng đôi mắt nghiêm khắc. Tất cả thế gian lâu nay đã cau mày với chị rồi – bảy năm ròng rã họ đã cau mày nhìn người đàn bà cô quạnh này – mà chị đã chịu đựng được tất cả, cũng chẳng một lần ngoảnh đôi mắt cương nghị và buồn rầu của chị đi chỗ khác. Cả Thượng đế nữa, cũng cau mày với chị. Vậy mà chị không chết. Nhưng cái cau mày của người đàn ông da xanh tái, yếu ớt, tội lỗi và chứa chất đau buồn này thì chị không tài nào chịu nỗi, nó sẽ làm chị không sống nổi.

- Anh ơi! Dù sao đi nữa, anh có tha thứ cho em không? – Chị nhắc đi nhắc lại, lần này rồi lần khác – Anh có vui lòng thôi đừng cau mày nữa không anh? Anh có tha thứ không anh?

- Ta tha thứ cho em, Hester, - Cuối cùng chàng mục sư trả lời, bằng một giọng trầm hẳn xuống, như thốt ra từ một vực thẳm u sầu, không còn giận dữ - Bây giờ ta sẵn lòng tha thứ cho em. Cầu mong Chúa tha thứ cho cả hai ta. Hester, chúng ta không phải là những kẻ tội lỗi xấu xa nhất trong thế gian. Có một kẻ phạm tội còn xấu xa hơn cả người giáo sĩ sa đọa. Hành động trả thù của lão già ấy ghê tởm hơn tội lỗi của ta. Hắn đã nhẫn tâm xúc phạm đến tính thiêng liêng của một trái tim con người. Cả em và ta. Hester ạ, không bao giờ làm như vậy.

- Vâng, không bao giờ, không bao giờ! – Chị thì thầm – Điều chúng ta đã làm có một tính thánh hóa của riêng nó. Chúng ta đã cảm thấy thế! Chúng ta chẳng đã nói với nhau như vậy sao? Anh không quên chứ?

- Thôi đừng nói nữa, Hester! – Arthur Dimmesdale vừa nói vừa đứng dậy – Không! Anh không quên đâu.

Họ lại ngồi xuống, sát bên nhau, tay nắm tay, trên thân cây mục phủ đầy rêu. Cuộc sống chưa bao giờ mang đến cho họ một giờ phút u ám hơn thế ; đây là thời điểm mà con đường vận mệnh của họ đã từ lâu hướng tới, và càng âm thầm tiến tới thì con đường càng tối tăm thêm mãi – thế nhưng thời điểm này lại hé mở một sức quyến rũ khiến cho họ cứ muốn nấn ná níu thời gian lại, rồi xin thêm chút nữa, rồi lại chút nữa, rồi sau rốt, lại thêm chốc lát nữa. Khu rừng quanh họ tối mờ mịt và cựa mình kèn kẹt dưới một luồng gió đang lướt qua. Các cành cây lắc lư nặng nề trên đầu họ, trong khi một cây cổ thụ khác bên cạnh, như thể đang kể lể câu chuyện đau buồn của đôi bạn lòng ngồi bên dưới, hoặc đang buộc phải báo trước một điều tai họa sắp xảy ra.

Dù sao đi nữa, họ vẫn chần chừ nán lại. Con đường rừng dẫn trở về khu định cư sao mà buồn thảm làm vậy! Trở về đấy, Hester Prynne lại phải tiếp tục hứng chịu gánh nặng ô nhục, và chàng mục sư lại phải tiếp tục trò hề giả tạo để bảo toàn thanh danh. Vì thế, họ nán lại thêm một chốc nữa. Chưa bao giờ có một ánh sáng huy hoàng nào lại quý báu bằng cái ánh mờ ảm đạm của khu rừng u sầu này. Ở đây chỉ có mắt anh nhìn thấy, chữ A màu đỏ không làm cháy bỏng ngực người đàn bà sa ngã! Ở đây chỉ có mắt chị nhìn thấy, Arthur Dimmesdale, vai kịch giả dối với Chúa và với con người, có thể sống thực thà trong một thời gian ngắn.

Đột nhiên anh giật mình vì một ý nghĩ thoáng qua trong óc.

- Hester! – Anh kêu lên – Lại còn một điều kinh khủng khác! Roger Chillingworth biết ý định của em quyết vạch bộ mặt thật của hắn ra. Vậy hắn có tiếp tục giữ kín điều bí mật của chúng ta không! Cách báo thù của hắn bây giờ sẽ đi theo chiều hướng nào?

- Trong bản chất của lão có một tính kín đáo thật kỳ lạ - Hester tư lự trả lời – Cái tính ấy ngày càng phát triển ở lão do quá trình lão bí mật thực hiện cuộc báo thù. Em cho rằng không có khả năng lão sẽ tố cáo điều bí mật của chúng ta đâu. Chắc chắn lão sẽ tìm một biện pháp khác để thỏa mãn tà tâm của lão.

- Còn anh! Anh sẽ tiếp tục sống làm sao đấy, khi mà anh phải thở cùng một bầu không khí với kẻ tử thù ấy? – Arthur Dimmesdale kêu lên, người cô rúm lại, bàn tay bồn chồn đè lên tim – một động tác đã tự phát trở thành thói quen ở anh – Em! Hester! Hãy suy nghĩ hộ anh đi! Em có sức mạnh! Hãy giải quyết hộ anh đi!

- Anh không thể tiếp tục ở với con người ấy nữa – Hester nói chậm rãi và kiên quyết. – Tâm can của anh không thể tiếp tục phơi bày trước con mắt ác độc của lão nữa!

- Ừ điều đó còn tệ hơn cái chết rất nhiều. – Chàng mục sư trả lời – Nhưng làm sao tránh thoát được? Anh còn có điều lựa chọn nào khác? Hay là anh sẽ lại nằm xuống trên lớp lá rụng tàn úa kia, ở chỗ mà anh đã ngã xuống khi em nói cho anh biết hắn là ai? Liệu anh có phải ngục xuống đó mà chết luôn đi không?

- Trời ơi! Tai họa đã làm anh suy sụp quá chừng! – Hester nói, nước mắt giàn giụa – Anh sẽ chết chỉ vì sự yếu đuối ư? Không vì lý do gì khác cả ư?

- Chúa đang trừng phạt anh – Chàng giáo sĩ bị lương tâm cắn rứt trả lời – Uy lực trừng phạt quá lớn lao, anh không thể chống lại.

- Thượng đế sẽ rộng lượng từ bi – Hester nói – chỉ cần anh có sức mạnh để tận dụng lòng khoan dung ấy.

- Em hãy dùng sức mạnh của em giúp anh – Anh trả lời – Hãy góp ý cho anh, anh phải làm gì đây?

- Vậy em bảo anh nhé, thế gian đâu phải chỉ là một khoảnh chật hẹp? – Chị kêu lên, cặp mắt sâu thẳm của chị nhìn đăm đắm vào mắt anh, toát ra một uy lực của bản năng có sức lôi cuốn mạnh mẽ đối với một tinh thần bị tàn hại và đè nén quá đỗi đến nỗi nó hầu như không đứng thẳng được nữa – Đâu phải hoàn cầu chỉ nằm vỏn vẹn trong phạm vi thành phố kia, nơi mà trước đây không lâu chỉ là một hoang mạc phủ đầy lá rụng, cũng hiu quạnh chả kém gì khu rừng hoang quanh chúng ta đây? Còn con đường rừng kia, nó dẫn ta đến đâu? Về phái sau, trở lại khu định cư, anh sẽ bảo vậy. Đúng! Nhưng đâu phải chỉ về phía sau, mà còn về phía trước nữa chứ! Càng đi sâu về phía trước, càng đi sâu vào cõi hoang dã, cứ mỗi bước đi tới thì lối mòn lại càng mờ dần đi: cho đến một nơi, cách đây mấy dặm, lớp lá rừng vàng úa sẽ không còn ghi một vết tích gì của dấu chân người da trắng nữa. Đến nơi đó, anh được tự do. Chỉ một quãng đường ngắn thế thôi sẽ đưa anh từ một thế giới nơi anh cực kỳ khốn khổ sang một thế giới khác, nơi anh còn có thể được sung sướng. Phải chăng không có đủ bóng tối trong tất cả miền rừng rậm vô biên này để che kín cho tâm can anh khỏi bị Roger Chillingworth nhòm ngó?

- Có! Hester ạ! Nhưng chỉ bên dưới lớp lá rụng thôi – chàng mục sư trả lời với một nụ cười buồn bã.

- Vậy thì còn có con đường thênh thang trên biển cả - _Hester nói tiếp – Con đường ấy trước kia đã đưa anh đến đây. Nếu anh muốn, nó sẽ lại đưa anh trở lại về chốn cũ. Nơi vùng đất quê hương của chúng ta, dù là ở một làng nông thôn xa xôi hay giữa thành phố London rộng lớn – hoặc, cho thật bảo đảm chắc chắn, ở Đức, ở Pháp, ở nước Ý đáng mến – anh sẽ thoát ra ngoài sự chi phối của lão, lão không thể hay biết gì về anh. Và việc gì anh phải dính dáng đến tất cả những con người khắc nghiệt kia và phải đếm xỉa đến ý kiến của họ? Họ đã giam phần lớn cuộc đời anh vào vòng câu thúc quá lâu rồi!

Chàng mục sư lắng tai nghe, anh cảm thấy như thể Hester đang kêu gọi anh biến một giấc mơ thành hiện thực.

- Không thể được! – Anh trả lời – Anh bất lực không thể nào đi được. Dù khốn nạn và tội lỗi như anh, anh cũng không có một ý định nào khác ngoài việc cam chịu kéo dài cuộc sống giữa trần gian trong môi trường mà Thượng đế đã đặt anh vào. Dù linh hồn anh sa đọa là thế, anh vẫn sẽ làm tất cả những gì anh có thể làm được để chăm sóc cho linh hồn của những con người khác. Anh không dám rời vị trí đứng gác của mình, dù mình là người lính canh không trung thành, mà đối với người lính canh như vậy thì chắc chắn sự thưởng phạt sẽ không có gì khác ngoài cái chết và sự nhơ nhuốc ô danh, khi phiên gác buồn thảm của mình kết thúc.

- Gánh nặng bảy năm đau đớn khổ sở đã đè bẹp anh mất rồi – Hester trả lời, sôi nổi quyết tâm dùng nghị lực của mình vực tinh thần anh dậy – Nhất định anh sẽ phải trút nó lại đàng sau tất cả! Nhất định sẽ không thể để gánh nặng ấy cản trở bước chân anh khi anh đi theo con đường rừng về phía trước ; mà nó nhất định cũng không được theo anh lên tàu, nếu anh thích chọn con đường vượt đại dương. Hãy bỏ lại sự đổ nát và tai họa này, bỏ lại đây ; nơi mà nó đã xảy ra. Đừng dính gì đến nó nữa. Hãy bất đầu lại tất cả. Phải chăng thất bại trong mỗi một cuộc thử thách này thôi đã làm kiệt quệ mọi khả năng của anh đi? Không phải thế! Tương lai còn đầy thử thách và thắng lợi. Vẫn còn được hưởng hạnh phúc. Vẫn còn làm được điều tốt lành. Hãy đổi cuộc sống giả này của anh lấy một cuộc sống thực! Hãy làm người thầy và vị sứ đồ của người da đỏ, nếu như tinh thần anh kêu gọi anh làm nhiệm vụ đó. Hoặc là, để cho thích hợp với bản chất anh hơn, hãy trở thành một nhà học giả và hiền triết trong số những người thông thái nhất và tiếng tăm nhất của thế giới học thức. Anh giảng đạo! Anh viết! Anh hành động! Anh hãy làm bất cứ việc gì, trừ việc nằm xuống chết. Anh bỏ cái tên Arthur Dimmesdale này đi, xây dựng cho mình một tên tuổi khác, một cao danh, mà anh có thể mang không chút e ngại và hổ thẹn. Tại sao anh lại cứ phải lần lữa dù là chỉ thêm một ngày nữa thôi, trong những cơn giày vò đã bao lâu nay gặm nhấm tàn lụi cuộc đời của anh? Đã làm cho anh yếu đuối đi trong ý chí và trong hành động? Và sẽ làm anh kiệt quệ hết sức lực thậm chí không còn sức để mà hối hận nữa! Anh! Đứng thẳng dậy, và rời khỏi miền này!

- Ôi! Hester! – Arthur Dimmesdale kêu lên. Ngọn lửa hăng hái nhiệt tình của chị đã thắp lên trong đôi mắt anh một ánh chập chờn, vụt lóe sáng nhưng lại tắt ngấm đi ngay – Em đưa chuyện chạy đua ra bàn với một người mà hai đầu gối lảo đảo chỉ những muốn khuỵu xuống. Anh phải chết ở đây thôi. Anh không còn sức lực hoặc can đảm để dám mạo hiểm xông vào thế giới rộng lớn, xa lạ và khó khăn một mình đơn độc.

Đó là hơi thở hắt ra cuối cùng của sự ngã lòng trong một tinh thần suy sụp. Anh thiếu hẳn nghị lực để nắm lấy vận số tốt đẹp hơn dường như đang tới trong tầm tay của anh.

Anh lẩm bẩm nhắc lại: - Một mình đơn độc, Hester!

- Anh sẽ không đi một mình – Tiếng chị trả lời, thì thầm thốt ra từ cõi lòng sâu thẳm.

Vậy là tất cả đã được nói rõ.