Chương V CỬA SỔ NHÌN VỀ TÂY
Sam tưởng như mới chỉ chợp mắt được vài phút khi chú tỉnh dậy, nhận ra trời đã về chiều và Faramir đã trở lại. Anh ta dẫn theo rất nhiều người; thực tế là những người sống sót sau cuộc phục kích giờ đã tập trung cả lại trên sườn dốc bên cạnh, phải tới hai hoặc ba trăm người. Họ ngồi thành một vòng bán nguyệt rộng, Faramir thì ngồi trên mặt đất ngay giữa hai nhánh, trong khi Frodo đứng trước mặt anh ta. Cảnh tượng kỳ lạ trông chẳng khác nào một cuộc xét xử tù nhân.
Sam lẻn ra khỏi bãi dương xỉ, nhưng chẳng ai chú ý đến chú, và chú tự ngồi xuống ở một đầu vòng người, nơi chú có thể nhìn và nghe thấy tất cả những gì đang diễn ra. Chú chăm chú quan sát và nghe ngóng, sẵn sàng lao đến hỗ trợ cậu chủ nếu cần thiết. Chú nhìn thấy khuôn mặt Faramir, giờ đã bỏ mặt nạ: trông anh ta rắn rỏi oai vệ, thấp thoáng vẻ sắc sảo phía sau cái nhìn dò xét. Sự ngờ vực chứa đầy cặp mắt xám đang đăm đăm nhìn Frodo.
Sam sớm nhận ra viên Chỉ Huy không thỏa mãn với lời giải trình về bản thân của Frodo ở nhiều điểm: cậu đã đóng vai trò gì trong Hội Đồng Hành xuất phát từ Thung Đáy Khe; tại sao cậu rời bỏ Boromir; và giờ cậu đang đi đâu.Và anh ta thường xuyên trở lại câu chuyện về Tai Ương của Isildur. Hiển nhiên anh ta biết Frodo vẫn đang che giấu một điều gì đó vô cùng quan trọng.
“Nhưng người Tí Hon phải bước lên thì Tai Ương của Isildur mới tỉnh giấc, hoặc ít ra những lời đó nói như vậy,” anh ta khăng khăng “Nếu ngươi chính là người Tí Hon được nêu tên, thì không còn nghi ngờ gì chính ngươi đã mang thứ đó đến Hội Đồng mà ngươi nói tới, cho dù nó là gì đi chăng nữa, và ở đó Boromir đã nhìn thấy nó. Ngươi không phủ nhận chứ?”
Frodo không trả lời. “Vậy đấy!” Faramir nói. “Giờ ta muốn được nghe ngươi nói nhiều hơn về điều đó; bởi những gì liên quan đến Boromir cũng liên quan đến ta. Một mũi tên Orc đã giết chết Isildur, như những câu chuyện cổ vẫn kể. Thế nhưng mũi tên Orc lại có rất nhiều, và nhìn thấy mũi tên không thể khiến Boromir vương quốc Gondor coi là dấu hiệu Định Mệnh được. Ngươi có giữ thứ đó không? Ngươi nói nó được cất giấu; nhưng không phải là do ngươi quyết định cất giấu nó ư?”
“Không, không phải do tôi,” Frodo trả lời. “Nó không thuộc về tôi. Nó không thuộc về bất cứ người trần tục nào, dù to lớn hay nhỏ bé; nếu có bất cứ ai có quyền làm chủ nó, thì đó phải là Aragorn con trai Arathom, mà tôi đã nêu tên, là thủ lĩnh của Hội Đồng Hành từ Moria đến Rauros.”
“Tại sao lại như vậy mà không phải là Boromir, hoàng thân của Thành Phố mà con cháu Elendil đã xây dựng nên?”
“Bởi Aragorn là dòng trực hệ, cha đến cha, từ chính Isildur con trai Elendil. Và thanh kiếm anh ấy mang theo chính là thanh kiếm của Elendil.”
Một tiếng rì rầm ngạc nhiên rộ lên qua cả vòng người. Một vài người thét lớn: “Thanh kiếm của Elendil! Thanh kiếm của Elendil đang đến với Minas Tirith! Quả là một tin trọng đại!” Thế nhưng khuôn mặt Faramir không hề đổi sắc.
“Có thể,” anh ta nói. “Nhưng một quyền lớn lao đến thế sẽ cần được chất vấn, và chứng cớ rõ ràng phải được đưa ra nếu người tên Aragorn này có bao giờ đến Minas Tirith. Người đó hay bất cứ ai trong Hội Đồng Hành của ngươi vẫn chưa đến đó khi ta lên đường sáu ngày trước.”
“Boromir đã chấp nhận quyền đó,” Frodo nói. “Nếu Boromir ở đây, thực thế, chắc chắn anh ấy sẽ trả lời mọi câu hỏi của anh. Và vì anh ấy đã đến được Rauros nhiều ngày trước và dự định sẽ đi thẳng đến thành phố của anh, nên nếu anh quay lại đó, anh sẽ sớm biết được câu trả lời. Anh ấy hiểu phần việc của tôi trong Hội Đồng Hành, cũng giống như mọi người khác, bởi việc đó được đích thân Elrond ở Imladris giao cho tôi trước toàn thể Hội Đồng. Vì nhiệm vụ đó mà tôi đến vùng đất này, nhưng tôi không được phép tiết lộ cho bất cứ ai ngoài Hội Đồng Hành. Và những người tự nhận mình chống lại Kẻ Thù tốt hơn hết là đừng cản trở.”
Giọng Frodo cất lên đầy kiêu hãnh, bất kể cảm xúc của cậu có như thế nào, và Sam rất tán đồng; thế nhưng nó lại không làm hài lòng Faramir.
“Vậy đấy!” anh ta nói. “Ngươi bảo ta tự lo chuyện của mình, bảo ta về nhà, và mặc kệ ngươi. Boromir sẽ kể tất cả, chừng nào anh ấy đến. Chừng nào anh ấy đến, ngươi nói vậy! Ngươi có phải là bạn của Boromir không?”
Trong tâm trí Frodo hiện ra sinh động ký ức vụ tấn công của Boromir, và cậu chần chừ trong giây lát. Đôi mắt Faramir dõi lên cậu thêm đanh lại. “Boromir là một thành viên gan dạ trong Hội Đồng Hành của bọn tôi,” cuối cùng cậu nói. “Phải, tôi là bạn anh ấy, về phần tôi.”
Faramir cười nhạt. “Vậy ngươi sẽ đau buồn nếu biết Boromir đã chết chứ?”
“Dĩ nhiên là tôi sẽ đau buồn,” Frodo nói. Rồi cậu ngập ngừng khi bắt gặp ánh mắt Faramir. “Chết sao?” cậu hỏi lại. “Ý anh nói rằng anh ấy đã chết, và anh biết điều đó sao? Anh vừa định cài bẫy tôi bằng lời lẽ và trêu đùa tôi sao? Hay bây giờ anh lại định tung hỏa mù nói dối tôi?”
“Ta không thèm tung hỏa mù nói dối ngay cả với một tên Orc,” Faramir nói.
“Vậy tại sao anh ấy lại chết, và làm thế nào anh biết được điều đó? Bởi anh vừa nói rằng chưa có ai trong Hội Đồng Hành đến được thành phố lúc anh đi khỏi.”
“Ta đã hy vọng bạn bè và cũng là bạn đường của anh ấy sẽ kể ta nghe anh ấy đã chết thế nào.”
“Thế nhưng anh ấy vẫn còn sống và khỏe mạnh khi chúng tôi chia tay. Và anh ấy vẫn sống theo như những gì tôi được biết. Cho dù rõ ràng có rất nhiều mối nguy hiểm trên thế giới này.”
“Đúng là rất nhiều,” Faramir nói, “và phản trắc cũng là một phần quan trọng trong số đó.”
Sam càng lúc càng mất kiên nhẫn và bực bội với cuộc nói chuyện này. Và những lời cuối cùng đã vượt quá sức chịu đựng của chú. Lao vào giữa vòng người, chú đến đứng một bên cậu chủ.
“Xin cậu thứ lỗi, cậu Frodo,” chú nói, “nhưng đôi co thế này đủ rồi. Anh ta chẳng có quyền gì nói với cậu như vậy hết, sau tất cả những gì cậu đã phải trải qua, vì lợi ích của anh ta cùng tất cả những Con Người vĩ đại này cũng nhiều như của bất cứ ai khác.
“Thế này nhá, anh Chỉ Huy!” chú đứng tấn trước mặt Faramir, hai tay chống nạnh, nhìn vào mặt anh ta như thể đang nói chuyện với một thằng nhóc Hobbit vừa hứa biếu chú thứ nó gọi là “xốt” khi bị tra hỏi về những lần vào vườn quả. Vài tiếng xì xào cất lên, nhưng cũng có cả nét cười thích chí trên khuôn mặt những người đang theo dõi: cái cảnh tượng Chỉ Huy của họ ngồi trên mặt đất mắt đối mắt với một anh chàng Hobbit trẻ tuổi, hai chân choãi rộng, xù lông giận dữ, nó vượt quá mọi trải nghiệm của họ. “Thế này nhá!” chú nói. “Anh đang định lèo lái điều gì? Hãy nói thẳng ra trước khi tất cả lũ Orc Mordor tràn lên chúng ta! Nếu anh nghĩ cậu chủ tôi đã sát hại anh Boromir này rồi bỏ chạy, thì anh mất trí rồi; nhưng cứ nói thẳng ra đi! Và rồi hãy cho bọn tôi biết anh định làm gì về chuyện đó. Nhưng thật đáng tiếc là những kẻ luôn mồm nói chuyện chiến đấu với Kẻ Thù lại không để những người khác làm phần của họ theo cách của họ mà không ngáng trở. Hắn chắc sẽ hài lòng kinh khủng tận nếu gặp anh lúc này. Vì nghĩ rằng hắn có thêm một đồng minh mới, có lẽ vậy đấy.”
“Kiên nhẫn nào!” Faramir nói, nhưng không hề giận dữ. “Đừng nói hộ chủ nhân ngươi, anh ta sáng trí hơn ngươi nhiều. Và ta không cần bất cứ ai dạy dỗ về mối nguy của bọn ta. Tuy nhiên ta vẫn bỏ chút thời gian để phán xét đúng đắn trong một vấn đề phức tạp. Nếu ta cũng nhanh nhảu như ngươi, có lẽ ta đã giết chết ngươi từ lâu rồi. Bởi ta được lệnh giết tất cả những kẻ bị ta phát hiện trên vùng đất này mà không được phép của Chúa Gondor. Thế nhưng ta không giết người hay thú khi không cần thiết, và ngay cả khi cần thiết thì cũng chẳng lấy làm mừng. Ta cũng chẳng ham nói chuyện vô bổ. Vậy nên hãy yên lòng đi. Hãy ngồi xuống bên chủ nhân ngươi, và hãy trật tự!”
Sam nặng nề ngồi xuống, khuôn mặt ửng đỏ. Faramir lại quay về phía Frodo. “Ngươi đã hỏi làm sao ta biết được con trai Denethor đã chết. Tin tức về cái chết vẫn bay bằng nhều cánh. Người ta nói đêm thường mang tin đến cho họ hàng gần. Boromir là anh trai ta.”
Bóng dáng nỗi buồn lướt nhanh qua khuôn mặt anh ta. “Ngươi còn nhớ vật gì mang dấu hiệu đặc trưng mà Hoàng thân Boromir mang theo trong hành trang không?”
Frodo suy nghĩ một lát, lo sợ cái bẫy nào đó có thể đang giăng ra, và tự hỏi cuộc tranh cãi này rồi sẽ kết thúc ra sao. Cậu khó lắm mới giấu được chiếc Nhẫn khỏi thói tham lam kiêu hãnh của Boromir, và giờ cậu không biết phải xoay xở thế nào giữa bao nhiêu con người, tất cả đều hiếu chiến và mạnh mẽ. Tuy nhiên trái tim cậu mách bảo rằng Faramir, dù có vẻ bề ngoài rất giống anh trai mình, song lại là một người ít vị kỷ hơn nhiều, nghiêm khắc hơn nhưng cũng thông thái hơn. “Tôi nhớ Boromir có mang một cây tù và,” rốt cục cậu trả lời.
“Ngươi nhớ tốt đấy, và tỏ ra đúng là người thực sự đã nhìn thấy anh ấy,” Faramir nói. “Vậy có lẽ ngươi cũng có thể nhìn thấy nó trong tâm trí ngươi: một cây sừng lớn của giống bò hoang miền Đông, bọc bạc, trên khắc những ký tự cổ xưa. Người con trưởng trong gia tộc ta đã mang cây tù và đó suốt bao thế hệ; và người ta nói nếu nó được thổi lên vào lúc nguy cấp ở bất cứ đâu trong biên giới vương quốc Gondor, biên giới thuở xa xưa, tiếng nó sẽ không tắt đi mà không ai nghe thấy.
“Năm ngày trước khi ta dấn thân vào cuộc viễn chinh này, và mười một ngày trước đây cũng vào khoảng giờ này, ta đã nghe thấy tiếng chiếc tù và đó: dường như là từ phía Bắc, nhưng chỉ văng vẳng thôi, như thể chỉ là tiếng vọng trong tâm trí. Chúng ta đã linh cảm đó là điềm xấu, cha ta và ta, bởi chúng ta không hề có tin tức gì về Boromir kể từ khi anh ấy ra đi, và không có người lính nào ở vùng biên cương thấy anh ấy đi qua. Và vào đêm thứ ba sau đó một điều kỳ lạ đã xảy đến với ta.
“Ta đang ngồi bên dòng Anduin, trong màn đêm xám dưới ánh trăng non, nhìn dòng nước cứ chảy mãi; còn đám sậy thì xào xạc buồn bã. Bọn ta vẫn theo dõi không ngừng nghỉ những bờ bến gần Osgiliath, nơi kẻ thù giờ đây đã chiếm giữ một phần, rồi từ đó quấy nhiễu vùng đất của bọn ta. Thế nhưng trong thời khắc nửa đêm hôm đó cả thế giới lại như đang say ngủ. Rồi ta nhìn thấy hay dường như ta đã thấy, một con thuyền đang trôi trên sông, lấp lánh xám, một con thuyền nhỏ kiểu cách lạ thường có mũi vươn cao, và chẳng có ai chèo hay lái cả.
“Một cảm giác kính sợ dâng lên trong ta, bởi xung quanh nó là một vầng hào quang le lói. Nhưng ta vẫn đứng dậy đi ra phía bờ sông, rồi bước vào dòng nước, bởi ta bị cuốn về phía nó. Rồi con thuyền rẽ về phía ta, vẫn giữ tốc độ ấy, và chậm rãi trôi qua trong tầm tay, song ta không dám với lấy nó. Nó chìm sâu, như thể đang mang theo gánh nặng ghê gớm lắm, lúc nó trôi qua trước mắt dường như ta thấy lòng thuyền đựng gần như đầy nước trong vắt và ánh sáng phát ra từ đó; bên trong làn nước là một chiến binh đang yên nghỉ.
“Một thanh kiếm gãy nằm trên gối anh ấy. Ta cũng nhìn thấy rất nhiều vết thương trên thân thể anh. Đó chính là Boromir, anh trai ta, đã chết. Ta biết rõ giáp trụ, thanh kiếm, và khuôn mặt mến thương của anh. Chỉ có một thứ ta không thấy: chiếc tù và. Chỉ có một thứ ta không biết: chiếc thắt lưng tuyệt đẹp, như kết từ những tấm lá bằng vàng, quanh hông anh ấy. Boromir! ta thét lớn. Chiếc tù và của huynh đâu? Huynh đang đi đâu vậy? Hỡi Boromir! Thế nhưng anh ấy đã biến mắt. Chiếc thuyền lại rẽ vào dòng chảy và xa khuất vào bóng đêm. Cứ như thể một giấc mơ, song lại không phải mơ bởi có thức tỉnh nào đâu. Và ta không nghi ngờ gì rằng anh ấy đã chết và đã trôi xuống theo Sông Cả ra Đại Dương.”
“Than ôi!” Frodo thốt lên. “Đó quả là Boromir mà tôi đã biết. Bởi dải thắt lưng vàng đó đã được Phu Nhân Galadriel trao cho anh ấy ở Lothlórien. Người cũng mặc lên người bọn tôi thứ quần áo như anh đang thấy đây, màu xám vải tiên. Chiếc ghim cài này cũng được chế tác bởi cùng một tay nghề.” Cậu chạm vào chiếc lá màu xanh và bạc đang cài tấm áo choàng dưới cổ.
Faramir nhìn gần hơn. “Đẹp quá,” anh ta nói. “Phải, đây là sản phẩm của cùng một bàn tay chế tác. Vậy ra các ngươi đã đi qua đất Lórien? Laurelindórenan là tên gọi cổ xưa của nơi đó, nhưng suốt bao lâu nay nó đã nằm ngoài kiến thức của Con Người,” anh ta vừa nhẹ nhàng nói thêm vừa chăm chú nhìn Frodo với một vẻ trầm trồ mới trong ánh mắt. “Giờ ta bắt đầu hiểu thêm nhiều điều lạ lùng nữa về ngươi. Ngươi không định kể thêm cho ta sao? Bởi quả là đau đớn khi nghĩ rằng Boromir đã chết, thật gần mảnh đất quê hương.”
“Những điều có thể nói tôi đã nói hết rồi,” Frodo trả lời. “Tuy nhiên câu chuyện của anh như một điềm báo đối với tôi. Tôi nghĩ những gì anh thấy chỉ là ảo ảnh không hơn. một hình bóng của vận hạn đen tối đã qua hoặc sẽ tới. Trừ khi đằng sau đó là trò lừa dối nào đấy của Kẻ Thù. Tôi đã nhìn thấy khuôn mặt những chiến binh đẹp đẽ thời xa xưa nằm ngủ dưới ao hồ trong Đầm Lầy Chết, hoặc bị tà thuật của hắn làm ra vẻ như vậy.”
“Không, không phải đâu,” Faramir nói. “Bởi những gì hắn làm chỉ khiến trái tim kinh tởm; thế nhưng trái tim ta lại dâng đầy nỗi buồn đau và tiếc nuối.”
“Nhưng làm sao một việc như vậy lại có thể xảy ra trong thực tế?” Frodo hỏi. “Bởi chẳng con thuyền nào có thể qua được khu đồi đá từ Tol Brandir; và Boromir dự định về nhà băng qua Luồng Ent và những cánh đồng đất Rohan. Và làm sao con thuyền có thể cưỡi trên bọt nước dòng thác khổng lồ mà không chìm xuống hồ nước sôi sục, dù đã chứa đầy nước?”
“Ta không biết,” Faramir nói. “Nhưng con thuyền đó từ đâu đến?”
“Từ Lorien,” Frodo trả lời. “Ba con thuyền như vậy được chúng tôi chèo xuống theo dòng Anduin để đến khu Thác. Chúng cũng là đồ chế tác của người Tiên.”
“Ngươi đã đi qua Vùng Đất Bí Mật,” Faramir nói, “vậy mà ngươi có vẻ ít hiểu biết về quyền năng của nó quá. Nếu Con Người nào giao hảo với Nữ Chủ Ma Thuật, sinh sống trong khu Rừng Vàng, thì người đó có thể trông chờ những điều lạ lùng sẽ xảy đến. Bởi nguy hiểm sẽ tới với người trần tục nào bước ra khỏi thế giới của Mặt Trời này, và người ta nói chẳng mấy người xưa kia thoát khỏi nơi đó mà còn như cũ.
“Boromir, hỡi Boromir!” anh ta kêu lớn. “Bà ta đã nói gì với anh, Phu Nhân bất tử ấy? Bà ta đã thấy gì? Điều gì đã thức tỉnh trong tim anh lúc đó? Cớ sao anh lại đến Laurelindórenan, mà không đi theo con đường anh chọn, và phi về quê nhà vào buổi sáng trên lưng ngựa Rohan?”
Rồi lại quay về phía Frodo, anh ta trở lại nói bằng giọng nhỏ nhẹ. “Với những câu hỏi đó ta đoán ngươi đều có câu trả lời nào đó, Frodo con trai Drogo. Nhưng có lẽ không phải là ở đây hoặc vào lúc này. Nhưng nếu ngươi vẫn cho rằng câu chuyện của ta là ảo giác, thì để ta kể cho ngươi điều này. Chiếc tù và của Boromir ít nhất đã trở về trong thực tế, chứ không phải trong tưởng tượng. Chiếc tù và đã về, nhưng lại bị chẻ làm đôi, như thể bị chém bởi rìu hoặc kiếm. Hai mảnh vỡ dạt vào bờ riêng rẽ: một mảnh được tìm thấy giữa đám sậy nơi lính canh Gondor ẩn nấp, ở phía Bắc bên dưới nhánh chảy vào Luồng Ent; mảnh kia được tìm thấy bởi một người lính có việc qua dòng nước khi nó đang xoay tròn trong cơn lũ. Quả là sự may rủi kỳ lạ, thế nhưng tội sát nhân sớm muộn gì cũng lộ, như lời người ta nói.
“Và giờ hai mảnh tù và của người con cả đang nằm trên lòng Denethor, ngồi trên ngai cao, chờ đợi tin tức. Và ngươi không định kể cho ta điều gì về vụ chẻ chiếc tù và đó sao?”
“Không, tôi không biết gì về chuyện đó,” Frodo nói. “Thế nhưng ngày anh nghe tiếng nó cất lên, nếu anh tính toán đúng, cũng chính là ngày chúng tôi chia tay, ngày tôi và người hầu của tôi rời bỏ Hội Đồng Hành. Và giờ câu chuyện của anh đã khiến tôi khiếp sợ. Bởi nếu đúng là lúc đó Boromir đã lâm nguy và bị giết hại, tôi phải sợ rằng tất cả bạn đồng hành của tôi cũng đều đã tử nạn. Họ đều là họ hàng và bạn bè của tôi.
“Anh không định gạt bỏ những nghi ngờ và để tôi đi sao? Tôi mệt mỏi và đau khổ lắm rồi, sợ hãi nữa. Thế nhưng tôi có việc phải làm, hoặc gắng làm, trước khi cả tôi cũng bị giết chết. Và lại càng cần phải vội vã hơn, nếu hai người tí hon bọn tôi là tất cả những gì còn sót lại của hội đồng hành.
“Hãy quay về, hỡi Faramir, người Chỉ Huy can đảm vương quốc Gondor, và bảo vệ thành phố của anh trong lúc còn có thể, hãy để tôi đi đến nơi định mệnh đang chờ đón.”
“Ta cùng chẳng cảm thấy chút an ủi nào trong cuộc nói chuyện này,” Faramir nói, “thế nhưng rõ ràng là ngươi đã đau khổ vì chuyện đó nhiều hơn mức cần thiết. Ai đã sửa soạn cho Boromir như trong tang lễ? Trừ khi đích thân người Lórien đã đến với anh ấy. Không phải lũ Orc hay chân tay của Kẻ Không Tên rồi. Ta đoán ai đó trong Hội Đồng Hành của ngươi vẫn còn sống.
“Nhưng dù có chuyện gì đã xảy ra ở vùng Biên Giới Bắc đi nữa, ta nay không còn nghi ngờ ngươi, Frodo ạ. Nếu những ngày gian khổ đã dạy ta phán xét lời ăn nét mặt Con Người, thì ta cũng có thể liều đoán định người Tí Hon! Mặc dù,” rồi anh ta mỉm cười, “ngươi có điều gì đó rất lạ lùng, Frodo ạ, một phong thái Tiên, có lẽ vậy. Thế nhưng hóa ra những lời trao đổi giữa chúng ta lại mang tầm quan trọng hơn lúc đầu ta tưởng. Nhiệm vụ của ta là phải dẫn ngươi về Minas Tirith để trả lời Denethor, và giờ nếu ta đưa ra lựa chọn gây tổn hại cho thành phố của ta, ta sẽ phải trả giá bằng mạng sống một cách đích đáng. Vì thế ta sẽ chưa vội vã quyết định phải làm gì. Thế nhưng chúng ta vẫn phải lên đường rời khỏi đây mà không trì hoãn thêm nữa.”
Anh ta vùng đứng dậy, đưa ra vài mệnh lệnh. Ngay lập tức những người đang tập trung xung quanh chia thành từng toán nhỏ, tỏa đi hướng này hướng khác, rồi nhanh chóng biến mất trong bóng núi và cây cối. Chẳng lâu sau chỉ còn mỗi Mablung và Damrod ở lại.
“Còn các ngươi Frodo và Samwise, sẽ đi theo ta và cận vệ của ta,” Faramir nói. “Các ngươi không thể tiếp tục đi theo con đường về Nam, nếu đó là mục đích của các ngươi. Nó sẽ không an toàn trong vài ngày tới, đồng thời sẽ bị theo dõi sát sao hơn sau vụ huyên náo này. Và ta nghĩ dù thế nào thì hôm nay các ngươi cũng chẳng thể đi được xa, bởi các ngươi mệt rồi. Bọn ta cũng vậy. Giờ chúng ta sẽ đến một nơi bí mật, cách đây gần mười dặm. Lũ Orc và gián điệp của Kẻ Thù vẫn chưa tìm ra nơi đó, còn nếu chúng đã tìm ra, thì chúng ta vẫn có thể cầm cự được lâu cho dù phải đối mặt với quân số đông hơn. Chúng ta có thể nghỉ ngơi lại đó trong ít lâu, các ngươi sẽ ở cùng bọn ta. Đến sáng ra ta sẽ quyết định làm điều gì thì tốt nhất cho ta, và cho các ngươi.”
Frodo chẳng thể làm gì khác ngoài việc tuân theo yêu cầu, hay mệnh lệnh này. Có vẻ như trước mắt đó là một hướng đi sáng suốt, bởi cuộc đột kích vừa rồi của người Gondor đã khiến việc đi lại ở Ithilien trở nên nguy hiểm hơn lúc nào hết.
Họ lên đường ngay lập tức: Mahlung và Damrod đi cách không xa phía trước, Faramir cùng Frodo và Sam bám theo phía sau. Men theo bờ hồ nơi hai chàng Hobbit đã tắm rửa, họ vượt qua dòng nước, trèo lên một bờ dốc dài, rồi đi vào một vùng rừng phủ bóng xanh kéo dài mãi xuống dưới và về phía Tây. Trong lúc bước đi, với tốc độ nhanh nhất mà hai chàng Hobbit khả dĩ theo kịp, họ vẫn hạ giọng nói chuyện với nhau.
“Tôi đã chấm dứt cuộc nói chuyện giữa chúng ta,” Faramir nói, “không chỉ vì thời gian đang thúc ép, như cậu Samwise đã nhắc nhở, mà còn bởi chúng ta đã tiến gần tới những vấn đề mà tốt hơn cả là không nên tranh luận công khai trước mặt nhiều người. Vì vậy tôi đã trở lại vấn đề của anh trai tôi song chừa lại Tai Ương của Isildur. Cậu đã không hoàn toàn thẳng thắn với tôi, Frodo.”
“Tôi không dối trá, và đã thành thật hết mức có thể,” Frodo nói.
“Tôi không trách cậu,” Faramir nói. “Cậu nói năng khéo léo cả trong tình thế khó khăn, và đối với tôi có vẻ thế là khá sáng suốt. Thế nhưng tôi đoán biết được nhiều từ bản thân cậu hơn là từ những điều cậu nói. Cậu và Boromir không thân thiện với nhau hoặc chí ít cậu và anh ấy đã không chia tay nhau một cách hữu hảo. Tôi đoán cậu, và cả cậu Samwise nữa, đều có điều bực bội nào đó. Còn tôi thì yêu quý anh ấy, và sẵn sàng trả thù cho cái chết của anh ấy, song tôi cũng hiểu rõ anh ấy. Tai Ương của Isildur - tôi mạo muội đoán rằng Tai Ương của Isildur đã chia rẽ hai bên và là nguyên nhân gây bất đồng trong Hội Đồng Hành các cậu. Rõ ràng nó là một vật gia bảo ghê gớm nào đó, và những thứ đó thường không duy trì sự hòa hảo trong liên minh, nếu những câu chuyện cổ hãy còn dạy được cho ta điều gì đó. Chẳng lẽ tôi vẫn chưa bắn gần trúng đích?”
“Gần rồi,” Frodo nói, “nhưng vẫn chưa vào hồng tâm đâu. Chẳng có bất đồng nào trong Hội Đồng Hành chúng tôi hết, cho dù đúng là có nghi ngại: nghi ngại về lựa chọn nên đi đường nào từ Emyn Muil. Nhưng dù đúng là vậy đi nữa, những câu chuyện cổ còn dạy cho chúng ta biết mối nguy từ những lời nói hấp tấp liên quan đến những thứ như - vật gia bảo.”
“À, vậy thì đúng như tôi đã nghĩ: rắc rối của cậu chỉ nằm ở một mình Boromir mà thôi. Anh ấy đã mong muốn thứ này được đưa đến Minas Tirith. Than ôi! Số phận nghiệt ngã đã khóa đôi môi cậu, người cuối cùng nhìn thấy anh ấy, và tước đi những điều tôi mong được biết: tâm tư anh ấy thế nào vào giờ khắc cuối cùng. Dù anh có lầm lỗi hay không, tôi vẫn chắc chắn điều này: anh đã chết thanh thản, và đã thực hiện được một điều tốt đẹp nào đó. Khuôn mặt anh ấy thậm chí còn đẹp hơn cả khi còn sống.
“Nhưng Frodo, ban đầu tôi đã thúc ép cậu quá đáng về Tai Ương của Isildur. Hãy thứ lỗi cho tôi! Làm thế quả là không khôn ngoan vào thời điểm đó tại nơi chốn đó. Tôi đã chẳng có thì giờ để mà suy nghĩ. Bọn tôi vừa trải qua một trận đánh khó khăn, nên tâm trí tôi chẳng thể chứa thêm gì nữa. Thế nhưng, càng nói chuyện với cậu, tôi lại càng tiến dần đến đích, và vì thế phải cố tình bắn ra xa. Bởi cậu cần phải biết rằng rất nhiều tích truyện cổ xưa còn được gìn giữ giữa những Người Cai Trị thành phố, dù không truyền bá rộng rãi. Gia tộc chúng tôi không thuộc dòng dõi Elendil, cho dù dòng máu Númenor có chảy trong người chúng tôi. Bởi dòng dõi của chúng tôi bắt đầu từ Mardil, vị quốc quản trung thành đã đứng ra cai trị thay nhà vua mỗi lần người ra trận. Và đó là Vua Eärnur, người cuối cùng của dòng dõi Anárion, không có con, và không bao giờ trở về sau chiến tranh. Kể từ đó những quan quốc quản đã cai trị thành phố, cho dù thời đó đã cách đây bao nhiêu thế hệ Con Người rồi.
“Có chuyện này tôi vẫn còn nhớ hồi Boromir hãy còn là một đứa trẻ, khi hai chúng tôi cùng nhau học những cậu chuyện về thời cha ông và về lịch sử thành phố, anh ấy luôn tỏ ra khó chịu vì cha mình không phải là vua. ‘Phải cần mấy trăm năm thì quốc quản mới được làm vua, nếu nhà vua không trở về?’ anh ấy hỏi. ‘Vài năm, có lẽ vậy, ở những dòng hoàng tộc ít danh giá hơn,’ cha tôi trả lời. ‘Ở Gondor thì mười ngàn năm vẫn chưa đủ.’ Than ôi! Boromir tội nghiệp. Điều đó chẳng khiến cậu hiểu hơn về anh ấy sao?”
“Có đấy,” Frodo nói. “Song anh ấy lúc nào cũng đối xử với Aragorn với lòng kính trọng.”
“Tôi không nghi ngờ chuyện đó,” Faramir nói. “Nếu anh ấy chấp nhận quyền xưng vua của Aragorn, như cậu nói, thì anh ấy sẽ vô cùng tôn kính anh ta. Thế nhưng thử thách còn chưa tới. Họ vẫn chưa đến Minas Tirith hay trở thành kình địch trong những cuộc chiến ở đó.
“Nhưng tôi nói lan man rồi. Gia tộc Denethor chúng tôi biết nhiều tích truyện cổ nhờ truyền thống lâu đời, ngoài ra kho tàng của chúng tôi vẫn bảo quản được biết bao nhiêu thứ: sách vở chép lên giấy da khô, phải rồi, cả trên đá, trên những tấm lá bạc, lá vàng, bằng những hệ ký tự rất khác nhau. Một vài tấm trong số đó giờ chẳng ai còn đọc được; số còn lại cũng chẳng mấy ai từng mở ra. Tôi đọc được chút ít trong số đó, bởi tôi đã được dạy. Chính những bản ghi đó đã đưa Người Lữ Hành Áo Xám đến với chúng tôi. Lần đầu tiên gặp ông ấy tôi mới chỉ là một đứa trẻ, và sau đó ông ấy còn xuất hiện thêm hai hoặc ba lần nữa.”
“Người Lữ Hành Áo Xám sao?” Frodo thốt lên. “Ông ấy có tên không?”
“Chúng tôi gọi ông là Mithrandir theo cách gọi của người Tiên,” Faramir nói, “và ông ấy bằng lòng với tên đó. Ta có nhiều tên ở nhiều vùng đất, ông ấy nói. Là Mithrandir khi ở cùng người Tiên, là Tharkûn đối với Người Lùn; thời trẻ ta từng là Olórin ở miền Tây đã bị quên lãng, ở miền Nam là Incánus, ở miền Bắc là Gandalf, còn miền Đông ta không đi tới.”
“Gandalf!” Frodo nói. “Tôi đã nghĩ đó chính là ông ấy. Gandalf Phù Thủy Xám, người cố vấn kính yêu nhất trên đời. Người dẫn đầu Hội Đồng Hành chúng tôi. Ông đã mất ở Moria.”
“Mithrandir đã mất!” Faramir thốt lên. “Dường như số mệnh xấu xa cứ bám lấy hội đồng hành các cậu. Thật khó tin một người thông thái và quyền năng đến vậy - vì ông ấy đã làm bao nhiêu điều kỳ diệu cho chúng tôi - lại có thể bỏ mình, và kho tích truyện lớn lao như vậy lại bị lấy đi khỏi thế giới. Cậu có chắc là đúng thế, chứ không phải ông ấy rời bỏ các cậu để đến nơi ông muốn?”
“Than ôi! có,” Frodo nói. “Tôi đã thấy ông ấy rơi xuống vực thẳm.”
“Tôi thấy rằng đó hẳn là một câu chuyện bi hùng,” Faramir nói, “và có lẽ cậu sẽ kể cho tôi vào buổi tối. Giờ tôi đoán rằng Mithrandir còn hơn cả một nhà am tường tích truyện: một người điều hành vĩ đại những kỳ công trong thời đại chúng ta. Phải chi ông đã có mặt để giải thích những lời lẽ khó hiểu trong giấc mơ của chúng tôi, ông nhất định sẽ làm sáng tỏ tất cả cho chúng tôi mà chẳng cần phải phái đi sứ giả nào. Song biết đâu ông sẽ không làm vậy, và cuộc hành trình của Boromir là do định mệnh. Mithrandir không bao giờ nói cho chúng tôi biết điều gì sắp xảy ra, hoặc tiết lộ mục đích của mình. Ông ấy được Denethor cho phép, bằng cách nào thì tôi không biết, vào xem những sách bí mật trong kho tàng của chúng tôi, và tôi đã học được chút ít từ ông ấy, mỗi lần mà ông chịu dạy (nhưng cũng chỉ hiếm hoi thôi). Hơn tất thảy những điều khác, ông luôn luôn tìm kiếm và hỏi chúng tôi về trận Đại Chiến diễn ra ở Dagorlad trong thời kỳ đầu của Gondor, khi Hắn, kẻ chúng tôi không gọi tên, bị đánh bại. Và ông cũng rất hào hứng nghe chuyện về Isildur, cho dù chúng tôi không có nhiều điều để kể; bởi chúng tôi chẳng biết điều gì chắc chắn về kết cục của người.”
Lúc này giọng Faramir trầm xuống chỉ còn là tiếng thì thầm. “Thế nhưng có điều này tôi đã biết được, hoặc đoán được, và đã bí mật giữ trong tim từ hồi ấy đến giờ: rằng Isildur đã lấy được thứ gì đó từ tay Kẻ Không Tên, trước khi người rời khỏi Gondor, và chẳng bao giờ còn xuất hiện giữa những người trần. Tôi nghĩ đây chính là câu trả lời cho thắc mắc của Mithrandir. Thế nhưng hồi ấy dường như vấn đề đó chỉ quan trọng với ai mong tìm hiểu về những tri thức cổ xưa. Ngay cả khi những lời đánh đố trong giấc mơ của chúng tôi được đưa ra tranh cãi, tôi cũng chẳng nghĩ Tai Ương của Isildur chính là thứ đó. Bởi nếu chiểu theo truyền thuyết duy nhất chúng tôi biết, Isildur đã bị phục kích và chết dưới tên lũ Orc, và Mithrandir chẳng kể cho tôi thêm điều gì nữa.
“Song tôi vẫn chưa thể đoán được Vật này thực sự là gì; chỉ biết nó hẳn là một thứ gia bảo quyền năng và nguy hiểm. Có lẽ là một thứ vũ khí ác liệt do Chúa Tể Hắc Ám tạo ra. Nếu nó là thứ tạo được lợi thế trong chiến cuộc, tôi hoàn toàn có thể tin rằng Boromir, con người kiêu hãnh và không biết sợ, lúc nào cũng nóng nảy, và luôn sốt ruột giành chiến thắng cho Minas Tirith (và vinh quang cho anh ấy nằm trong đó), rất có thể sẽ thèm khát một thứ như vậy và đã bị nó cám dỗ. Than ôi, tại sao anh ấy lại dấn thân vào hành trình đó! Lẽ ra tôi mới là người được cha tôi và những bậc bô lão lựa chọn, nhưng anh đã bước lên, với tư cách là người già dặn và cứng rắn hơn (cả hai đều đúng), và anh không chịu nghe lời ngăn cản.
“Nhưng đừng sợ nữa! Tôi sẽ không lấy vật đó cho dù nó nằm ngay trên đường. Cho dù Minas Tirith có sụp đổ và chỉ mình tôi mới có thể cứu được thành phố bằng cách đó, sử dụng vũ khí của Chúa Tể Hắc Ám để đem lại tự do cho thành phố và vinh quang cho mình. Không, tôi không mong một chiến thắng như vậy, Frodo con trai Drogo ạ.”
“Cả Hội Đồng cũng vậy,” Frodo nói. “Và tôi cũng vậy. Tôi chẳng muốn liên quan gì đến những điều như thế.”
“Về phần tôi,” Faramir nói, “tôi muốn thấy Cây Trắng lại trổ hoa giữa sân triều, muốn thấy Vương Miện Bạc trở về, và Minas Tirith được hòa bình: lại là Minas Anor như thời xa xưa, đầy ánh sáng, cao lớn và tráng lệ, đẹp như một bà hoàng nổi bật giữa những bà hoàng khác: song không phải bà chủ của bao đầy tớ, không, thậm chí không phải là bà chủ tốt của những đầy tớ tận tâm. Chiến tranh là tất yếu, khi chúng ta phải bảo vệ cuộc sống của mình trước kẻ hủy diệt đang rắp tâm ngấu nghiến tất cả; nhưng tôi không yêu thanh kiếm sáng vì lưỡi sắc bén, hay là mũi tên vì bay nhanh lẹ, hay kẻ chiến binh vì sự vinh quang. Tôi chỉ yêu thứ mà tất cả đang bảo vệ: thành phố của Con Người Númenor; và tôi mong thành phố ấy được yêu vì ký ức, vì lịch sử cổ kính, vì vẻ đẹp, và sự thông thái hiện tại. Chứ không muốn thấy nó bị sợ hãi, trừ khi giống như ta kính sợ nhân phẩm của một con người, già dặn và thông thái.
“Vậy nên đừng sợ tôi! Tôi không yêu cầu cậu phải kể thêm nữa. Thậm chí tôi còn không yêu cầu cậu cho tôi biết lúc này tôi đã nói gần trúng đích chưa. Tuy nhiên nếu cậu tin tưởng tôi, thì có lẽ tôi sẽ cho cậu được lời khuyên về nhiệm vụ hiện tại của cậu, dù là nhiệm vụ gì - phải rồi, và thậm chí tôi sẽ còn hỗ trợ cậu nữa.”
Frodo không trả lời. Cậu gần như sắp đầu hàng mong muốn được giúp đỡ và chỉ bảo, được kể cho người đàn ông trẻ tuổi mà nghiêm túc với những lời lẽ khôn ngoan và đẹp đẽ này toàn bộ những gì trong tâm trí cậu. Thế nhưng có thứ gì đó ngăn cậu lại. Trái tim cậu nặng trĩu buồn phiền và sợ hãi: nếu cậu và Sam thực sự là tất cả những người còn lại trong nhóm Chín Bộ Hành, thì cậu là kẻ duy nhất nắm giữ bí mật về mục đích của họ. Thà nghi ngờ không thỏa đáng còn hơn hấp tấp trình báo. Khi nhìn Faramir và nghe những lời anh ta nói, ký ức về Boromir, về biến đổi kinh hoàng gây ra bởi sự quyến rũ của chiếc Nhẫn, vẫn hiện diện rõ ràng trong tâm trí cậu: họ chẳng giống nhau, nhưng vẫn quá chừng gần gũi.
Họ bước trong im lặng suốt một lúc lâu, lướt đi như những cái bóng xanh xám dưới những tán cây già, chân họ chẳng phát ra tiếng động; trên đầu họ chim chóc hót líu lo, ánh mặt trời lấp lánh trên mái lá sẫm màu bóng lộn của khu rừng Ithilien bốn mùa xanh tươi.
Sam không tham gia vào cuộc nói chuyện, dù chú vẫn chăm chú lắng nghe; và cùng lúc đó đôi tai Hobbit tinh tường của chú cũng chú ý đến mọi tiếng động khẽ khác trong vùng rừng xung quanh họ. Chú đã ghi nhận một điều, trong suốt câu chuyện, cái tên Gollum không hề được nhắc đến dù chỉ một lần. Chú lấy làm mừng, cho dù chú vẫn có cảm giác rằng hy vọng không phải nghe thấy nó lần nào nữa là quá ảo tưởng. Chú cũng sớm nhận ra rằng, tuy họ đang đi một mình, nhưng vẫn còn rất nhiều người nữa ở rất gần: không chỉ có Damrod và Mablung thoắt ẩn thoắt hiện trong những bóng cây phía trước, mà còn có nhiều người khác ở cả hai bên, tất thảy đều đang thoăn thoắt và bí mật đi đến một nơi định trước nào đó.
Một lần, chú bất chợt quay lại nhìn về phía sau, như thể có cơn nổi gai ốc trên da mách bảo chú đang bị theo dõi, và chú nghĩ mình vừa thoáng thấy một hình thù sẫm màu nhỏ bé đang lẩn ra sau một thân cây. Chú mở miệng định nói nhưng đã kịp ngậm lại. “Mình vẫn không chắc lắm,” chú tự nhủ, “và tại sao mình lại phải nhắc họ về tên quỷ sứ già, trong khi họ đã quyết định quên gã đi? Mong sao mình cũng quên được!”
Và họ cứ thế đi tiếp, cho đến khi khu rừng trở nên thưa thớt hơn và mặt đất bắt đầu đổ xuống dốc hơn. Rồi họ lại tách khỏi con đường, về bên phải, và nhanh chóng tới một dòng sông nhỏ trong một khe núi hẹp: nó chính là dòng nước trào ra từ hồ nước tròn ở xa tít phía trên, giờ đã trở thành một dòng nước xiết, băng xuống qua bao sỏi đá trong lòng sông chẻ sâu dưới bóng nhựa ruồi và hoàng dương rợp kín. Nhìn về phía Tây, phía dưới, trong một vùng sáng mờ, có thể thấy những vùng đất thấp và những cánh đồng cỏ rộng, và xa hơn nữa, lấp lánh trong ánh mặt trời đang trôi về Tây, là con nước mênh mông của dòng Anduin.
“Tới đây, than ôi! tôi buộc phải làm một điều khiếm nhã đối với các cậu,” Faramir nói. “Tôi hy vọng các cậu sẽ thứ lỗi cho người cho tới giờ đã từ bỏ mệnh lệnh mà đổi lấy lòng hiếu khách khi không giết hoặc bắt trói các cậu. Thế nhưng vẫn còn một mệnh lệnh nghiêm cấm người lạ, kể cả người Rohan hiện đang chiến đấu cùng chúng tôi, nhìn thấy con đường mà giờ chúng ta sắp bước vào. Tôi sẽ phải bịt mắt các cậu lại.”
“Anh cứ việc,” Frodo nói. “Ngay cả người Tiên khi cần cũng phải làm vậy, và chúng tôi đã bịt mắt khi đi qua biên giới vùng đất Lothlórien đẹp đẽ. Gimli Người Lùn khó chịu về điều đó nhưng người Hobbit thì có thể chịu đựng được.”
“Nơi tôi sắp dẫn các cậu đến chẳng đẹp đẽ bằng,” Faramir nói “Thế nhưng tôi lấy làm mừng vì cậu sẵn lòng chấp nhận chứ không phải ép buộc.”
Anh ta cất tiếng gọi khẽ, ngay lập tức Mablung và Damrod bước ra khỏi đám cây và quay lại chỗ anh ta. “Hãy bịt mắt những người khách này lại,” Faramir nói. “Hãy bịt thật chắc chắn nhưng đừng làm họ khó chịu. Cũng đừng trói tay họ. Họ sẽ hứa là không cố nhìn. Tôi có thể tin tưởng họ sẽ tự giác nhắm mắt, thế nhưng con mắt sẽ chớp nếu bàn chân vấp ngã. Hãy dẫn họ để họ đừng hụt bước.”
Dùng hai chiếc khăn màu xanh những người cận vệ bịt mắt hai chàng Hobbit lại, và kéo mũ trùm xuống tới gần sát miệng họ; rồi họ nhanh chóng cầm lấy tay mỗi người dẫn đi. Tất cả những gì Frodo và Sam biết về dặm đường cuối cùng ấy chỉ do họ đoán mò trong bóng tối. Sau một hồi họ nhận ra mình đang đi trên một con dốc đổ xuống; chẳng lâu sau nó thu hẹp đến nỗi họ buộc phải đi hàng một, cọ vào vách đá ở cả hai bên; hai người cận vệ đi sau dùng tay giữ chặt vai họ để hướng họ đi. Thỉnh thoảng họ bước vào những vùng khó đi, và thấy mình được nhấc lên trong ít lâu, rồi lại được đặt xuống. Tiếng nước chảy lúc nào cũng ồn ào bên phải họ, mỗi lúc càng gần hơn và ồn ào hơn. Cuối cùng họ dừng chân. Mablung và Damrod xoay họ mấy vòng thật nhanh làm họ mất hết cảm giác về phương hướng. Họ trèo lên phía trên một chút: không khí ở đây có vẻ lạnh và tiếng dòng suối khuất dần. Rồi họ được nhấc lên và mang xuống bên dưới, xuống rất nhiều bậc thang, và đi vòng qua một góc đường. Đột nhiên họ lại nghe tiếng suối, giờ rất ồn ã, ào ạt và tung tóe. Dường như nó ở khắp xung quanh, họ cảm thấy như có cơn mưa phùn trên tay, trên má. Cuối cùng họ lại được đặt xuống. Họ cứ đứng vậy trong ít lâu, hơi sợ hãi trong cảnh mù lòa, không biết mình đang ở đâu; và chẳng có ai lên tiếng.
Rồi giọng Faramir cất lên ngay phía sau. “Cho họ nhìn đi!” anh ta nói. Hai tấm khăn được tháo ra cùng mũ trùm kéo về phía sau, họ hấp háy mắt và thở hắt ra kinh ngạc.
Họ đang đứng trên một sàn đá bóng loáng ướt nước, thực tế là bậc thềm trước một cổng vòm đục thô vào đá, đứng tối sầm đằng sau. Thế nhưng ở trước mặt một màn nước mỏng đang buông xuống, gần đến nỗi Frodo có thể vươn tay chạm vào nó. Nó nhìn về phía Tây. Ánh hoàng hôn đỏ rực là là phía sau chiếu qua màn nước vỡ ra thành muôn vàn tia run rẩy, màu sắc lấp lánh. Cảnh tượng như thể họ đang đứng trước ô cửa sổ một tòa tháp tiên, buông tấm rèm dệt bởi những sợi bạc, sợi vàng, và cả hồng ngọc, bích ngọc, thạch anh tím, tất cả được thắp bừng một ngọn lửa không bao giờ tắt.
“Ít ra thì chúng ta đã tình cờ đến đúng lúc để thưởng cho sự kiên nhẫn của các cậu,” Faramir nói. “Đây là Cửa Sổ Hoàng Hôn, Henneth Annûn, dòng thác đẹp nhất Ithilien, vùng đất của rất nhiều nguồn suối. Không nhiều người lạ từng có cơ hội nhìn thấy nó. Thế nhưng lại chẳng có tòa sảnh vua chúa nào ở phía sau để sánh với nó cả. Giờ hãy vào nhìn xem!”
Mặt trời lặn dần trong lúc anh ta nói, ánh lửa cũng lụi dần trong dòng nước chảy. Họ quay người và chui qua cổng vòm thấp hiểm trở. Ngay lập tức họ nhận thấy mình đang ở bên trong một căn phòng đá, rộng và lởm chởm, trần mái khum khum gồ ghề. Vài ngọn đuốc được thắp lên, hắt ánh sáng mờ nhạt lên những bức vách lấp lánh. Có rất nhiều người đã tập trung sẵn ở đó. Những người khác cũng đang đến, cứ hai hoặc ba người một, xuyên qua ô cửa hẹp tăm tối một bên vách. Khi mắt bắt đầu quen dần với bóng tối, hai chàng Hobbit nhận thấy cái hang này rộng hơn họ tưởng và chất đầy vũ khí lương thực.
“Đây là nơi trú ẩn của bọn tôi,” Faramir nói. “Không phải là một nơi quá thoải mái, nhưng ở đây các cậu có thể ngủ qua đêm nay một cách bình yên. Ít nhất thì nó cũng khô ráo, và có cả đồ ăn, cho dù không có lửa. Đã có thời dòng nước chảy xuống xuyên qua lòng hang này và đổ ra qua cổng vòm kia, nhưng giờ dòng đã bị nắn lại chảy qua khe núi phía trên bởi bàn tay của người xưa, và nước đổ xuống thành thác cao gấp đôi qua những vách đá tít trên cao. Mọi con đường dẫn vào hang đều bị bít lại để chặn nước vào cũng như mọi thứ khác, chỉ chừa lại duy nhất một. Giờ chỉ có hai lối ra: con đường mà các cậu được dẫn vào trong lúc bịt mắt ở đằng kia, và con đường xuyên qua tấm rèm Cửa Sổ xuống vũng nước sâu lởm chởm đầy lưỡi dao đá. Giờ các cậu hãy nghỉ ngơi đôi chút, cho đến lúc bữa tối được dọn ra.”
Hai chàng Hobbit được dẫn vào một góc và được dành cho một cái giường thấp để nằm nếu muốn. Trong khi đó những người khác tất bật khắp lòng hang, lặng lẽ và nhanh nhẹn nhưng trật tự. Những mặt bàn nhẹ được mang đến từ vách hang, đặt lên giá đỡ, đồ đạc được bày biện bên trên. Đa phần những thứ này đều đơn giản không trang trí, nhưng tất cả đều được chế tác đẹp đẽ: những khay tròn, những bát đĩa bằng gốm nâu tráng men hay gỗ hoàng dương bào nhẵn, thảy đều bóng bảy và sạch sẽ. Đây đó còn có chén hay chậu bằng đồng thau bóng loáng; và một chiếc cốc bằng bạc nguyên chất được đặt tại chỗ ngồi của Chỉ Huy ngay chính giữa bàn trong cùng.
Faramir đi lại giữa đám người, dừng chân hỏi han bằng giọng nhẹ nhàng mỗi lần có ai đi vào. Vài nguời đã quay lại sau khi truy đuổi bọn miền Nam; những người khác, ở lại trinh sát khu vực quanh con đường, về đến nơi sau cùng. Họ đã tính đủ số tất cả lũ người miền Nam, chỉ trừ con mûmak khổng lồ: chẳng ai biết chuyện gì đã xảy ra với nó. Không có động tĩnh nào từ phía kẻ thù được ghi nhận; thậm chí còn không có lấy một tên gián điệp Orc.
“Ngươi không bắt gặp hay nghe thấy gì sao, Anborn?” Faramir hỏi người về sau cùng.
“Không, thưa chỉ huy,” anh ta nói. “Chí ít là không có Orc. Thế nhưng tôi đã thấy, hoặc nghĩ mình đã thấy, một thứ gì đó khá kỳ lạ. Khi đó trời nhá nhem tối, thời điểm mà con mắt thường khiến mọi thứ trông lớn hơn. Vậy nên có thể nó chỉ là một con sóc không hơn.” Đến đây Sam vểnh tai lên nghe ngóng. “Song nếu vậy thì đó là một con sóc đen, và tôi không nhìn thấy đuôi nó. Nó trông như một cái bóng dưới đất, và nó vụt nấp vào sau một thân cây khi tôi đến gần, rồi trèo lên nhanh như sóc. Vì chỉ huy không cho phép chúng tôi giết hại động vật hoang vô ích, và nó có vẻ là thú hoang, nên tôi không bắn mũi tên nào. Dù sao thì cũng quá tối khó mà bắn trúng, và con vật đó đã chìm vào bóng tối lá cây chỉ trong nháy mắt. Tuy vậy tôi vẫn nán lại thêm chút nữa, bởi chuyện này có vẻ lạ lùng, rồi sau đó khẩn trương quay trở về. Trong lúc quay lại tôi nghĩ mình nghe thấy thứ đó rít lên với tôi phía trên đầu. Có lẽ nó là một con sóc lớn. Dưới bóng tối của Kẻ Không Tên, có lẽ một số loài thú rừng Âm U đang lang thang đến những khu rừng của chúng ta. Người ta vẫn hay nói ở đó có sóc đen.”
“Có lẽ,” Faramir nói. “Nhưng nếu vậy, đó sẽ là một điềm xấu. Chúng ta không muốn những thứ đào tẩu khỏi rừng Âm U đến Ithilien.” Sam tưởng như anh ta vừa nói vừa liếc nhanh về phía hai chàng Hobbit; nhưng chú chẳng nói gì. Trong suốt một lúc chú và Frodo chỉ nằm đó nhìn ánh đuốc và những người vừa đi qua đi lại thì thầm nói với nhau. Rồi đột nhiên Frodo chìm vào giấc ngủ.
Sam vật vã với chính mình, tự tranh cãi theo các hướng. “Có thể anh ta ổn thôi,” chú nghĩ, “nhưng cũng có thể là không. Lời hay vẫn có thể che tâm xấu.” Chú ngáp. “Mình có thể ngủ suốt một tuần, và nhờ vậy mình sẽ khá hơn. Mà mình có thể làm gì, nếu cứ tỉnh thế này, một mình, với cả đội Người Lớn khắp xung quanh? Chẳng gì hết Sam Gamgee ạ; nhưng dù thế nào thì mi cũng phải cố mà tỉnh.” Và bằng cách nào đó, chú đã tỉnh được. Ánh sáng tắt dần phía cửa hang, còn tấm màn nước màu xám cũng mờ đi rồi chìm vào bóng đêm đang dồn đến. Chỉ có tiếng nước là vẫn vậy, chẳng hề thay đổi điệu nhạc của mình, dù sáng hay chiều hay tối. Nó róc rách và thì thầm về giấc ngủ. Sam chống đốt ngón tay lên mắt.
Giờ thì có thêm nhiều đèn đuốc đang được thắp lên. Một thùng rượu được khui ra, nhiều thùng chứa được bật nắp. Mọi người đang hứng nước từ dòng thác, vài người đang rửa tay trong những chậu nước. Một chiếc bát đồng lớn và một mảnh vải trắng được đưa đến để Faramir rửa ráy.
“Hãy đánh thức những vị khách của chúng ta,” anh ta nói, “và mang nước cho họ. Đến giờ ăn rồi.”
Frodo ngồi dậy vừa ngáp vừa vươn người. Sam, không quen được phục vụ, ngạc nhiên nhìn người đàn ông cao lớn đang cúi mình, bưng chậu nước trước mặt chú.
“Làm ơn đặt nó xuống đất, thưa anh!” chú nói. “Vậy sẽ dễ dàng hơn cho cả tôi lẫn anh.” Rồi trước sự sửng sốt và thích thú của những Con Người xung quanh, chú nhúng cả cái đầu vào nước lạnh rồi táp nước lên cổ và tai.
“Vùng đất của anh có tập quán rửa đầu trước bữa tối à?” người đàn ông phục vụ hai chàng Hobbit hỏi.
“Không, trước bữa sáng,” Sam trả lời. “Nhưng đối với những ai thiếu ngủ, nước lạnh trên cổ cũng giống như mưa tưới lên rau diếp héo vậy. Được rồi! Giờ tôi có thể thức đủ lâu để ăn chút gì đó rồi.”
Sau đó họ được dẫn tới ngồi bên cạnh Faramir: chỗ của họ là những thùng gỗ phủ mấy tấm đá, cao hơn băng ghế cho Người, đủ cho họ được thoải mái. Trước khi ăn, Faramir và toàn bộ đội quân quay người hướng mặt về phía Tây rồi mặc niệm trong chốc lát. Faramir ra hiệu cho Frodo và Sam rằng họ cũng nên làm giống như vậy.
“Bọn tôi vẫn luôn làm vậy,” anh ta nói trong lúc họ ngồi xuống, “bọn tôi nhìn về nơi Númenor từng tồn tại, xa hơn nữa đến nơi Quê Tiên hiện đang tồn tại, và xa hơn cả Quê Tiên đến chốn sẽ còn tồn tại vĩnh viễn. Các cậu không có tục lệ nào như vậy trong bữa ăn ư?”
“Không,” Frodo vừa trả lời vừa cảm thấy mình thật thô lỗ và quê mùa hết sức. “Thế nhưng nếu chúng tôi là khách, chúng tôi sẽ cúi chào chủ nhà, và sau khi ăn uống xong, chúng tôi sẽ đứng lên cảm ơn.”
“Việc đó bọn tôi cũng làm,” Faramir nói.
Sau cả một thời gian dài chỉ biết đi rồi hạ trại, sau biết bao ngày lang thang trong chốn hoang vu cô độc, bữa tối này dường như là một bữa tiệc đối với hai chàng Hobbit: họ được uống thứ rượu màu vàng nhạt mát lạnh và thơm phức, họ được ăn bánh mì phết bơ, thịt muối, hoa quả khô, và một loại pho mát màu đỏ rất ngon, bằng đôi tay sạch sẽ, dao và đĩa cũng sạch sẽ. Cả Frodo lẫn Sam đều không từ chối bất cứ thứ gì được mời, cả những suất ăn thứ hai hoặc thậm chí thứ ba. Rượu chảy trong mạch máu và đôi tay đôi chân mệt mỏi, họ cảm thấy tim mình chưa từng vui mừng và bình yên hơn thế kể từ lúc rời khỏi vùng đất Lórien.
Khi tất cả đều xong xuôi, Faramir dẫn họ tới một góc lõm vào cuối hang, được màn rủ che đi một phần; bên trong đã bố trí sẵn một ghế tựa và hai ghế đẩu. Một ngọn đèn nhỏ bằng đất nung cháy leo lét trong một hốc đá.
“Có lẽ các cậu đang mong được ngủ sớm,” anh ta nói, “đặc biệt là Samwise tốt bụng, người không chịu nhắm mắt chừng nào chưa được ăn - không biết là do sợ bị cùn mất cơn đói lòng cao quý, hay sợ tôi. Thế nhưng đi ngủ quá sớm sau bữa ăn là một việc không tốt, nhất là khi đã đói ăn lâu ngày. Chúng ta hãy nói chuyện một lát. Chắc hẳn có rất nhiều điều để kể về cuộc hành trình của các cậu từ Thung Đáy Khe. Và bản thân các cậu có lẽ cũng muốn biết vài điều về chúng tôi và vùng đất các cậu đang đứng. Hãy kể về anh trai Boromir của tôi, về ông già Mithrandir, và về cả những cư dân đẹp đẽ rừng Lothlórien.”
Frodo không còn cảm thấy buồn ngủ nữa và cậu rất sẵn lòng nói chuyện. Nhưng hơi men và đồ ăn, dù có khiến cậu thoải mái đến đâu, vẫn không khiến cậu đánh mất hết sự thận trọng của mình. Sam đang tươi tỉnh và còn khẽ hát, nhưng khi Frodo lên tiếng ban đầu chú vừa lòng chỉ lắng nghe, thỉnh thoảng mới chen vào những tiếng tỏ vẻ đồng tình.
Frodo kể rất nhiều chuyện, song cậu luôn lái vấn đề ra khỏi nhiệm vụ của Hội Đồng Hành và chiếc Nhẫn, mà tập trung nhiều vào những hành động anh dũng của Boromir qua bao chặng gian nan, từ lúc chạm trán lũ sói hoang, lạc trong cơn bão tuyết dưới đỉnh Caradhras, cho đến lúc họ đi vào Moria nơi Gandalf ngã xuống. Faramir xúc động nhất trước câu chuyện về trận chiến trên cầu.
“Boromir hẳn đã rất tức tối khi phải chạy khỏi lũ Orc,” anh ta nói, “thậm chí là chạy khỏi thứ ác liệt mà cậu kể, tên Balrog - mặc dù anh ấy vẫn là người chạy cuối cùng.”
“Anh ấy là người cuối cùng,” Frodo nói, “nhưng Aragorn bị buộc phải dẫn dắt bọn tôi. Chỉ một mình anh ấy biết đường sau khi Gandalf không còn nữa. Thế nhưng nếu không phải lo lắng cho đám dân nhỏ bé bọn tôi, anh ấy và Boromir chắc đã không bỏ chạy như vậy.”
“Có lẽ, có thể sẽ hay hơn nếu Boromir ngã xuống đó cùng Mithrandir,” Faramir nói, “để khỏi phải đối mặt với số mệnh đã đợi sẵn ở thác Rauros.”
“Có lẽ. Nhưng giờ hãy kể cho tôi câu chuyện của anh đi,” Frodo nói, một lần nữa lại lái câu chuyện đi hướng khác. “Bởi tôi muốn hiểu nhiều hơn về Minas Ithil, Osgiliath và cả Minas Tirith thành phố trường tồn. Có hy vọng nào cho thành phố trong cuộc chiến trường kỳ của các anh không?”
“Hy vọng nào ư?” Faramir nói. “Đã lâu quá rồi kể từ khi chúng tôi còn có hy vọng nào. Thanh kiếm của Elendil, nếu nó thực sự trở lại, có thể sẽ nhen nhóm lên phần nào, nhưng tôi không nghĩ nó sẽ làm được gì hơn là tạm hoãn những ngáy tháng tăm tối lại, trừ khi có thêm những hỗ trợ không tính trước từ người Tiên và Con Người. Bởi Kẻ Thù đang mạnh lên còn bọn tôi thì đang yếu đi. Bọn tôi là một tộc người đang tàn lụi, một mùa thu không có mùa xuân.
“Người Númenor đã định cư trên một dải đất dài dọc miền duyên hải hoặc trông ra biển trên Lục Địa Lớn, thế nhưng đa phần bọn họ đã trở nên tà ác và điên rồ. Nhiều người đã mê đắm Bóng Tối và tà thuật; nhiều người trở nên biếng nhác và an phận; và nhiều người khác lại đánh lẫn nhau, cho đến khi họ bị những kẻ hoang dã chế ngự khi đã trở nên yếu ớt.
“Nói vậy không có nghĩa tà thuật đã từng được thực hành ở Gondor, hay Kẻ Không Tên từng được vinh danh ở đó; sự thông thái cùng cái đẹp ngày xưa từ phương Tây đưa về đã tồn tại dài lâu trong vương quốc của những người nối dõi Elendil Anh Tuấn và nay vẫn còn lưu lại đó. Song dù vậy thì chính Gondor đã tự đưa nó đến bờ suy tàn, từng chút từng chút rơi vào mục ruỗng, và luôn cho rằng Kẻ Thù đã ngủ quên, dù hắn mới chỉ bị đày đi chứ chưa hề bị tiêu diệt.
“Cái chết lúc nào cũng hiện diện quanh đây, bởi người Númenor, như thói quen ở vương quốc cổ xưa, vương quốc đã mất chính vì cớ đó, vẫn khao khát cuộc sống bất tử bất biến. Vua chúa xây dựng lăng mộ còn lộng lẫy hơn cả nhà cho người sống, và coi trọng những cái tên cổ trong phả hệ dòng dõi hơn cả tên con cái. Những vị chúa không con ngồi trong những căn sảnh già nua đắm đuối chiêm ngưỡng tấm quốc huy; những con người héo tàn luyện đơn trong những căn phòng bí mật, hay đọc tinh tú trên những tòa tháp cao lạnh lẽo. Và vị vua cuối cùng dòng dõi Anárion đã không để lại người nối dõi.
“Thế nhưng dòng quốc quản lại thông thái và may mắn hơn. Thông thái hơn bởi họ đã tuyển thêm sức mạnh cho dân tộc tôi từ người miền biển cường tráng, và từ người miền núi rắn rỏi trên dãy Ered Nimrais. Họ cũng đã hòa hoãn với những dân tộc miền Bắc kiêu hãnh, xưa kia thường tấn công chúng tôi, những người gan dạ ghê gớm, song cũng là họ hàng xa với chúng tôi, không giống như lũ người miền Đông hoang dã hay lũ người Haradrim tàn bạo.
“Rồi đến thời Cirion Quốc Quản đời thứ Mười hai (cha tôi là đời thứ hai mươi sáu), họ đã cưỡi ngựa đến trợ giúp chúng tôi, và trên Đồng Celebrant rộng lớn họ đã tiêu diệt kẻ thù đang chiếm đoạt những tỉnh phía Bắc của chúng tôi. Họ là người Rohirrim, như tên chúng tôi gọi họ, chủ nhân loài ngựa, và chúng tôi đã nhượng cho họ những cánh đồng Calenardhon mà kể từ đó được gọi là Rohan; bởi vùng đất đó từ lâu thưa thớt bóng ngư?