← Quay lại trang sách

Cuộc tấn công ban đêm

Người đã cứu Marius thoát chết chính thức là một cô gái. Đó là Éponine, con gái đầu của Thénardier. Éponine là cô gái có tâm hồn trong sáng song lại bị đày trong cảnh cùng khổ, bất lương. Nhà nàng trước ở cạnh nhà Marius. Cuộc khởi nghĩa bùng nổ, Éponine đã mặc giả trai theo đám sinh viên có mặt ở chiến lũy ngay từ phút đầu. Thấy Marius bị nguy, cô dũng cảm xông ra bịt miệng súng để cứu Marius. Bị thương nặng, cô đã cố lết ra chiến lũy nhỏ để chờ và trao thư của Cosette gửi cho anh.

Lúc đó, mọi người đều chăm chú vào phía chiến lũy chính. Đó là phía bị đe dọa nhiều nhất và chắc sẽ có cuộc tấn công trở lại. Nhưng Marius lại nghĩ đến phía chiến lũy nhỏ và đi về phía ấy. Chiến lũy vắng tanh, chỉ có một ngọn đèn dầu chập chờn giữa các đống đá canh giữ ở đó. Kiểm tra xong, Marius vừa quay đi thì anh nghe có ai gọi tên mình trong bóng tối:

- Ông Marius!

Tiếng gọi yếu ớt như hơi thở. Marius rùng mình nhìn quanh và chẳng thấy một ai cả. Cho là mình nghe nhầm, anh tiến thêm một bước ra khỏi chỗ ngách sâu của chiến lũy. Cái tiếng ấy lại gọi lần nữa:

- Ông Marius! Ông hãy nhìn dưới chân ông kia!

Marius cúi xuống và thấy trong bóng tối, một hình người đang cố bò trên mặt đường. Nhờ ánh đèn, anh thấy được cái áo bờ-lu, cái quần nhung thô đã rách và một gương mặt tái nhợt đang ngước lên nhìn và nói:

- Ông không nhận ra em ư? Em là Éponine đây!

Marius vội vàng quỳ xuồng. Đúng là cô bé đáng thương ấy đã cải trang thành đàn ông.

- Sao cô lại ở đây? Cô làm gì thế?

- Em chờ chết!

Nhìn thấy vết thương chảy máu của Éponine, Marius giật mình kêu:

- Tay cô làm sao vậy?

- À, lúc nãy thấy súng chĩa vào ông, em nhảy đến, dùng tay bịt lấy miệng súng ấy.

Marius rùng mình. Anh kêu lên:

- Trời ơi! Sao lại làm thế! Thôi, để tôi cõng cô vào bên trong để anh em băng bó cho. - Anh an ủi thêm - Thủng bàn tay thì không chết đâu.

Éponine thì thào:

- Viên đạn xuyên qua bàn tay nhưng nó lại ra đằng lưng. Không phải đưa em đi chỗ khác làm gì ông ạ! Vô ích! Ông hãy ngồi xuống đây.

Marius ngồi xuống, nàng kê đầu lên đầu gối của Marius, mắt không nhìn anh, chỉ nói:

- Chao ôi! Dễ chịu quá đi mất! Nhờ ông mà em hết cả đau rồi!

Marius lặng người xúc động. Anh thầm biết ơn Éponine. Lúc này Éponine quá yêu. Vẻ mặt nàng như điên như dại, lại trầm lặng não nùng. Cái áo bờ-lu bị rách để hở cả ngực trần. Nàng vừa nói vừa lấy bàn tay bị thủng ấp lên ngực. Ở đây cũng có một lỗ thủng khác, thỉnh thoảng máu lại trào ra như thùng rượu đã mở vòi. Marius nhìn kỹ cô gái đau khổ, lòng xót thương vô hạn.

Bỗng nhiên nàng kêu lên:

- Ôi nó lại ra! Ngạt thở quá! - Nàng cầm cái áo bờ-lu lên, cắn chặt lấy. Hai chân cứng đờ trên mặt đường.

Vừa lúc ấy, tiếng hát trong trẻo của Gavroche lại vang lên trong chiến lũy. Cậu bé đứng lên bàn để lắp đạn vào súng và véo von bài hát mà nhân dân ưa thích lúc bấy giờ:

“Thấy bóng Lafayette

Chú sen đầm la chí chết:

Chạy đi! Chạy đi! Chạy hết đi!”

Éponine nhỏm dậy, lắng nghe rồi lẩm bẩm:

- Đúng nó!

Nàng quay qua Marius:

- Thằng em của em đấy. Đừng để nó trông thấy em. Nó la chết.

- Em cô? Ai là em cô? Chú bé đang hát đấy à?

- Chính nó!

Marius định đi gọi Gavroche, nhưng Éponine vội ngăn:

- Ông đừng cho nó biết. - Nàng nói tiếp - Ông khoan đi đã! Bây giờ thì em không còn sống lâu đâu. Ông gắng ngồi lại bên em một lát.

Nàng gần như nhỏm hẳn dậy. Tiếng nàng đã rất yếu và xen lẫn những tiếng nấc. Chốc chốc, hơi thở khò khè làm nàng phải ngừng nói. Nàng cố hết sức ghé sát mặt Marius và nói bằng một giọng khác thường:

- Này! Em không lừa ông đâu nhé! Có cái thư cho ông, em còn bọc trong túi đây. Ông cầm lấy bức thư đi!

Bàn tay bị thủng của nàng run rẩy đưa lên cầm tay Marius nhưng hình như nàng không còn thấy đau nữa. Nàng đặt bàn tay Marius lên túi áo bờ-lu của mình. Có cái gì bằng giấy thật. Nàng bảo:

- Lấy đi!

Marius cầm lấy bức thư.

Nàng gật đầu ra vẻ bằng lòng. Cảm thấy cái chết đến gần, nàng ngả đầu lên gối Marius, hai mắt nhắm lại. Marius tưởng thế là hết, linh hồn trẻ tuổi tội nghiệp ấy đã bay đi. Bỗng nàng từ từ mở mắt, cặp mắt đã đờ đẫn cái màu sẫm của thần Chết. Nàng nhìn Marius. Giọng nàng nghe êm dịu như từ thế giới nào đưa lại:

- Với lại, ông Marius này! Hình như em cũng đem lòng yêu ông.

Nàng cố nở nụ cười rồi tắt thở.

Anh cúi xuống hôn vào cái trán nhợt nhạt lấm tấm mồ hôi lạnh ngắt. Bây giờ Marius mới nghĩ ra anh có hai nhiệm vụ phải làm tròn, việc đầu tiên là báo tin cho Cosette biết anh sẽ chết và gửi lời chào vĩnh biệt nàng, việc thứ hai là cứu Gavroche. Anh có mang trong người một cái ví da, chính cái ví đựng cuốn sổ trong đó anh đã ghi bao nhiêu lời tình tứ cho Cosette. Anh xé một tờ giấy và ghi nguệch ngoạc mấy dòng bằng bút chì, sau đó gấp tờ giấy lại và ghi địa chỉ này lên trên: Gửi cô Cosette Fauchelevent, ở nhà ông Fauchelevent, số 7 phố Homme-Armé. Anh bỏ ví vào túi áo rồi gọi Gavroche. Nghe Marius gọi, chú bé liền chạy đến, vẻ mặt hớn hở và sốt sắng. Marius nói:

- Em có muốn làm giúp anh một việc không?

- Làm tất. - Gavroche nhanh nhảu đáp - Trời cao đất dày ơi! Không có anh thì chúng xơi tái em rồi còn gì!

- Em có thấy bức thư này không?

- Có!

- Em cầm bức thư này, lập tức rời khỏi chiến lũy (Gavroche lo lắng, bắt đầu gãi tai), và sáng mai thì đem đến tận nơi cho cô Cosette ở nhà ông Fauchelevent, số 7 phố Homme-Armé.

Cậu bé anh hùng đáp:

- Được, nhưng mà trong lúc em đi, nếu chúng đánh chiếm chiến lũy thì lại vắng mặt em mất.

- Tình hình này chắc là sáng sớm chiến lũy mới bị tấn công và có bị mất, sớm nhất cũng đến trưa mai.

- Này anh! - Gavroche hỏi - Sáng mai em sẽ mang đi cho anh có được không?

- Chậm mất em ạ. Chiến lũy chắc chắn sẽ bị bao vây, chúng sẽ canh gác tất cả các ngõ, em không ra được đâu. Em đi ngay bây giờ đi!

Gavroche không biết cãi lại bằng cách nào, vẫn lưỡng lự đứng đấy, tay cứ gãi tai, vẻ mặt buồn buồn. Bỗng nhanh như cắt, chú giật lấy bức thư.

- Thôi được!

Gavroche vừa thoáng tìm ra một sáng kiến làm chú quả quyết nhưng chú không dám nói sợ Marius ngăn trở. Chú nghĩ: “Bây giờ mới mười hai giờ, phố Homme-Armé không xa lắm, ta đưa đi ngay thì trở về cũng kịp”. Nghĩ vậy, Gavroche liền giằng lấy bức thư rồi vụt chạy qua ngõ Mondétour, băng qua chiến lũy.

Đường phố vắng tanh. Chỉ một vài người đang lo lắng rảo bước về nhà là thoáng nhìn thấy một người ngồi yên lặng trên trụ đá, trong bóng tối. Đó là Jean Valjean. Mặc dù bóng đêm đã bủa vây nhưng từ chiến lũy vẫn vọng tới những tiếng nổ, những tiếng chuông gióng giả, những tiếng ồn ào huyên náo dữ dội... Tất cả những cái đó cũng không kéo được Jean Valjean ra khỏi trạng thái suy tư buồn bã. Jean Valjean vẫn ngồi im lìm trên trụ đá. Bỗng ông ngước mắt lên. Có tiếng chân người trên đường phố, ở gần mình. Dưới ánh sáng của cây đèn bên kia đường, ông nhìn thấy ở đầu kia, một gương mặt xám xanh nhưng trẻ măng và tươi tỉnh. Đó là Gavroche vừa đến phố Homme-Armé. Gavroche đang ngước nhìn lên cao, ra dáng tìm tòi. Chú thấy rõ Jean Valjean nhưng chẳng thèm chú ý. Chú hết nhìn lên cao lại nhìn xuống thấp. Chú bước đi rón rén, đưa tay sờ khắp các cửa lớn, cửa sổ ở tầng dưới, cửa nào cũng đóng then, cài khóa cẩn thận. Sờ năm bảy lần thấy chỗ nào cũng đóng chặt, chú bé nhún vai.

- Cóc khô!

Rồi chú lại đưa mắt nhìn trở lên phía trên cao. Jean Valjean trông thấy tất cả. Mấy phút trước, lúc tâm thần rối loạn, nhất định là ông chẳng nói với bất kỳ ai, nhưng bây giờ, bỗng nhiên ông thấy có cái gì mãnh liệt thúc đẩy ông lên tiếng hỏi chú bé:

- Chú bé, chú có việc gì thế?

- Tôi có việc gì à? Tôi đói. - Gavroche đáp rành mạch - Bé à? Có ông mới bé thì có!

Như con choai choai, Gavroche luôn luôn từ cử động này chuyển qua cử động khác, chú cúi nhặt một hòn đá. Chú vừa nhìn thấy cái đèn đường.

- À, ở đây các ông còn để đèn à? - Chú nói - Không đúng với lệnh ban bố, các ông bạn ạ. Như thế này là vô trật tự. Đập vỡ đi cho tôi!

Và chú ném hòn đá vào cái đèn. Mảnh kính rơi choang xuống đường làm cho mấy người thị dân hốt hoảng kêu lên: “Lại Chín mươi ba [1] rồi!”

Ngọn đèn lắc mạnh rồi phụt tắt. Đường phố bỗng tối đen như mực. Gavroche đắc chí.

- Thế đây! Bà phố già ạ, bà đi ngủ đi cho tôi nhờ.

Xong chú quay lại Jean Valjean.

- Cái lâu đài to tướng ở cuối phố kia, người ta gọi là cái gì đó nhỉ? Có phải là nhà Lưu trữ văn thư không? Đập mẹ cái lũ to bự ấy mà làm một cái chiến lũy có phải gọn không nhỉ? Như thế chiến lũy mới oai chứ!

Jean Valjean bước đến bên cạnh Gavroche, lẩm bẩm trong miệng như nói một mình:

- Tội nghiệp thằng bé! Nó đói.

Jean Valjean thò tay vào túi quần, móc một đồng năm franc, đặt đồng năm franc vào lòng bàn tay Gavroche. Gavroche hếch mũi lên, ngạc nhiên thấy đồng bạc to quá. Chú nhìn đồng bạc qua bóng tối, màu bạc sáng trắng làm cho chú hoa mắt. Từ trước đến nay, chú chỉ nghe chứ chưa hề thấy đồng năm franc. Chỉ nghe ca tụng cũng đủ thích rồi, lần này lại thấy tận mắt, chú mê tít. Chú bảo: “Nào, nhìn con hổ một tí”. Chú say sưa nhìn, rồi quay lại phía Jean Valjean, đưa trả đồng bạc và cất giọng oai nghiêm nói:

- Này ông tư sản, tôi thích đập vỡ đèn phố hơn, ông cầm lại con thú dữ của ông đi. Không mua chuộc được tôi đâu. Thứ bạc này thế mà có vuốt đấy, có năm vuốt. Có vuốt cũng mặc, nó không cào được tôi đâu.

Jean Valjean hỏi:

- Cháu có mẹ không?

- Chắc là có hơn ông! - Gavroche đáp.

- Thế thì cứ giữ đồng bạc này về đưa cho mẹ cháu! - Jean Valjean bảo.

Gavroche cảm thấy lòng mình xúc động. Với lại chú vừa nhận thấy người đang nói chuyện với chú đầu không có mũ, nên chú thấy tin tin.

- Thực à? Không phải ông cho tiền để tôi khỏi đập vỡ đèn à?

- Cháu muốn đập thì cứ đập.

- Ông tốt lắm. - Gavroche nói và bỏ đồng năm franc vào túi.

Ông già dần dần làm chú thêm tin cậy, chú hỏi thêm:

- Có phải ông ở phố này không?

- Phải, cháu hỏi làm gì?

- Ông có thể chỉ cho tôi nhà số 7 được không?

- Hỏi nhà số 7 làm gì?

Chú bé sợ đã lỡ lời, dừng lại. Chú thọc mạnh năm ngón tay vào tóc, trả lời cụt ngủn:

- À, ra như thế đấy.

Một ý nghĩ thoáng qua trong trí Jean Valjean. Con người đang lo hoảng cũng có những phút sáng suốt như thế. Ông bảo chú bé:

- Có phải cháu mang cho tôi cái thư mà tôi đang đợi không?

- Ông ấy à? Ông có phải là đàn bà đâu.

- Bức thư gửi cho Cosette chứ gì, có phải không?

Gavroche lẩm bẩm:

- Cosette? Phải, hình như cái tên quái quỷ ấy là như thế thực.

- Thế thì chính tôi có nhiệm vụ trao lại bức thư cho cô ta đây. Cháu hãy đưa cho tôi.

- Vậy chắc ông phải biết rằng tôi được lệnh từ chiến lũy đến đây.

- Biết chứ!

Gavroche thọc tay vào túi, móc ra miếng giấy gấp tư rồi đứng nghiêm chào.

- Phải tôn trọng bức thông điệp của chính phủ lâm thời đấy!

Jean Valjean giục:

- Đưa đây!

Gavroche cầm tờ giấy giơ cao lên trên đầu.

- Không phải thư tình đâu nhé! Gửi cho một người đàn bà nhưng lại là gửi cho toàn thể nhân dân đấy. Bọn chúng tôi chiến đấu và chúng tôi tôn trọng nữ giới. Chả như ở chốn cao sang, sư tử lại đi biên thư tình cho lạc đà [2] đâu nhé!

- Đưa đây!

Gavroche nói tiếp:

- Thực tình, trông ông có vẻ là người tốt thật.

- Đưa mau!

- Đây, cầm lấy!

Gavroche trao tờ giấy cho Jean Valjean.

- Nhanh lên ông cụ Chose ơi, cô Chosette đang chờ đấy.

Gavroche thích thú khi bịa ra được tiếng ấy. Jean Valjean hỏi:

- Thư trả lời có phải mang đến Saint-Merry không?

Gavroche đáp:

- Ông dẫn xác đến đó để cho vỡ ra như bánh tráng nướng ấy à! Thư này từ chiến lũy phố Chanvrerie đến đấy. Thôi, tôi trở về đằng ấy đây. Chào đồng bào!

Nói xong, Gavroche bỏ đi, hay nói đúng hơn là vỗ cánh bay trở về chỗ mình vừa thoát ra. Chú lăn vào đêm tối nhanh vun vút như một viên đạn xuyên thủng bóng đêm. Phố Homme-Armé trở lại im lìm, vắng vẻ. Trong nháy mắt, chú bé lạ lùng mang trong mình cả bóng tối lẫn thơ mộng ấy đã chìm sâu vào trong khoảng nhà cửa đen ngòm và mất hút như làn khói tan trong bóng đêm. Nếu không có tiếng kính vỡ choang và tiếng đèn rơi xuống đường làm cho các nhà thị dân bực bội phải giật mình thức dậy lần nữa thì người ta có cảm tưởng chú đã biến thành mây khói và tiêu tan không còn vết tích. Lúc này Gavroche đã đi qua phố Chaume.

Sau khi đã cố tình ném vỡ cây đèn ở phố Chaume, Gavroche rẽ sang phố Haudriettes. Phố vắng tanh không một người qua lại. Chú thấy đây là dịp tốt để hát trọn bài mà mình biết. Miệng hát nhưng chân cứ đi, không chậm lại mà nhanh thêm lên. Các dãy nhà chú đi qua đều đóng cửa im ỉm vì ngủ yên hay là vì hoảng sợ, và chú ném ra hai bên phố điệu hát nảy lửa này:

“Con chim nó mách trên cành

Rằng Atala đã theo tình đi xa

Bạn tình là một chàng Nga

Đi đâu hỡi các tố nga?

Dô ta!

Đẹp thay cái chiếc áo choàng

Của cô Suzette và nàng Zéïla

Áo người đã quấn hồn ta

Đi đâu hỡi các tố nga?

Dô ta!

Tình ơi, trong tối sáng ngời

Hoa hồng đem kết vào đời Lola

Yêu nàng ta xả thân ta

Đi đâu hỡi các tố nga?

Dô ta!

Vũ về, vào lúc nửa đêm

Chỉ em, anh nói với ngàn sao xa

Sao nào! Hãy ngắm Stella

Đi đâu hỡi các tố nga?

Dô ta!”

Gavroche vừa hát vừa làm điệu bộ tha hồ không dè sẻn. Điệu bộ là điểm tựa cho điệp khúc. Mặt chú là một kho chứa mặt nạ. Chú làm đủ điệu nhăn nhó giật gân và kỳ dị như các lỗ thủng của một cái khăn treo dưới gió. Buồn thay, vì chỉ có một mình chú trong đêm tối, cho nên không ai xem và cũng không thể trông thấy. Có những tài hoa hoài phí như vậy đấy. Bỗng nhiên chú ngừng hát.

- Thôi, dẹp bài ca ân tình lại đã.

Cặp mắt mèo của chú vừa nhìn thấy một cái xe ba gác, mà anh chàng người vùng Auvergne đang ngủ trong xe. Càng xe thả xuống mặt đường, còn đầu người kia lại gác trên ván xe, chân chấm đất, thân nằm trên xe bị chúc ngược. Có kinh nghiệm về việc đời, Gavroche biết ngay là một anh chàng say rượu. Đích thị là một anh chàng chở thuê ở xó này, ních rượu đầy vào rồi ngủ cũng đẫy. Gavroche nghĩ bụng: Đêm mùa hè cũng được việc đấy chứ! Đánh một giấc ngay trong xe. Thôi, ta “mượn” chiếc xe này cho chính phủ cộng hòa, còn ta để anh chàng này cho chế độ quân chủ.

Trong trí Gavroche vụt lóe lên một tia sáng: Anh ba gác này mà thượng lên trên chiến lũy thì thật là hay!

Anh chàng phu xe vẫn ngáy khò khò. Gavroche se sẽ đẩy lùi cái xe, đồng thời nắm chân anh chàng kéo ngược lại. Chỉ một phút là xong đâu đấy. Anh chàng phu xe đã nằm dài trên mặt đường ngủ li bì, còn chiếc xe thì đã rời ra. Vốn phải luôn đối phó với mọi hoàn cảnh bất ngờ nên cái gì Gavroche cũng có sẵn trong người. Chú lục túi lấy ra một mảnh giấy và một mẩu bút chì đỏ cuỗm được của một anh chàng thợ mộc nào đó. Chú viết mấy chữ:

“Chính phủ Cộng hòa Pháp

Biên nhận chiếc xe ba gác của anh”.

Rồi ký tên: “Gavroche”.

Viết xong, chú nhét mảnh giấy vào trong túi chiếc gi-lê nhung của anh phu xe đang ngáy như sấm. Sau đó, chú nâng càng xe đi về phía chợ, vừa đi vừa đẩy chiếc xe ầm ầm. Chú lấy làm khoái chí lăm. Trò ấy nguy hiểm. Ở Nhà in Hoàng gia có một bốt canh mà Gavroche quên không để ý tới. Suốt một giờ qua, Gavroche đã làm ồn ào giữa khu phố yên tĩnh này như một con nhặng rơi vào chai vo ve không ngớt. Viên đội cảnh binh ngoại ô đã lắng tai nghe ngóng. Vốn là một người thận trọng, y chờ xem. Tiếng ầm ầm của chiếc xe ba gác đã làm cho y không còn đợi chờ được nữa.

Y quyết định đi quan sát tình hình. “Chúng nó chắc là có cả lũ, phải hết sức cẩn thận mới được”. Y nghĩ thầm như vậy. Y đánh liều ra khỏi bốt canh, bước đi từng bước rón rén, lẩm bẩm:

- Rõ ràng là quân phiến loạn như con bạch tuộc đã thoát ra khỏi vòng vây và đang trăm tay trăm chân làm náo loạn cả khu phố.

Gavroche đang đẩy chiếc xe, sắp rẽ từ phố Haudriettes sang thì đột nhiên chạm trán với một bộ quân phục, một mũ sắt có giắt lông, một cây súng. Chú dừng lại.

- À, lại nó rồi. - Gavroche nói - Chào ông trật tự công cộng!

Sự ngạc nhiên của Gavroche ngắn ngủi và tan nhanh. Người cảnh binh thét lớn:

- Thằng ranh kia đi đâu?

Gavroche đáp:

- Ông công dân kia, tôi chưa gọi ông là tư sản, sao ông lại chửi tôi thế!

- Thằng nhãi! Mày đi đâu?

- Thưa ông, hôm qua chắc ông còn là một người thông minh, nhưng sáng nay thì ông đã bị hạ bệ rồi.

- Đồ chó chết! Tao hỏi mày đi đâu?

- Ông ăn nói nhã nhặn đấy. Người ta thật không dám nói ông là người có tuổi đâu nhé. Ông nên đem bán tóc của ông đi, mỗi sợi một trăm franc, chắc được năm trăm franc đấy.

- Đồ ăn cướp, mày đi đâu? Đi đâu? Đi đâu?

Gavroche tiếp:

- Ăn nói gì thô bỉ thế! Mẹ ông từ nay có cho ông bú thì nhờ bà ấy lau mồm cho ông kỹ hơn nhé!

Viên đội cảnh binh chĩa mũi súng vào người Gavroche.

- Đồ khốn nạn, mày có nói là mày đi đâu không thì bảo?

- Bẩm đại tướng, con đi mời thầy thuốc cho vợ con nó đang trở dạ.

Viên đội kêu to:

- Có địch!

Dùng cái đã làm nguy mình để cứu cho mình, kẻ tài tình mới có được nghệ thuật ấy. Nháy mắt Gavroche đã bao quát được tình thế: cái xe ba gác đã làm hại mình thì chính nó phải che chở cho mình được.

Vừa lúc viên đội cảnh binh sắp xông đến thì Gavroche dang thẳng cánh tay văng mạnh chiếc xe vào bụng y như một quả đạn, làm y nhào ngửa trên đường và phát đạn nổ đoàng trên không. Nghe tiếng viên đội kêu, lính trong bốt canh đều ùa ra ngoài. Thấy có tiếng súng nổ, họ cũng nổ bừa theo một loạt, rồi lắp đạn bắn tiếp. Những loạt súng bắn bừa kiểu “bịt mắt bắt dê” ấy kéo dài đến những mười lăm phút và hạ sát đến mấy miếng cửa kính.

Trong lúc ấy, Gavroche đã bán sống bán chết tháo lui. Cách năm, sáu phố, Gavroche mới dám ngồi xuống một trụ đá ở góc đường, thở hổn hển. Chú lắng tai nghe ngóng. Ngồi thở được một chốc, chú quay mình về phía có tiếng súng nổ giòn, nâng bàn tay trái lên mũi rồi đưa tay ra phía trước ba lần, vừa đưa vừa lấy tay phải vỗ vỗ phía đằng sau gáy. Cái cử chỉ ngạo nghễ ấy của bọn trẻ ranh Paris là kết tinh của tinh thần châm biếm của người Pháp. Cố nhiên là nó rất hiệu nghiệm, chả thế mà nó đã kéo dài hàng nửa thế kỷ nay.

Phút tươi vui ấy lại bị một ý nghĩ chua chát làm vẩn đục ngay. Gavroche càu nhàu:

- Ừ, cười cho lắm, cười lăn, cười bò ra đến nỗi lại lạc đường, giờ thì phải đi quanh rồi. Thôi! Miễn sao về chiến lũy cho kịp là được!

Nói đoạn chú lại cắm đầu chạy. Vừa chạy vừa tự hỏi:

- Ta hát đến đâu rồi nhỉ? A, nhớ ra rồi.

Chú lại cất tiếng hát bài hát ban nãy:

“Đời còn lắm ngục Bastille

Nền chuyên chế ấy ta thì phá ra

Bất bình há dễ bỏ qua?

Đi đâu hỡi các tố nga?

Dô ta!

Có ai chơi ta thì chơi

Cho lăn cho lóc cho rời vỡ ra

Vỡ rồi xã hội thối tha!

Đi đâu hỡi các tố nga?

Dô ta!

Dân ta ơi! Cầm gậy lên

Kéo nhau ta đập tan quyền nhà vua

Diệt nền quân chủ xa hoa

Đi đâu hỡi các tố nga?

Dô ta!

Đạp xong ta sẽ xông vào

Charles X chẳng dám đương đầu với ta!

Kinh hoàng vua đã trốn ra...

Đi đâu hỡi các tố nga?

Dô ta! Hò dô ta!”

Bóng chú chìm nhanh vào trong các ngõ phố và tiếng hát cũng xa dần, nhỏ dần trong đêm.

Cuộc nổ súng ở bốt canh không phải là không có kết quả. Người ta chiếm lĩnh chiếc xe ba gác và bắt được anh phu xe say rượu làm tù binh. Chiếc xe thì đem tông vào nhà chứa đồ tịch thu, còn anh chàng say rượu thì về sau đó có bị truy tố chút ít trước tòa án binh như kẻ tòng phạm.

Câu chuyện Gavroche đến nay vẫn còn là truyền thuyết ở khu phố Temple và là một kỷ niệm rùng rợn nhất đối với các bà thị dân già phố Marais. Trong ký ức họ, câu chuyện ấy được mệnh danh là “Cuộc tấn công ban đêm vào bốt gác Nhà in Hoàng gia”.

Chú thích:

[1] Năm 1793 là năm dân chúng Paris sôi sục nhất trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền dẫn đến chế độ Cộng hòa Pháp lần thứ I.

[2] Lạc đà là mồi của sư tử. Ý Gavroche muốn nói bọn quý tộc giàu sang thường dụ dỗ, gạ gẫm những cô gái nghèo, sau đó thì hại họ.