LỜI TỰA CHO ẤN BẢN LẦN THỨ HAI (1965)
Câu chuyện này càng kể càng lớn thêm, cho đến khi trở thành bộ sử về cả cuộc Đại Nhẫn Chiến, lại điểm xuyết nhiều chi tiết thuộc về lịch sử cổ đại hơn vốn có từ trước. Tôi bắt tay vào câu chuyện ngay sau khi hoàn tất Anh chàng Hobbit và trước khi cuốn đó được xuất bản năm 1937; song tôi không tiếp tục viết tiếp cuốn tiếp theo này, bởi muốn trước hết hãy hoàn thiện rồi sắp đặt trật tự những huyền thoại và truyền thuyết về Thời Cựu Niên, vốn bấy giờ đã dần lên hình thành vóc được vài năm. Tôi muốn làm việc đó chỉ nhằm thỏa mãn ý thích cá nhân, chứ không mấy hy vọng người khác sẽ quan tâm đến công trình ấy, nhất là khi nó bắt nguồn từ cảm hứng hết sức ngôn ngữ học và được thực hiện nhằm mục đích cung cấp bối cảnh “lịch sử” cần thiết cho ngữ hệ Tiên.
Khi những người được tôi hỏi chỉnh không mấy hi vọng thành không hi vọng, tôi liền quay trở lại với cuốn tiếp theo, do được khích lệ bởi lời đề nghị của độc giả muốn biết thêm về người Hobbit và chuyện phiêu lưu của họ. Song câu chuyện, một cách không cưỡng nổi, cứ ngả về thế giới xưa cũ hơn, để rồi trên thực tế trở thành câu chuyện về sự kết thúc và qua đi của thế giới ấy trước khi kể tới thuở ban đầu ngay trong khi viết Anh chàng Hobbit, trong đó đã nhắc đến nhiều đối tượng cổ xưa hơn: Elrond, Gondolin, người Thượng Tiên, bọn Orc, cũng như những tiết lộ sơ qua, dù không chủ ý, về các thứ cao sâu hơn hoặc tăm tối hơn nhiều so với thoạt nhìn: Durin, Moria, Gandalf, tên Hắc Thuật Sĩ, chiếc Nhẫn. Chính cuộc khám phá ý nghĩa sâu xa của những đề tài này cùng mối liên quan của chúng đến các giai đoạn lịch sử cổ đại đã tiết lộ nhiều điều về Kỷ Đệ Tam mà đỉnh cao là cuộc Nhẫn Chiến.
Những người hỏi thêm thông tin về người Hobbit cuối cùng cũng nhận được thông tin, song họ đã phải đợi một thời gian dài; bởi việc soạn bộ Chúa tể những chiếc Nhẫn diễn ra đứt quãng suốt những năm 1936 đến 1949, giai đoạn tôi có nhiều bổn phận không thể lơ là, cũng như nhiều mối quan tâm khác trong vai trò người học lẫn người dạy học khiến tôi phải miệt mài nghiên cứu. Dĩ nhiên sự trì hoãn còn bị kéo dài thêm khi chiến tranh bùng phát vào năm 1939, cho đến cuối năm ấy câu chuyện vẫn chưa đi đến cuối Quyển Một. Bất chấp tình hình tối tăm của năm tiếp đó, tôi nhận thấy tới giờ không thể hoàn toàn bỏ bẵng câu chuyện cho được, thế nên tôi tiếp tục làm việc, phần lớn vào ban đêm, cho đến khi tôi đứng bên mộ Balin ở Moria. Đến đó thì tôi dừng nghỉ một quãng dài. Có dễ gần một năm sau tôi mới tiếp tục và cuối năm 1941 thì tới được Lothlórien và dòng Sông Cả. Trong năm sau đó tôi viết những bản nháp đầu tiên của Quyển Ba bây giờ, cùng khúc mở đầu các chương I và III của Quyển Năm; và khi lửa báo động cháy sáng tại Anórien và vua Théoden đến thung Khe Miếu, tôi dừng lại. Tiên liệu đã can, mà lại không còn thời gian nghĩ ngợi.
Chính trong năm 1944, bỏ lại những đầu mối chưa gút và những rắc rối phức tạp của cuộc chiến mà tôi có nhiệm vụ điều hành, hay ít nhất là báo cáo, tôi ép mình giải quyết hành trình của Frodo tới đất Mordor. Những chương này, cuối cùng trở thành Quyển Bốn, được viết và gửi theo từng kỳ cho con trai tôi, Christopher, khi ấy đang đóng quân ở Nam Phi cùng RAF (Không lực Hoàng gia Anh). Tuy nhiên phải mất năm năm nữa câu chuyện mới được đưa đến kết thúc như hiện tại; lúc ấy tôi đã thay nhà, thay ngành dạy, thay cả trường dạy, và ngày tháng dù đã bớt tối tăm vẫn không bớt nhọc nhằn là mấy. Rồi khi phần “kết” cuối cùng đã xong thì lại cần phải chỉnh sửa toàn bộ câu chuyện, và quả tình phần lớn đã được viết lại ngược từ cuối lên. Và bản thảo cần được đánh máy, rồi đánh máy lại, tự tay tôi; vì chi phí đánh máy chuyên nghiệp mười ngón vượt quá khả năng tôi chi trả.
Rất nhiều người đã đọc Chúa tể những chiếc Nhẫn kể từ khi nó cuối cùng cũng ra lò thành sách; và tôi muốn nói vài điều ở đây về nhiều quan điểm cũng như phỏng đoán tôi đã nhận được hoặc đọc được, lý giải động cơ lẫn ý nghĩa của câu chuyện này. Động cơ nguyên thủy chính là khát vọng của một người kể chuyện, muốn bắt tay vào thử kể một câu chuyện thật dài mà vẫn có thể thu hút sự quan tâm nơi người đọc, tiêu khiển cho người đọc, khiến họ vui sướng, và thảng hoặc có thể kích động họ hoặc khiến họ xúc động tận tâm can. Trong vai trò người hướng dẫn, tôi chỉ có duy nhất cảm nhận của chính mình về nỗi cái gì thì hấp dẫn, cái gì thì thì xúc động, và với nhiều người sự hướng dẫn này thường không tránh khỏi sai lầm. Vài người đã đọc cuốn sách, hoặc ít nhất cũng đã viết bài điểm sách, thấy nó chán phèo ngớ ngẩn, đáng khinh; và tôi thì không việc gì phải phàn nàn, bởi tôi cũng giữ quan điểm tương tự về tác phẩm của họ, hoặc giả về những kiểu viết lách mà rõ ràng họ ưa hơn. Song kể cả từ quan điểm của những người đã sung sướng thưởng thức câu chuyện của tôi thì ở cuốn sách vẫn còn nhiều điều khiến họ chưa hài lòng. Có lẽ một chuyện kể dài không thể làm hài lòng mọi người hết thảy ở các điểm, cũng không thể gây thất vọng cho mọi người ở cùng những điểm ấy, bởi tôi nhận ra, từ những bức thư bấy nay nhận được, rằng những đoạn hoặc chương với vài người này là dở thì lại được mọi người khác đặc biệt tán thưởng. Độc giả hay chỉ trích nhất trong số các độc giả, tức chính tôi, giờ đã tìm thấy nhiều sai sót, cả lớn lẫn nhỏ, song may thay lại không bị bắt buộc phải viết bài điểm sách hay viết lại cả quyển sách, vậy nên ông ta sẽ im lặng mà lờ mọi điểm này đi, ngoại trừ một điểm mà những người khác đã lưu ý: cuốn sách quá ngắn.
Còn về bất kể ý nghĩa nội tại hay “thông điệp” nào, thì trong ý đồ của tác giả không có gì hết. Nó không ngụ ngôn phúng dụ cũng không thời sự đáng quan tâm. Càng tiến triển, câu chuyện càng cắm rễ (vào quá khứ), đồng thời trổ ra nhiều cành nhánh không lường trước được: song chủ đề chính đã được xác định từ ban đầu qua một lựa chọn không thể nào tránh khỏi: lấy chiếc Nhẫn để liên hệ nó với Anh chàng Hobbit. Chương chủ chốt, “Bóng ma từ quá khứ”, là một trong những phần cũ kỹ nhất cả câu chuyện. Chương này được viết rất lâu trước khi điềm báo năm 1939 trở thành mối đe dọa về một thảm họa không sao tránh được, và từ thời điểm ấy trở đi câu chuyện hẳn vẫn phát triển về cơ bản theo những tuyến cốt truyện đó, kể cả nếu thảm họa kia được ngăn chặn kịp thời. Nguồn tham khảo là những thứ đã ở trong đầu óc tôi từ rất lâu, trong vài trường hợp còn được viết ra rồi hầu như không thay đổi, hoặc thay đổi rất ít, bởi cuộc chiến tranh nổ ra năm 1939 hay các hậu quả từ cuộc chiến ấy.
Cuộc chiến tranh ngoài đời thực không giống cuộc chiến tranh truyền thuyết ở cả quá trình lẫn hồi kết. Nếu quả đó là nguồn gợi hứng hay định hướng diễn biến của truyền thuyết, thì chắc hẳn chiếc Nhẫn đã bị giành lấy rồi được dùng để chống lại Sauron; hắn đã không bị tiêu diệt mà bị bắt làm nô lệ, và Barad-dûr đã không bị phá hủy mà chỉ bị chiếm đóng. Saruman, do không chiếm được chiếc Nhẫn, trong cảnh hỗn loạn và lừa lọc của thời điểm ấy sẽ tìm thấy ở Mordor những mắt xích còn thiếu trong nghiên cứu bản thân về truyền thuyết xoay quanh chiếc Nhẫn, rồi sẽ chẳng bao lâu sẽ làm một chiếc Nhẫn Báu cho riêng mình, cầm nó mà thách thức kẻ tự phong làm đấng Trị vì Trung Địa. Trong cuộc xung đột đó cả hai bên sẽ nhìn dân Hobbit bằng con mắt căm ghét và khinh miệt: họ hẳn sẽ không tài nào sống nổi kể cả trong kiếp nô lệ.
Những phương án triển khai khác có thể được nghĩ tới, chiều theo thị hiếu hoặc quan điểm của những người thích tham chiếu ngụ ngôn phóng dụ hoặc chuyện thời sự. Song tôi chân thành ghét ngụ ngôn phóng dụ trong mọi hình thức, đã ghét kể từ hồi tôi đủ già để cảnh giác nhìn ra sự hiện diện của nó ở bất kỳ đâu. Tôi thích lịch sử hơn nhiều, dù chân thực hay giả cách, với khả năng áp dụng đa dạng lên suy nghĩ và trải nghiệm của độc giả. Tôi nghĩ là nhiều người nhầm “khả năng áp dụng” với “ngụ ngôn phóng dụ”; song một thứ là do lựa chọn tự do của người đọc, thứ kia lại nằm dưới sự thống trị có mục đích của tác giả.
Một tác giả dĩ nhiên không thể hoàn toàn thoát khỏi ảnh hưởng từ những trải nghiệm của chính mình, song cái mầm chuyện kể lại hút từ mảnh đất trải nghiệm dọc theo những đường cực kỳ phức tạp, và những nỗ lực hòng định nghĩa quá trình này cùng lắm chỉ là phỏng đoán từ bằng chứng vốn dĩ không đầy đủ và mơ hồ nhập nhằng. Vả lại sẽ là sai lầm - mặc dầu đương nhiên hấp dẫn, nhất là khi thời kỳ sống của tác giả cùng nhà phê bình chồng chéo lên nhau - nếu tin rằng những phong trào tư tưởng hoặc các sự kiện thời đại cả hai cùng trải qua tất yếu là nguồn ảnh hưởng mạnh mẽ nhất. Quả tình chỉ ai đã đích thân chịu đựng cái bóng tăm tối của chiến tranh thì mới cảm thấy trọn vẹn sức áp bức từ cuộc chiến; nhưng năm tháng trôi qua, giờ đây người ta thường quên mất rằng bị mắc kẹt trong cảnh chiến tranh vào năm 1914 giữa độ thanh xuân thì cũng kinh khủng chẳng kém gì buộc phải can dự vào chiến trận năm 1933 và các năm tiếp sau. Đến năm 1918, ngoại trừ duy nhất một người, còn thì bạn bè tôi đều chết cả. Hoặc giả chuyển sang một vấn đề bớt đau lòng hơn: vài người đã có ý kiến cho rằng “Cuộc thanh trừng Quận” phản ảnh tình hình nước Anh tại thời điểm tôi đang hoàn tất câu chuyện. Không phải như thế. Đó là một phần thiết yếu trong cốt truyện, được trù tính từ đầu, mặc dầu trong quá trình viết bị sửa đổi nhân vật Saruman có sự phát triển trong câu chuyện, chứ - tôi có cần nói điều này chăng - không có bất kỳ ý nghĩa phúng dụ nào hay tham chiếu chính trị đương đại nào. Nó quả thật có chút cơ sở trong trải nghiệm cá nhân, nhưng khá ít ỏi (bởi tình hình kinh tế đã hoàn toàn khác), lại quá xa xưa. Miền quê nơi tôi sống thời thơ ấu đã bị phá hủy xơ xác năm tôi chưa đầy mười bảy tuổi, trong những ngày xe ô tô còn là của hiếm (tôi chưa hề nhìn thấy cái nào) và người ta vẫn còn xây dựng dở đường xe lửa ngoại thị. Gần đây tôi thấy trên báo bức ảnh chụp hình mẫu hư nát cuối cùng của cối xay bột từng một thời phồn thịnh bên cạnh cái hồ chứa mà ngày xưa đối với tôi quan trọng vô cùng. Tôi chưa bao giờ thích vẻ bề ngoài của ông chủ cối Trẻ, song bố ông ta, ông chủ Già, thì có chòm râu đen, và không hề mang tên Sạn Mịn.
Chúa tể những chiếc Nhẫn giờ đây được ra ấn bản mới, nên tôi đã chớp lấy cơ hội sửa chữa. Một số lỗi và những điểm không nhất quán vẫn còn trong bản gốc nay đã được sửa, cùng với nỗ lực cung cấp thông tin ở vài điểm mà các độc giả chu tường đã nêu. Tôi đã cân nhắc mọi nhận xét và các câu hỏi của độc giả, nên nếu vài nhận xét hay câu hỏi có vẻ bị bỏ qua thì rất có thể bởi tôi không giữ giấy ghi chép được ngăn nắp lắm; song có nhiều câu chỉ có thể trả lời bằng các phụ lục bổ sung, hay thực tình là bằng cách in thêm hẳn một phụ bản bao gồm phần lớn nội dung không đưa vào ấn bản đầu tiên, đặc biệt là phần thông tin ngôn ngữ học chi tiết. Trước mắt ấn bản này có thêm Lời tựa, bổ sung vào phần Phi lộ, vài ghi chú, một mục lục tên người và địa danh. Mục lục này theo chủ ý sẽ gồm đầy đủ danh mục song không đầy đủ các trang tham chiếu, bởi nhằm mục đích hiện tại, cốt yếu là phải giảm độ dày cuốn sách. Một mục lục hoàn chỉnh tận dụng được toàn bộ nội dung mà bà N. Smith đã chuẩn bị cho tôi, thì phải đợi tới phụ bản.