Cuộc sống bất diệt
Khi đạn to đã làm cho các chiến sĩ không ở được trên đỉnh chiến lũy và khi đạn ghém khiến họ phải rời các cửa sổ của quán rượu thì các toán quân tấn công có thể xông vào giữa đường phố mà không sợ ai nhắm bắn và có thể là không sợ ai trông thấy nữa. Có thể quân tấn công bất thình lình leo lên chiến lũy như hồi đầu hôm và biết đâu chúng sẽ bất ngờ chiếm lấy chiến lũy.
Enjolras suy tính: “Nhất định phải làm cho hai khẩu đại bác bớt làm phiền ta mới được”.
Anh thét:
- Bắn vào bọn pháo binh!
Ai nấy đều đã sẵn sàng. Từ lâu phải im lặng, cả chiến lũy bỗng nổ súng như điên cuồng, bảy, tám loạt nối liền nhau như căm hờn, như reo vui. Vài phút sau, qua làn mây mù rạch ánh lửa đạn lập lòe, người ta thấy lờ mờ đến hai phần ba số pháo thủ ngã gục bên bánh xe của các khẩu pháo. Bọn còn sót lại cứ bình tĩnh, nghiêm nghị, tiếp tục bắn nhưng bắn chậm đi nhiều. Bossuet bảo Enjolras:
- Thế là tốt. Thắng lợi.
Enjolras lắc đầu, đáp:
- Cứ thắng lợi kiểu ấy thì chỉ mười lăm phút nữa, cả chiến lũy sẽ không còn lấy mười viên đạn.
Câu nói ấy hình như đã lọt vào tai Gavroche.
Chợt Courfeyrac trông thấy có ai ở phía ngoài dưới chiến lũy, trên đường phố, trong luồng đạn của quân địch. Đó là Gavroche. Gavroche đã xách một chiếc giỏ dùng để đựng chai trong quán rượu, rồi luồn qua khe hở mà ra ngoài. Bây giờ thì chú điềm nhiên lật bị của bọn quốc dân quân đã chết trên bờ lũy mà trút đạn vào giỏ. Courfeyrac kêu hỏi:
- Em làm gì đấy?
Gavroche ngẩng đầu lên, đáp:
- Tôi hốt cho đầy giỏ đồng chí ạ.
- Em không thấy đạn vãi ra đó ư?
- Ừ thì như mưa đấy. Thế thì sao?
Courfeyrac thét:
- Đi vào!
- Lát nữa đã!
Gavroche chỉ đáp gọn lỏn có thế rồi đi sâu vào đường phố. Khoảng hai mươi xác người nằm rải rác suốt chiều dài đường phố cũng đủ cho Gavroche tha hồ mà lấy đạn tiếp tế cho nghĩa quân. Khói súng luẩn quẩn trong thành phố như một đám sương mù. Bị dồn lại giữa hai dãy nhà cao tầng, khói càng dày đặc giống như đám mây lọt vào thung lũng, giữa hai sườn núi dựng đứng. Nó bốc lên chầm chậm, bốc lên chừng nào thì dưới chân đã có khói mới tỏa ra thay chừng ấy, do đó không gian càng lúc càng mờ mịt. Mặc dầu giữa ban ngày mà trời vẫn cứ tối sầm. Con đường rất ngắn nhưng qua đám mây mù ấy, chiến sĩ ở đầu phố, cuối phố khó mà trông thấy nhau.
Có lẽ những người chỉ huy cuộc tấn công chiến lũy đã muốn tạo ra một đám khói mù như thế. Dẫu sao nó cũng rất có lợi cho Gavroche. Vóc người đã nhỏ bé, lại lẫn vào trong làn khói, nhờ vậy Gavroche tiến sâu vào đường phố mà không bị lộ hình. Chú dốc bảy, tám cái bị đầu một cách yên ổn. Chú nằm bẹp xuống đất mà lết, chú chống hai tay, hai chân phi nước đại, chú ngậm vành giỏ vào mồm để lướt tới. Chú lê, chú lết, chú trườn, chú xoay mình, chú uốn khúc như một con rắn. Chú bò từ xác này sang xác khác. Chú mở rộng cái bị hay cái nịt đạn như con khỉ bóc quả hạnh đào. Chú đi cũng không xa chiến lũy là mấy nhưng chẳng ai dám mở miệng gọi chú trở lại, vì sợ làm cho quân thù để ý sẽ phát hiện thấy chú. Chú tìm thấy một bị thuốc súng hình quả lê trên thây một hạ sĩ.
- Cái này để dành cho lúc khác.
Chú vừa nói thế vừa tước bị thuốc bỏ túi. Vì tiến lên quá xa, chú đã đến cái quãng mà khói súng bắt đầu thưa và phố đã bắt đầu sáng. Lúc bấy giờ bọn lính chính quy xếp hàng sau chồng đá và bọn pháo thủ ngoại ô dồn trong góc phố đột nhiên chỉ trỏ cho nhau xem một vật gì động đậy trong làn khói. Khi Gavroche dốc bị của một tên trung sĩ nằm trên trụ đá thì một viên đạn bắn trúng xác tên đó. Gavroche nói:
- Ái chà, chúng giết cả những xác chết!
Một viên đạn thứ hai làm cho tảng đá bên cạnh chú tóe lửa. Lại viên nữa lật chiếc giỏ. Gavroche nhìn lên và thấy đạn đi từ phía quân ngoại ô. Chú đứng thẳng người lên, tóc bay trước gió, hai tay chống nạnh, mắt đăm đăm nhìn bọn quốc dân quân đang bắn và chú hát:
“Bởi cụ Voltaire
Nên bọn Nanterre
Mặt mày xấu xí
Sự quá vô lý
Là tụi Palaiseau
Chúng ngu như bò
Vì bác Jean Jacques”.
Rồi Gavroche xách giỏ lên, nhặt những viên đạn rơi ra ngoài bỏ vào giỏ, không sót viên nào và chú tiến về phía súng bắn để moi lấy đạn ở bị khác.
Lúc này, một viên đạn thứ tư bay đến, nhưng vẫn không trúng chú. Chú lại hát:
“Ta làm chim non
Không làm thừa lại
Lỗi này bởi tại
Ông cụ Voltaire
Ta làm chim non
Ta ca véo von
Vì bác Jean Jacques”.
Viên đạn thứ năm chỉ đem lại kết quả là làm cho Gavroche hát một khúc hát thứ ba nữa:
“Tính ta vui vẻ
Sự ấy có lẽ
Bởi cụ Voltaire
Áo ta rách xơ
Quần ta rách xác
Sự này tại bác
Jean Jacques Rousseau”.
Tình thế ấy cứ tiếp diễn.
Cảnh tượng trên trông thật là ghê rợn mà cũng thật là hấp dẫn. Gavroche làm bia cho súng đạn mà lại đùa với súng đạn. Chú có vẻ thích thú lắm. Chú như một con chim sẻ quẹt mỏ mổ người đi săn. Cứ nghe một tiếng súng chú trả lời bằng một khúc hát. Họ luôn luôn ngắm chú mà bắn, song họ luôn luôn bắn trượt. Quốc dân quân và quân chính quy vừa cười vừa nhắm bắn chú. Chú nằm xuống, chú đứng lên, chú lẩn sau hốc cửa rồi thình lình nhảy ra. Chú ẩn, chú hiện, chú chạy đi rồi quay trở lại. Chú xỉa tay lên mũi nhạo những tên bắn chú và trong lúc ấy chú cũng không ngừng lục bị lấy đạn bỏ đầy giỏ. Nghĩa quân hồi hộp trông theo chú. Cả chiến lũy lo sợ, mà chú thì nhởn nhơ ca hát.
Chú không phải là trẻ con. Chú không phải là người lớn. Chú là một trẻ ranh thần tiên. Trông chú, người ta nghĩ đến thằng lùn không thể xâm phạm trong cuộc ẩu chiến. Đạn chạy theo chú nhưng chú nhanh hơn đạn. Chú đang chơi một trò ú tim khủng khiếp với thần Chết. Mỗi khi vị thần tẹt mũi ấy đến gần thì chú bé lại búng hắn một cái.
Nhưng cuối cùng, một phát đạn ngắm đúng hơn hoặc giảo hoạt hơn đã bắn trúng chú bé ma trơi. Chú lảo đảo rồi ngã quỵ xuống. Toàn thể chiến lũy hét lên một tiếng. Nhưng chú lùn ấy lại có đặc tính của Antée [1] chạm mặt đất. Chú ngã xuống chỉ để lại chồm lên. Chú ngồi thẳng người, một dòng máu đỏ chảy dọc mặt chú. Chú đưa hai tay lên trời, nhìn về phía bọn bắn súng và cất tiếng hát:
“Ta ngã trên hè
Bởi cụ Voltaire
Mũi ta chảy nước
Vì bác...”
Chú hát không hết câu. Một viên đạn thứ hai cũng của tên lính ấy đã làm chú ngưng bặt. Lần này chú ngã sấp mặt xuống đường, không động đậy nữa.
Linh hồn bé bỏng vĩ đại ấy đã bay lên trời...
Marius đã nhảy ra ngoài chiến lũy. Combeferre cũng phóng theo. Nhưng quá chậm. Gavroche đã chết rồi. Marius mang chú bé về, còn Combeferre thì mang giỏ đạn.
Marius ngẫm nghĩ: Thénardier mang cha ta về giữa vòng tên đạn thì giờ đây ta cũng mang con Thénardier giữa vòng tên đạn. Nhưng hỡi ôi! Thénardier cứu sống cha ta, còn ta, ta chỉ mang về cái xác chết của chú bé.
Khi Marius ẵm được Gavroche vào trong chiến lũy thì mặt cũng đầm đìa máu không khác gì Gavroche. Đó là vì lúc anh cúi xuống bê chú bé thì một viên đạn đã sượt trên đầu anh mà anh không biết. Courfeyrac tháo cà vạt băng trán cho Marius. Nghĩa quân mang Gavroche đặt nằm bên cạnh cụ Mabeuf, rồi phủ cái khăn choàng đen lên hai người. Cái khăn đủ rộng để trùm ông già và chú bé.
Combeferre lấy đạn trong giỏ phân phối cho mọi người. Mỗi chiến sĩ nhận được mười lăm viên.
Jean Valjean vẫn ngồi lì một chỗ im lặng trên trụ đá. Khi Combeferre đưa đạn cho ông, ông lắc đầu. Combeferre bảo khẽ Enjolras:
- Người này là một anh gàn hiếm có. Ở trong một chiến lũy như thế này mà hắn lại còn có cách không chiến đấu.
- Không chiến đấu mà vẫn bảo vệ chiến lũy. - Enjolras đáp.
- Thế mới biết trong đám anh hùng cũng có những tay quái kiệt.
Courfeyrac nghe lọt câu chuyện, bàn góp vào:
- Nhưng hắn ta không thuộc loại ông cụ Mabeuf đâu.
Mặc dù đạn vẫn rào rào trên chiến lũy nhưng những người bên trong vẫn không xao xuyến. Những ai chưa từng bị cuốn vào loại chiến tranh đặc biệt này không thể quan niệm làm sao lại có những phút yên tĩnh lạ lùng xen lẫn những phút chiến đấu ác liệt như thế. Chiến sĩ đi lại, chuyện vãn, pha trò. Giữa cơn mưa đạn, họ nói với nhau: “Chúng tôi ở đây cũng như dự một bữa tiệc của những người độc thân”.
Chiến lũy phố Chanvrerie bên trong nom yên tĩnh lắm. Tình hình từ khó khăn chuyển sang hiểm nghèo và từ hiểm nghèo chắc sẽ chuyển thành tuyệt vọng. Tình huống càng đen tối, ngọn lửa dũng cảm càng sáng rực lên.
Hình ảnh Enjolras nổi bật lên trên hết, oai nghiêm như một chàng thanh niên xứ Sparte [2] đương dâng lưỡi gươm trần của mình cho thần Chiến Tranh. Combeferre mang tạp dề băng bó cho các chiến sĩ bị thương. Bossuet và Feuilly dùng thuốc súng trong bị thuốc Gavroche đã lục lấy trên xác tên hạ sĩ để làm đạn. Bossuet bảo Feuilly:
- Tí nữa chúng ta sẽ đáp chuyến xe tốc hành đi hành tinh khác.
Courfeyrac đã chọn cho mình mấy tảng đá bên cạnh Enjolras. Khéo tay như một thiếu nữ, anh xếp đặt lên trên đó cả kho vũ khí. Đó là cái gậy kiếm, khẩu súng trường, hai khẩu súng lục kỵ binh và một quả đấm. Jean Valjean yên lặng ngắm bức tường sừng sững trước mặt. Một anh thợ lấy chiếc mũ rơm của bà Hucheloup đội lên đầu rồi buộc dây thật chặt anh bảo để đề phòng say nắng. Mấy chàng thanh niên trong hội kín Aix hàn huyên với nhau rất vui vẻ, chừng như muốn tranh thủ thời gian nói thứ thổ âm quê hương một lần cuối. Joly thè lưỡi lấy gương của bà Hucheloup săm soi. Mấy chiến sĩ khác tìm được vài mẩu bánh mốc trong ngăn kéo, chia nhau ăn ngốn ngấu. Marius thì lo ngại không biết rồi đây gặp cha, cha sẽ trách mắng thế nào [3].
Trong lúc ấy, ở vườn Luxembourg, có hai đứa trẻ nắm tay nhau. Một đứa chừng lên bảy, một đứa chừng lên năm. Vì mưa ướt đầm nên chúng đi phía bên đường có nắng. Cả hai đứa quần áo rách rưới, mặt mày xanh xao. Nom chúng như những con chim rừng. Thằng em bảo:
- Em đói quá!
Thằng lớn tay trái dắt em, tay phải cầm một que củi. Nó đã có ý thức che chở cho em. Trong vườn vắng lặng. Ngoài hai đứa trẻ ra thì chẳng có ai khác. Hai đứa trẻ đó chính là con của Thénardier, và cũng chính là hai đứa trẻ đã được Gavroche cưu mang. Thằng em chốc chốc lại kêu: “Em đói quá!” Còn thằng anh thì cứ yên lặng vì nó biết dẫu có kêu van cũng chẳng ích gì.
Cảnh vắng lặng là hình ảnh của thiên nhiên tràn ngập hạnh phúc. Có tiếng chim gù, ong vo ve, có gió hồi hộp dưới tán lá. Mùa xuân thật êm ái, hoa đủ màu sắc đua nhau nở rộ, bướm vàng, bướm trắng đùa giỡn nhau trên những bông hoa.
Đây là giờ ăn sáng của muôn vật, tất cả đều ngồi vào bàn. Trên trời trải thảm xanh, dưới đất phủ khăn lụa, mặt trời chiếu rực rỡ. Mỗi sinh vật đều có thức ăn, bồ câu thì hạt gai, họa mi thì hạt kê, sâu bọ cho chào mào...
Hai đứa bé lạc loài đã đến bên hồ lớn. Ánh sáng nhiều quá làm cho chúng lúng túng tìm cách trốn nấp. Bản năng của kẻ nghèo, kẻ yếu hễ thấy cảnh giàu sang phong phú thì sợ, mặc dù cảnh giàu sang phú quý ở đây chẳng của riêng ai.
Từ lúc ngọn gió tạt qua, văng vẳng nghe như có tiếng kêu la, tiếng ồn ào, tiếng rên hừ hừ và tiếng nện thình thịch. Đó là tiếng súng trường, súng đại bác ở xa. Về phía khu chợ, có khói mù bay lên khỏi mái nhà. Xa xa có tiếng chuông rung như kêu, như gọi. Hai đứa bé hình như không nghe thấy những thứ tiếng ấy. Thằng nhỏ thỉnh thoảng lại kêu khe khẽ: “Em đói quá!”
Lúc đó, có một cặp nữa cũng đến bên hồ nước. Người cha khoảng năm mươi tuổi dắt tay đứa con. Đứa bé chừng lên sáu, trong tay cầm chắc chiếc bánh bông lan lớn. Hai đứa trẻ nghèo khổ nhìn hai cha con người kia đang đi tới. Chúng sợ hãi và nấp kín hơn. Đứa trẻ cầm chiếc bánh cắn dở chứ không ăn nữa, nó có vẻ như đã được nhồi nhét đầy ruột. Vì có biến động nên đứa bé mặc một bộ trang phục quốc dân quân, người cha thì bận bộ quần áo tư sản để tránh nguy hiểm. Hai cha con dừng lại bên hồ nước ngắm nhìn thiên nga bơi lội. Người cha có vẻ khâm phục thiên nga ghê lắm. Ông ta cũng giống thiên nga, giống dáng đi lặc lè của chúng. Nhưng lúc này thiên nga đang bơi lội cho nên trông chúng đẹp lạ lùng. Người cha bảo con:
- Kẻ hiền triết sống thanh đạm mà lấy làm vui. Con ơi, con hãy xem cha. Cha rất ghét xa hoa, không bao giờ cha mặc quần áo thêu vàng nạm ngọc. Cái vỏ lòe loẹt chỉ để cho bọn thiếu trí tuệ.
Đến đây, tiếng huyên náo từ khu chợ bay đến chen với tiếng chuông bây giờ lại càng rõ, càng rung lên liên hồi. Đứa bé hỏi:
- Cái gì thế cha?
- Ngày hội hỗn loạn đấy con ạ!
Bỗng ông ta trông thấy hai đứa bé rách rưới đứng yên sau chuồng thiên nga sơn xanh đang nhìn chiếc bánh trên tay thằng con ông một cách thèm thuồng, ông bực tức nói:
- Kia là cảnh mở màn.
Dừng một lát, ông lại nói tiếp:
- Cái khu vườn đẹp đẽ, yên tĩnh này cũng bị loạn lạc xâm nhập rồi đấy!
Lúc bây giờ, đứa bé cắn một miếng bánh rồi nhổ ra và thình lình khóc lên. Người cha hỏi:
- Sao con lại khóc?
- Con không đói nữa.
Cái miệng cười của người cha càng bành ra.
- Ồ! Ăn bánh ngọt thì cần gì phải đợi đói?
- Con chán cái bánh này lắm rồi.
- Con không thích nữa à?
- Dạ!
Người cha chỉ mấy con thiên nga đang bơi lội phía xa.
- Thế thì ném cho mấy con ngỗng kia đi.
Đứa bé do dự. Người ta không thích bánh nữa, đành thế, nhưng đó không phải là lý do để ném đi. Người cha bèn giải thích:
- Phải có lòng nhân đạo con ạ. Phải biết thương yêu loài vật.
Ông ta nói thế rồi giằng lấy cái bánh, ném xuống hồ nước. Hai đứa bé đói khát nhìn theo mà tiếc đứt ruột. Chiếc bánh kia rơi không xa bờ lắm, mà hai con thiên nga thì đang bơi ở xa. Chúng đang mải mê một miếng mồi gì đó ở tận giữa hồ. Chúng không trông thấy miếng bánh. Ông tư sản ngại miếng bánh sẽ rơi vào tay hai đứa bé đói rách đang thèm khát nhìn theo và cũng sợ miếng bánh chìm đi một cách vô ích nên ông ta khoa tay múa chân ra hiệu khiến cho hai con thiên nga cuối cùng cũng phải chú ý. Nhìn thấy một vật gì lênh bềnh, chúng quay đầu và từ từ tiến về phía chiếc bánh. Bộ cánh trắng muốt lướt nhẹ nhàng, êm ái trên mặt hồ trong xanh làm tăng thêm vẻ đẹp của khu vườn.
Ngay lúc ấy, tiếng động từ đằng xa đột nhiên dồn đến mạnh hơn trước, lần này thật ghê rợn. Luồng gió lúc này đưa đến rõ rệt tiếng trống trận, tiếng gào thét, tiếng súng từng tràng, tiếng đối đáp rùng rợn giữa đại bác và chuông báo động của nhà thờ. Cũng vừa lúc ấy, một mảnh mây đen kéo đến che khuất mặt trời. Hai con thiên nga vẫn chưa bơi đến miếng bánh, nhưng nhà tư sản bảo:
- Về thôi con! Đánh nhau to rồi. Có thể chúng đánh đến cung Tuileries rồi đấy. Mà từ cung Tuileries đến vườn hoa này cũng không xa. Đạn rồi sẽ vèo vèo như mưa cho mà xem!
Ông ta cầm tay con rồi ngẩng nhìn trời, nói tiếp:
- Và có lẽ mưa thật cũng sẽ trút xuống.
Thằng con nói:
- Con muốn xem thiên nga ăn bánh.
Người cha đáp:
- Ở lại nguy hiểm lắm!
Thế rồi ông ta kéo chú tư sản con đi.
Thằng bé tiếc mấy con thiên nga, cứ ngoái cổ lại xem cho đến khi gặp khúc quanh khiến nó không trông thấy gì nữa.
Trong lúc ấy, cùng một lượt với hai con thiên nga, hai đứa bé lang thang mon men đến gần chỗ chiếc bánh bập bềnh trên mặt nước. Thằng bé nhìn chiếc bánh, thằng lớn trông chừng cho nhà tư sản đi xa. Hai cha con đi vào đường bàn cờ dẫn đến cái tam cấp lớn chỗ lùm cây, phía phố Bà Chúa.
Khi hai cái bóng kia vừa khuất, thằng lớn nằm rạp xuống, dán bụng xuống bờ hồ. Nó bíu tay trái vào bờ và thả người xuống, suýt nữa rơi xuống hồ nước. Tay phải nó cầm que củi, khều chiếc bánh về phía mình. Hai con thiên nga thấy có kẻ địch vội vàng bơi nhanh đến. Vì bơi nhanh, ức chúng lùa nước tới, rất có lợi cho chú bé. Những làn sóng đồng tâm nhẹ nhàng đẩy chiếc bánh đến que củi. Lúc thiên nga đến thì chiếc bánh cũng vừa gặp cái que. Thằng bé quờ mạnh que, kéo chiếc bánh lại vừa tầm, xua đuổi thiên nga đi, vớt bánh rồi đứng lên. Bánh ướt đẫm, nhưng chúng vừa đói vừa khát, cho nên cả hai đứa đều tứa nước miếng. Thằng anh bẻ vội miếng bánh ra làm hai, phần lớn nó đưa cho em, còn phần nhỏ nó giữ cho mình rồi bảo:
- Tọng vào họng súng đi!
Hai đứa bé nhai nhồm nhoàm một cách ngon lành miếng bánh đẫm nước đó, vừa nhai vừa nhìn ngó xung quanh. Rồi chúng vội vàng kéo nhau nép kín bên chuồng thiên nga vì sợ bị xua đuổi, bắt bớ.
Chú thích:
[1] Theo thần thoại Hy Lạp. Antée là một vị thần khổng lồ con của thần Đất. Mỗi khi bị ngã xuống thì được mẹ tiếp thêm sức mạnh, lại vùng lên mạnh mẽ hơn.
[2] Một thành phố nhỏ trên đất Hy Lạp thời xưa. Nhân dân ở đó có tinh thần ái quốc và thượng võ rất cao.
[3] Thénardier - cha của Gavroche vốn là kẻ cướp. Trên chiến trường Waterloo, hắn đã lục lọi các xác chết để lấy đồ. Hắn đã lôi cha của Marius ra khỏi đống tử thi để tước đồ của ông. Tưởng Thénardier đã cứu mình, trước khi chết, ông đã dặn con phải tìm cách trả ơn.
HẾT