← Quay lại trang sách

Chương VIII Y VIỆN

Làn sương nước mắt và mệt mỏi che phủ trước mắt Merry khi họ tới gần Đại Môn đổ nát của Minas Tirith. Cậu không mấy quan tâm tới đống hoang tàn và cảnh chém giết khắp xung quanh. Lửa khói và mùi hôi thối tràn ngập không trung; vì nhiều cỗ máy chiến tranh đã bị đốt hoặc ném xuống các hố lửa, và nhiều người chết trận cũng vậy, trong khi đây đó rải rác nhiều xác lũ quái vật khổng lồ của miền Nam, nửa cháy thiêu, hoặc bị đá ném quỵ, hoặc bị những cung thủ Morthond anh dũng bắn vào mắt. Cơn mưa bụi đã ngớt được một lúc, và mặt trời sáng chói trên cao; nhưng toàn bộ nửa dưới thành phố vẫn bao phủ trong làn khói âm ỉ hôi thối.

Người ta đã bắt đầu làm việc để dọn đường qua tàn dư trận chiến, và giờ một vài người mang cáng ra khỏi Đại Môn. Nhẹ nhàng họ đặt Éowyn lên gối mềm; nhưng thi thể nhà vua họ phủ tấm chăn vàng lớn, và mang đuốc đi quanh ông, lửa đuốc nhợt nhạt dưới ánh mặt trời, rung rinh trong gió.

Vậy là Théoden và Éowyn đã vào Kinh Thành Gondor, và tất cả những người thấy họ đều để đầu trần và cúi đầu; qua tro và khói của vòng thành bị đốt phá, họ đi tiếp lên những con phố đá. Với Merry, chuyến đi lên tưởng chừng dài cả thế kỷ, một chuyến đi vô nghĩa trong giấc mơ đáng ghét, đi mãi đi mãi tới cái đích nhạt nhòa nào đó mà trí nhớ không thể nắm bắt.

Dần dần những ánh đuốc đằng trước lập lòe rồi tắt hẳn, cậu đi trong bóng tối; và cậu nghĩ: “Đây là đường hầm dẫn tới lăng mộ; chúng ta sẽ ở lại đó mãi mãi.” Nhưng đột nhiên giữa giấc mơ màng một giọng nói sống động vang lên.

“Chà, Merry! Cảm ơn trời là em đã tìm thấy anh!”

Cậu ngước lên và màn sương trước mắt tan đi đôi chút. Đó là Pippin! Họ đứng đối diện nhau trên ngách đường hẹp, ngoài họ ra thì chẳng có ai hết. Cậu dụi mắt.

“Đức vua đâu rồi?” cậu hỏi. “Còn Éowyn?” Và cậu loạng choạng rồi ngồi xuống thềm cửa và lại bắt đầu khóc.

“Họ đã lên Hoàng Thành rồi,” Pippin nói. “Em nghĩ chắc là anh vừa đi vừa ngủ gật và rẽ nhầm đường đấy. Khi chúng em thấy anh không đi cùng họ, Gandalf cử em đi tìm anh. Ông anh Merry tội nghiệp! Gặp lại anh em mới vui chứ! Nhưng anh kiệt sức rồi, và em sẽ không nói huyên thuyên làm phiền anh nữa. Nhưng nói cho em biết, anh có bị đau, hay bị thương không?”

“Không,” Merry nói. “Chà, không, anh nghĩ là không. Nhưng anh không thể dùng tay phải nữa, Pippin ạ, kề từ khi đâm hắn. Còn kiếm của anh thì cháy trụi như mẩu gỗ.”

Gương mặt Pippin tràn ngập lo lắng. “Chậc, anh nên đi cùng em càng nhanh càng tốt,” cậu nói. “Em ước mình cõng nổi anh đi. Anh không đủ sức tiếp tục đi nữa. Lẽ ra họ không nên để anh đi bộ, nhưng anh phải tha thứ cho họ thôi. Có quá nhiều điều tồi tệ đã xảy ra ở Kinh Thành, Merry ạ, khiến một người Hobbit tội nghiệp từ trận chiến đi vào rất dễ không được để ý.”

“Không phải lúc nào không được để ý cũng là xui xẻo,” Merry nói. “Anh vừa không bị để ý khi - không, không, anh không thể nói chuyện đó được. Giúp anh với, Pippin! Tất cả lại tối sầm, và tay anh lạnh quá.”

“Dựa vào em, anh Merry quý hóa!” Pippin nói. “Đi nào! Từng bước một. Không xa đâu.”

“Em đem anh đi chôn à?” Merry hỏi.

“Không, làm gì có!” Pippin nói, cố gắng tỏ ra vui vẻ, dù trái tim cậu muốn quặn thắt vì sợ hãi và thương cảm. “Không, chúng ta đi đến Y Viện.”

Họ rời khỏi ngách đường chạy giữa những ngôi nhà cao và tường ngoài vòng thành thứ tư, lại vào phố chính và đi lên Hoàng Thành. Họ đi từng bước một, trong khi Merry lảo đảo và thì thầm như thể đang nói mơ.

“Mình sẽ không bao giờ đưa được anh ấy tới nơi,” Pippin nghĩ. “Không ai đến giúp mình sao? Mình không thể để anh ấy lại đây.” Đúng lúc đó cậu ngạc nhiên thấy một cậu bé chạy tới phía sau, và lúc cậu bé chạy qua, cậu nhận ra Bergil con trai Beregond.

“Chào nhóc, Bergil!” cậu gọi. “Nhóc đang đi đâu thế? Rất vui được gặp lại nhóc vẫn còn sống!”

“Cháu đang chạy việc cho các Y Sư,” Bergil nói. “Cháu không ở lại được.”

“Đừng ở lại!” Pippin nói. “Nhưng bảo mấy người trên đó là tôi có một người Hobbit ốm bệnh ở đây, một perian đó, tới từ chiến trường. Tôi không nghĩ anh ấy có thể đi bộ xa thế. Nếu Mithrandir ở đây, ông ấy sẽ hài lòng khi nhận được tin này.” Bergil chạy tiếp.

“Mình tốt nhất nên đợi ở đây,” Pippin nghĩ. Thế nên cậu để Merry nhẹ nhàng nằm xuống trên vỉa hè dưới một khoảng nắng trời, và cậu ngồi xuống cạnh bạn mình, để đầu Merry gối lên lòng. Cậu nhẹ nhàng sờ nắn cơ thể và tay chân cậu ta, và nắm lấy cả hai tay bạn. Tay phải Merry lạnh như băng.

Không lâu sau chính Gandalf xuống tìm họ. Ông cúi xuống Merry vuốt ve trán cậu; rồi ông cẩn thận bế cậu lên. “Cậu ấy lẽ ra phải được đưa vào thành phố trong vinh dự,” ông nói. “Cậu ấy đã đáp trả xứng đáng lòng tin tưởng của ta; vì nếu Elrond không nhượng bộ ta, cả hai cậu đều đã không đi; và rồi những tai ương ngày hôm nay sẽ còn trầm trọng hơn nhiều.” Ông thở dài. “Và đây lại thêm một bệnh nhân trên tay ta, trong khi lúc này trận chiến đang lửng lơ ở thế cân bằng.”

Vậy là cuối cùng Faramir và Éowyn và Meriadoc được đặt nằm trên giường trong Y Viện; và họ được chăm sóc cẩn thận. Vì cho dù tất cả những tri thức của thời mạt kỳ này không còn trọn vẹn như xưa, y thuật của người Gondor vẫn uyên thâm, lão luyện trong việc trị thương cùng chỗ đau, và tất cả những chủng bệnh tật mà người phàm phía Đông Đại Dương có thể mắc phải. Chỉ trừ tuổi già. Với nó, họ không có phương thuốc nào; và thực tế là tuổi thọ của họ giờ đã suy giảm chỉ còn hơn những giống người khác một chút, và trong số họ, những người sống qua cái mốc năm lần hai mươi năm mà vẫn còn cường tráng ngày càng ít, trừ trong một vài gia tộc thuần huyết. Nhưng giờ tri thức và kỹ năng của họ lại bất lực; vì nhiều người mắc phải thứ bệnh không ai chữa được; và họ gọi là Bóng Ma Đen, vì nó đến từ bọn Nazgûl. Và những người mắc phải chứng này từ từ chìm vào một giấc mơ ngày càng sâu, tới khi rơi vào im lặng và cơn lạnh chết chóc, và rồi ra đi. Và những người chăm sóc thấy căn bệnh này trầm trọng ở chàng Tí Hon và Công Chúa Rohan. Dù vậy thảng hoặc, trong khi buổi sáng dần trôi qua, họ lại lên tiếng, thì thầm trong giấc mơ; và những người quan sát lắng nghe tất cả mọi điều họ nói, có lẽ hy vọng biết được điều gì họa chăng giúp họ hiểu được sự đau đớn của bệnh nhân. Nhưng rồi chẳng mấy chốc họ lại rơi vào bóng tối, và khi mặt trời di chuyển về Tây, cái bóng xám đã bò lan trên mặt họ. Còn Faramir thì cháy rực trong cơn sốt không chịu hạ.

Gandalf đi từ người này tới người kia đầy lo lắng, và ông được nghe kể lại mọi điều những người chăm sóc nghe được. Và cứ thế ngày hôm ấy trôi qua, trong khi cuộc chiến vĩ đại bên ngoài tiếp tục với hy vọng trồi sụt và những biến chuyển lạ lùng; Gandalf vẫn chờ đợi và quan sát, không đi ra ngoài, cho tới khi cuối cùng hoàng hôn đỏ thẫm bao phủ toàn bộ bầu trời, ánh sáng chiếu qua cửa sổ rơi lên gương mặt sạm đen của người bệnh. Thế rồi những người đứng cạnh thấy mặt họ lại ửng hồng thì ngỡ sức khỏe họ đã trở lại, nhưng đó chỉ là chút hy vọng dối lừa.

Rồi một bà già, Ioreth, già nhất trong đám đàn bà hộ lý ở ngôi viện ấy, nhìn gương mặt thanh tú của Faramir và khóc, bởi dân chúng thảy đều yêu quý chàng. Và bà nói: “Não lòng thay nếu ngài phải chết! Giá như ở Gondor vẫn còn vua, như đã từng có từ ngày xửa ngày xưa, người ta bảo vậy! Vì những tích truyện xưa vẫn kể: bàn tay nhà vua là bàn tay y sư. Và đó là cách người ta nhận ra vì vua đích thực.”

Và Gandalf đứng cạnh lên tiếng: “Cầu cho con người ghi nhớ lời bà dài lâu, Ioreth! Vì những lời ấy mang hy vọng. Có thể một vị vua thưc sự đã trở về Gondor; chẳng lẽ bà không nghe những tin tức lạ lùng đã tới Kinh Thành?”

“Tôi bận trăm thứ việc, chả lưu tâm nổi tất cả những tiếng kêu khóc la hét,” bà trả lời. “Chỉ hy vọng có một điều là đám ác quỷ sát nhân kia không tới Viện này làm phiền người bệnh.”

Rồi Gandalf vội vã đi ra, khi lửa trên trời đang dần tắt, những ngọn đồi bốc khói đang mờ dần, trong khi buổi đêm màu tro xám trườn qua những cánh đồng.

Giờ khi mặt trời đang lặn, Aragorn cùng Éomer và Imrahil lại gần Kinh Thành dẫn theo các chỉ huy và kỵ sĩ; và khi họ tới trước Đại Môn, Aragorn nói:

“Kìa hãy nhìn Mặt Trời lặn xuống trong lửa cháy! Đó là dấu hiệu nhiều điều đang kết thúc và sụp đổ, và những đợt triều thế giới đang đổi thay. Nhưng Kinh Thành và vương quốc này đã nằm yên dưới sự cai trị của dòng Quốc Quản trong nhiều năm dài, và tôi sợ nếu mình cứ thế mà tiến vào thì nghi ngờ và tranh luận sẽ nổi lên, điều không nên có khi cuộc chiến vẫn còn tiếp diễn. Tôi sẽ không vào, cũng không xưng thân phận, cho tới khi xác định được chúng ta hay Mordor thắng thế. Hãy sai quân sĩ dựng trại trên đồng, và tôi sẽ chờ đợi lời chào của Chúa Thành ở đây.”

Nhưng Éomer nói: “Anh đã giương cờ của Các Vua và trưng bày tín vật của Gia tộc Elendil rồi. Chẳng lẽ anh chấp nhận để chúng bị ngờ vực ư?”

“Không,” Aragorn đáp. “Nhưng tôi thấy thời điểm chưa chín muồi; vì chẳng có bụng tranh đoạt trừ với Kẻ Thù và đám bầy tôi.”

Hoàng thân Imrahil bèn nói: “Lời của người thực là sáng suốt, thưa vương tử, nếu một người bà con của Chúa Denethor được phép khuyên người trong chuyện này. Ngài ấy cứng cỏi và kiêu hãnh, nhưng già nua; và tâm trạng ngài ấy đã biến đổi lạ lùng từ khi con trai ngài ngã xuống. Nhưng tôi không chịu để người ở lại đây như tên ăn mày trước cửa đâu.”

“Không phải tên ăn mày,” Aragorn nói. “Mà là một chỉ huy dân Tuần Du, kẻ không quen với đô thành và những ngôi nhà đá.” Nói đoạn chàng ra lệnh cuộn cờ hiệu lại; và chàng tháo Ngôi Sao của Vương Quốc Bắc xuống đưa cho các con trai Elrond cất giữ.

Rồi Hoàng thân Imrahil và Éomer đất Rohan từ giã chàng mà đi qua Kinh Thành và đám đông ồn ã, lên tới tận Hoàng Thành; rồi họ tới Đại Sảnh Tháp tìm Quốc Quản. Nhưng họ thấy ghế ông ta trống không, và trước bệ ngai, Théoden Vua đất Mark nằm trên chiếc giường long trọng; có mười hai ngọn đuốc cắm quanh, và mười hai lính gác, những kỵ sĩ của cả Rohan và Gondor. Và vải phủ giường mang màu xanh trắng, nhưng đắp lên tận ngực nhà vua là tấm chăn vàng lớn, đặt trên là thanh kiếm tuốt trần, dưới chân ông dựa tấm khiên. Ánh đuốc lấp lánh trên mái đầu bạc như mặt trời chiếu lên bụi nước đài phun, nhưng gương mặt ông đẹp đẽ và trẻ trung, chỉ trừ trên khuôn mặt mang vẻ thanh thản mà tuổi trẻ không sao đạt tới; và trông ông như đang ngủ.

Khi họ đã đứng yên lặng cạnh nhà vua một lúc. Imrahil nói: “Quốc Quản đâu? Và Mithrardir cũng ở đâu rồi?”

Một người lính gác trả lời: “Quốc Quản Gondor đang ở trong Y Viện.”

Éomer bèn hỏi: “Công Chúa Éowyn, em gái ta đâu; hiển nhiên nó nên nằm đây bên cạnh đức vua, không kém phần vinh dự chứ? Người ta đặt nó ở đâu?”

Và Imrahil nói: “Nhưng Công Chúa Éowyn vẫn còn sống khi người ta đưa nàng tới đây. Ngài không biết sao?”

Rồi hy vọng không mong đợi ùa đến trái tim của Éomer mới đột ngột làm sao, cùng với nó lo âu và sợ hãi nhói lên trở lại, đến nỗi chàng không nói gì nữa, liền quay lưng vội vã rời khỏi sảnh đường; Hoàng thân đi theo chàng. Khi họ ra ngoài phố, buổi tối đã đến và vô vàn sao lấp lánh trên trời. Và Gandalf đang đi tới, cùng một người khoác áo choàng xám, họ gặp nhau trước cửa Y Viện. Họ chào Gandalf mà nói: “Chúng tôi tìm Quốc Quản, người ta nói ngài đang ở Viện này. Ngài bị thương gì ư? Còn Công Chúa Éowyn, nàng đâu?”

Gandalf bèn trả lời: “Nàng nằm trong đó và chưa chết, nhưng đang hấp hối. Còn Chúa Faramir bị thương bởi một mũi tên hiểm độc, như các anh đã được nghe, và giờ ngài là Quốc Quản; bởi Denethor đã từ trần, cung của ngài ấy chỉ còn là đống tro tàn.” Và họ tràn ngập đau buồn lẫn kinh ngạc trước câu chuyện mà ông kể.

Imrahil buồn rầu nói: “Vậy là chiến thắng bị tước mất niềm vui, và cái giá phải trả quả là quá đắt, nếu cả Gondor và Rohan đều mất người đứng đầu cùng trong một ngày. Éomer sẽ trị vì người Rohirrim. Ai sẽ cai trị Kinh Thành trong lúc đó? Chúng ta có nên đi gọi Vương tử Aragorn không?”

Bấy giờ người khoác áo choàng lên tiếng: “Anh ta đến đây rồi.” Và khi người đó bước vào ánh sáng ngọn đèn treo trên cửa, họ thấy đó là Aragorn, trùm áo choàng xám Lórien bên ngoài áo giáp, không mang chứng vật gì ngoài viên ngọc xanh của Galadriel. “Tôi tới đây vì Gandalf nài nỉ tôi làm vậy,” chàng nói. “Nhưng lúc này tôi chỉ là Thủ Lĩnh dân Dúnedain nước Arnor; và Lãnh chúa Dol Amroth sẽ cai trị Kinh Thành cho tới khi Faramir tỉnh dậy. Nhưng lời khuyên của tôi là Gandalf nên lãnh đạo tất cả chúng ta những ngày tới trong kế hoạch đối phó với Kẻ Thù.” Và họ đều đồng thuận.

Đến đây Gandalf nói: “Chúng ta đừng nấn ná ở cửa nữa, vì thời gian khẩn cấp lắm rồi. Đi vào thôi! Vì chỉ khi Aragorn tới hy vọng mới tồn tại cho những người ốm nằm trong Viện này. Đấy là lời Ioreth, nhà nữ thông thái Gondor đã nói: bàn tay nhà vua là bàn tay y sư, và đó là cách người ta nhìn ra vì vua đích thực.”

Rồi Aragorn vào đầu tiên và những người khác đi theo. Ở cửa có hai người gác mặc chế phục Hoàng Thành: một người cao, nhưng người còn lại chỉ vừa vặn bằng một cậu bé; và khi thấy họ, cậu kêu to lên ngạc nhiên sung sướng.

“Sải Chân Dài! Tuyệt quá! Anh biết không, em đã đoán chính là anh đi trên đoàn tàu đen. Nhưng ai cũng hét hải tặc và chẳng chịu nghe em. Anh làm thế nào mà được vậy?”

Aragorn phá lên cười và nắm lấy tay cậu Hobbit. “Đúng thật là khéo gặp!” chàng nói. “Nhưng giờ chưa phải lúc cho những câu chuyện của kẻ lãng du.”

Imrahil thì nói với Éomer: “Thế chúng ta sẽ thưa bẩm với đấng quân vương như vậy à? Mà hẳn là ngài sẽ đội vương miện dưới một cái tên khác!”

Aragorn nghe thấy lời ông bèn quay lại nói: “Đúng đó, vì trong ngôn ngữ cao quý xa xưa, tôi là Elessar, hay Ngọc Tiên, và Envinyatar, Người Khôi Phục”: đoạn chàng nâng viên ngọc xanh trước ngực lên. “Nhưng Sải Chân Dài sẽ là tên gia tộc tôi, nếu có bao giờ nó được thiết lập. Trong ngôn ngữ cao quý nó không nghe xấu xí đến vậy đâu, và tôi sẽ mang tên Telcontar cũng như tất cả những hậu duệ trực hệ của tôi.”

Và nói đến đó, họ đi vào Y Viện; và khi họ tới căn phòng nơi những người bệnh được chăm sóc, Gandalf kể về chiến công của Éowyn và Meriadoc. “Bởi,” ông nói, “tôi đã đứng rất lâu bên họ và lúc đầu họ nói nhiều trong cơn mê sảng, trước khi chìm vào bóng tối chết chóc. Cũng bởi vì tôi được trao khả năng nhìn xa nhiều chuyện.”

Aragorn tới bên Faramir đầu tiên, rồi tới Công Chúa Éowyn, và cuối cùng tới Merry. Khi đã nhìn gương mặt các người bệnh và thấy bệnh trạng cả ba, chàng thở dài. “Tôi sẽ phải sử dụng tất cả quyền năng và tài nghệ được trao cho tôi vào việc này,” chàng nói. “Giá mà Elrond ở đây, vì ngài là người lớn tuổi nhất trong tất cả chủng tộc chúng tôi, nên có quyền năng lớn hơn nhiều.”

Éomer thấy chàng vừa buồn bã vừa mệt mỏi, liền lên tiếng: “Chắc hẳn đầu tiên anh phải nghỉ ngơi, và ít nhất hãy ăn một chút gì đã chứ?”

Nhưng Aragorn đáp: “Không, với ba người này, nhất là với Faramir, thời gian đang cạn dần. Cần phải thật khẩn trương.”

Rồi chàng gọi Ioreth và nói: “Bà có trữ thảo dược trị thương trong Viện này không?”

“Có, thưa ngài,” bà trả lời: “nhưng không đủ, tôi nghĩ vậy, cho tất cả những người cần đến. Mà tôi chắc là tôi không biết ta có thể tìm thêm ở đâu, vì cái gì cũng sai trái trong những ngày khủng khiếp này, nào là lửa cháy và đốt phá, và có ít cậu nhóc chạy việc quá, mà đường nào cũng bị ngăn trở. Sao chứ, vô số ngày đã trôi qua mà chẳng có xe chở hàng từ Lossarnach đến chợ! Dù sao chúng tôi cũng gắng hết sức ở Viện này với những gì mình có, một điều tôi chắc ngài cũng hiểu.”

“Ta sẽ đánh giá khi ta thấy,” Aragorn nói. “Cũng còn một thứ không đủ nữa: thời gian nói chuyện. Bà có lá athelas không?”

“Tôi không biết, tôi chắc đấy, thưa ngài,” bà trả lời, “ít nhất thì tôi cũng không biết cái tên đó. Tôi sẽ đi hỏi thầy thảo dược; ông ấy biết tất cả những tên cổ.”

“Nó còn được gọi là lá vua,” Aragorn nói; “và có lẽ bà biết nó dưới cái tên đó, vì người nhà quê vẫn gọi nó như vậy về sau này.”

“Ồ loại đó!” Ioreth nói. “Chà, nếu ngài gọi tên đó ngay từ đầu thì tôi đã cho ngài biết luôn rồi. Không, chúng tôi không có. Tôi chắc đấy. Hử, tôi chưa bao giờ nghe nói nó có công hiệu gì sất; và thực tình là tôi vẫn thường nói với chị em khi đi ngang thấy nó mọc trong rừng: ‘lá vua à,’ tôi nói, ‘đúng là tên lạ tên lùng, tôi chẳng hiểu tại sao nó lại được gọi như vậy; vì nếu tôi là vua ấy à, tôi sẽ trồng trong vườn những loại cây sáng sủa hơn’. Dù sao thì nó cũng có mùi thơm khi bị vò nát, đúng không? Nếu thơm là từ đúng: lành có lẽ sẽ chính xác hơn.”

“Rất lành,” Aragorn nói. “Và giờ, thưa đại phu nhân, nếu bà yêu mến Chúa Faramir, hãy chạy nhanh như cái lưỡi của bà và lấy lá vua về đây cho ta, nếu có lá nào trong Kinh Thành.”

“Còn nếu không,” Gandalf nói. “ta sẽ phi ngựa tới Lossarnach chở theo Ioreth, và bà sẽ chỉ cho ta tới khu rừng, chứ không phải tới chỗ chị em của bà. Và Scadufax sẽ dạy cho bà biết thế nào là khẩn.”

Khi Ioreth đã đi khỏi, Aragorn sai những người đàn bà khác đun nước nóng. Rồi chàng cầm lấy tay Faramir trong tay mình, đặt tay kia lên trán người bệnh. Trán ướt đẫm mồ hôi; nhưng Faramir không cử động hay có dấu hiệu nào, và gần như không thở.

“Anh ấy gần kiệt quệ rồi.” Aragorn nói với Gandalf. “Nhưng điều này không phải vì vết thương. Thấy không! nó đang lành. Nếu anh ấy trúng mũi tên nào đó của bọn Nazgûl, như ông nghĩ, anh ấy hẳn đã chết đêm đó. Tôi đoán vết thương này do tên của quân miền Nam tạo nên. Ai nhổ nó ra? Có còn giữ không?”

“Tôi nhổ nó ra,” Imrahil nói, “và cầm máu vết thương. Nhưng tôi không giữ mũi tên, vì chúng tôi còn nhiều việc phải làm. Tôi nhớ đó chỉ là loại tên lũ miền Nam vẫn thường dùng. Nhưng tôi cũng tin rằng nó đến từ Bóng Ma trên không, vì nếu không phải hiểu cơn sốt của ngài thế nào đây; vì vết thương không sâu hay trí mạng. Thế người giải nghĩa chuyện này như thế nào?”

“Kiệt sức, đau buồn vì thái độ của cha mình, một vết thương, và trên hết là Hơi Thở Hắc Ám,” Aragorn nói. “Anh ấy là người có ý chí kiên cường, vì anh ấy đã đến gần Bóng Ma ngay từ trước khi lao vào trận chiến trên vòng tường ngoại. Bóng tối hẳn đã chầm chậm trườn đến, ngay trong khi anh ấy chiến đấu và vật lộn giữ lấy tiền đồn. Giá mà tôi có thể đến đây sớm hơn!”

Ngay sau đó thầy thảo dược trở lại. “Đức ngài yêu cầu lá vua, như những kẻ quê mùa vẫn gọi,” ông ta nói; “hay athelas theo ngôn ngữ cao quý, hoặc như những người biết đôi chút về tiếng Valinor gọi...”

“Ta yêu cầu đấy,” Aragorn nói, “và ta không quan tâm giờ ông gọi nó là asëa aranion hay lá vua, miễn là ông có một ít.”

“Rất xin lỗi, thưa ngài!” người kia nói. “Tôi thấy ngài là bậc am tường tích truyện, chứ không chỉ đơn thuần là một người chỉ huy chinh chiến. Nhưng than ôi! thưa ngài, chúng tôi không trữ thứ đó trong Y Viện, nơi chỉ người ốm hoặc người bị thương nặng được chăm sóc. Vì nó không có công hiệu gì theo như chúng tôi biết, có lẽ chỉ trừ để làm thơm bầu không khí hôi hám, hoặc để xua đi cảm giác nặng nề. Trừ phi, dĩ nhiên, ngài lưu tâm đến những vần thơ thời xưa, mà những bà già như Ioreth tử tế của chúng tôi vẫn lặp đi lặp lại mà không hiểu.

Khi hơi thở hắc ám

gọi bóng ma tử thần

khi tắt mọi ánh sáng

chính athelas cần!

Người hấp hối sẽ sống

nhờ tay vua chữa lành.

Tôi sợ rằng đó chỉ là một bài vè nhảm nhí mà thôi, đã méo mó thêm trong trí nhớ của các bà già. Tôi sẽ nhường ngài phán đoán về ý nghĩa của chúng, nếu thực có ý nghĩa nào. Nhưng những người già vẫn hãm loại cỏ này để chữa đau đầu.”

“Thế thì nhân danh nhà vua, đi kiếm người già nào ít hiểu biết bằng nhưng nhiều sáng suốt hơn mà cất nó trong nhà đi!” Gandalf kêu lên.

Lúc này Aragorn quỳ xuống cạnh Faramir, đặt tay lên trán chàng. Và những người đang quan sát cảm thấy như đang diễn ra cuộc đấu tranh dữ dội. Bởi gương mặt Aragorn tái xám vì mệt mỏi; nhưng không ngừng chàng gọi tên Faramir, tuy mỗi lần lại nhỏ hơn trong tai họ, như thể chính Aragorn không còn ở đây mà đang đi xa vào thung lũng tối tăm nào đó, gọi tên một người lạc lối.

Và cuối cùng Bergil chạy bổ vào phòng, cầm theo sáu chiếc lá gói trong mảnh vải. “Lá vua đây, thưa ngài,” cậu nói, “nhưng cháu sợ là không tươi lắm. Chắc đã hái ít nhất từ hai tuần trước. Cháu mong là dùng được chứ, thưa ngài?” Rồi nhìn Faramir, cậu òa khóc.

Nhưng Aragorn mỉm cười. “Dùng được,” chàng nói. “Điều tồi tệ nhất đã qua rồi. Ngồi xuống và yên tâm đi!” Rồi cầm lấy hai cái lá, chàng đặt trong tay, thở vào rồi vò nát, và ngay lập tức mùi hương tươi mát tràn ngập căn phòng, như thể chính không trung đã thức tỉnh và bỗng rộn ràng, lấp lánh niềm vui. Rồi chàng thả lá vào những bát nước nóng bốc hơi vừa mang tới, và ngay lập tức mọi trái tim đều trở nên nhẹ nhõm. Vì mùi hương đến với mỗi người như ký ức về những buổi sáng đẫm sương đêm dưới mặt trời không bị che phủ, ở miền đất nào đó mà cả thế giới tươi đẹp giữa Mùa Xuân cũng chỉ là kỷ niệm thoáng qua về nơi ấy. Nhưng Aragorn đứng dậy như vừa được tiếp thêm sức lực, và đôi mắt toát lên ánh cười khi chàng bưng một bát nước trước gương mặt mê man của Faramir.

“Chà! Ai tin nổi chư?” Ioreth nói với một người đàn bà đang đứng bên cạnh. “Loại cỏ này tốt hơn tôi tưởng. Nó khiến tôi nhớ đến những đóa hồng ở Imloth Melui hồi tôi còn thiếu nữ, và chẳng vua nào có thể đòi hỏi nhiều hơn đâu.”

Đột nhiên Faramir cựa mình, mở mắt, và chàng nhìn Aragorn đang cúi xuống mình; rồi một tia sáng nhận thức xen lẫn trìu mến lấp lánh trong mắt chàng, chàng nói khẽ. “Chúa thượng, người cho gọi thần. Thần đã tới. Đức vua ra lệnh điều gì?”

“Đừng lang thang trong bóng tối nữa mà tỉnh lại đi!” Aragorn nói. “Ngươi đang mệt mỏi. Hãy nghỉ ngơi một thời gian và ăn uống, và hãy sẵn sàng khi ta trở lại.”

“Thần sẽ làm đúng như lời, thưa chúa thượng,” Faramir nói. “Vì ai có thể nằm không khi đấng quân vương đã trở về?”

“Vậy tạm biệt một lát!” Aragorn nói. “Ta phải đến với những người khác cũng đang cần ta.” Nói đoạn chàng rời khỏi phòng với Gandalf và Imrahil; nhưng Beregond và con trai ở lại sau, không kiềm chế nổi nỗi vui mừng. Và khi đi theo sau Gandalf và đóng cửa lại, Pippin nghe thấy Ioreth kêu lên:

“Đức vua! Bà nghe thấy không? Tôi đã nói gì chứ? Bàn tay y sư, tôi đã bảo mà.” Và rồi không lâu sau tin lọt ra từ Viện cho biết rằng nhà vua đích thực đã tới giữa họ, và sau chiến tranh, ngài mang tới sự chữa lành; tin tức ấy lan khắp Kinh Thành.

Nhưng Aragorn tới bên Éowyn, chàng nói: “Đây là một vết thương sâu và một cú đánh nặng nề. Cánh tay bị gãy đã được chăm sóc bằng y thuật giỏi, và dần dà nó sẽ lành, nếu nàng có đủ sức lực mà sống tiếp. Tay cầm khiên gãy; nhưng tai họa chính là ở tay cầm kiếm. Giờ tay ấy không còn sức sống bên trong, dù không bị gãy.

“Than ôi! Đó là vì nàng phải đương đầu với kẻ địch vượt quá sức mạnh của tâm trí hay thân thể nàng. Và những người dám giơ vũ khí chống lại một kẻ địch như thế phải vững vàng hơn sắt thép, nếu không muốn bị hủy diệt vì bản thân cú sốc. Định mệnh ác nghiệt đã đặt nàng trên đường của hắn. Vì nàng là một thiếu nữ đẹp đẽ, quý nương đẹp nhất trong gia tộc những nữ hoàng. Vậy mà tôi không biết nên nói về nàng ra sao. Khi lần đầu tiên thấy nàng và nhận ra nỗi buồn khổ trong lòng nàng, dường như tôi thấy một bông hoa trắng vươn thẳng và kiêu hãnh, xinh đẹp như đóa huệ, và dù vậy, vẫn biết nó rắn như thép đã được chính những thợ rèn tiên tôi luyện. Hay là có thể hơi giá đã khiến nhựa sống biến thành băng, và nó đứng đó, cay đắng lẫn ngọt ngào, vẫn đẹp đẽ trước mắt nhìn, nhưng ốm yếu, chẳng bao lâu sẽ đổ xuống và héo rũ? Cơn bệnh của nàng đã bắt đầu từ trước ngày hôm nay rất lâu, không phải sao, Éomer?”

“Tôi ngạc nhiên là anh hỏi tôi đấy, thưa bệ hạ,” Éomer đáp “Vì tôi không trách anh chuyện này, cũng như trong mọi chuyện khác; nhưng tôi không nghĩ Éowyn em gái tôi từng phải chịu đựng hơi giá nào cho tới khi nhìn thấy anh lần đầu tiên. Lo lắng và sợ hãi, nó đã chia sẻ tâm sự với tôi, từ những ngày còn Lưỡi Giun và đức vua bị bỏ bùa mê; và nó săn sóc đức vua trong nỗi sợ hãi ngày một lớn. Nhưng điều đó không đưa nó tới bước này!”

“Bạn của ta,” Gandalf nói, “anh có ngựa, và công tích trong chiến trận, và những cánh đồng tự do; nhưng nàng, sinh vào thân thể người thiếu nữ, lại có tinh thần và dũng khí ít nhất cũng ngang anh. Vậy mà nàng lại bị định mệnh buộc hầu hạ bên người đàn ông già nua, mà nàng yêu thương như cha đẻ và nhìn ngài rơi vào trạng thái lẩm cẩm tàn nhẫn và nhục nhã; vai trò của nàng như nàng thấy còn ô nhục hơn cây gậy trong tay ngài chống.

“Anh nghĩ rằng Lưỡi Giun chỉ đầu độc tai của Théoden ư? Đồ lẩm cẩm! nhà của Eorl là cái thá gì ngoài cái chuồng gia súc lợp rơm nơi bọn kẻ cướp say mèm rúc trong mùi hôi thối, và lũ con đốn mạt lăn trên sàn giữa lũ chó? Anh chưa từng nghe những lời này trước đây sao? Saruman đã nói đấy, thầy của Lưỡi Giun. Dù tôi không nghi ngờ rằng ở nhà mình, Lưỡi Giun đã ngụy trang hàm ý đó trong những lời khôn khéo hơn. Bệ hạ, nếu tình yêu mà em gái dành cho anh, và ý chí một lòng vì bổn phận của nàng, không khiến nàng im lặng, thì có lẽ anh đã nghe chính những điều đó thoát ra từ miệng nàng. Nhưng ai biết được nàng nói gì với bóng tối, khi có một mình, trong những canh khuya cay đắng, nhìn cả cuộc đời mình dường như co rút lại, và những bức tường khuê phòng siết chặt quanh mình, một cái chuồng giam cầm con thú thêm hoang dã?”

Éomer im lặng quay nhìn em gái mình, như thể nghiền ngẫm lại về tất cả những ngày họ từng sống bên nhau. Nhưng Aragorn nói: “Tôi cũng thấy những gì anh thấy, Éomer. Giữa những vận hội tàn nhẫn của thế giới này, trái tim người đàn ông ít có điều đau khổ nào cay đắng và hổ thẹn hơn là có được tình yêu của một người phụ nữ đẹp đẽ và can đảm dường này mà lại không thể đáp trả. Nỗi buồn và thương cảm đã theo tôi kể từ khi tôi bỏ lại nàng tuyệt vọng ở Dunharg mà lên đường vào Lối Người Chết; và trên con đường đó không nỗi sợ hãi nào thường trực như nỗi sợ về điều có thể xảy đến với nàng. Thế nhưng, Éomer, tôi phải nói với anh rằng nàng yêu quý anh thật tâm hơn tôi; vì anh là người nàng yêu thương và hiểu rõ, còn ở tôi, nàng chỉ yêu một cái bóng và một ý tưởng: hy vọng về vinh quang và những chiến tích lớn lao, và những miền đất xa lạ bên ngoài các cánh đồng Rohan.

“Tôi có lẽ có quyền năng chữa lành thân thể nàng, và gọi nàng lại từ thung lũng tối tăm. Nhưng nàng sẽ thức dậy đối diện với điều gì: hy vọng, hay quên lãng, hay tuyệt vọng, tôi không biết. Và nếu là tuyệt vọng, nàng sẽ chết, trừ phi gặp được những loại chữa trị khác mà tôi không thể trao nàng. Than ôi! vì công trạng của nàng đã đặt nàng giữa những nữ hoàng vĩ đại.”

Rồi Aragorn khom người nhìn gương mặt nàng, và đúng thực nó trắng nhợt như hoa huệ, lạnh như hơi giá, và rắn đanh như đá tạc. Nhưng chàng cúi xuống hôn lên trán nàng, và dịu dàng lên tiếng gọi:

“Éowyn con gái Éomund, hãy thức giấc! Vì kẻ thù của nàng đã đi rồi!”

Nàng không cử động, nhưng giờ nàng lại bắt đầu thở sâu, ngực phập phồng bên dưới lớp chăn trắng. Aragorn lại vò nát hai chiếc lá athelas bỏ vào nước nóng; và chàng dùng nước đó lau trán nàng, và cánh tay phải lạnh lẽo không tri giác trên khăn phủ giường.

Rồi, không biết vì Aragorn thực sự có thứ quyền năng bị quên lãng nào đó của Tây Châu, hay chỉ là do những lời chàng nói về Công Chúa Éowyn đã tác động lên họ, mà khi ảnh hưởng thơm lành của món thảo dược lan tỏa trong phòng, những người đứng đó cảm thấy dường như có ngọn gió mát lạnh vừa thổi qua cửa sổ, không có mùi hương nhưng mang theo không khí hoàn toàn tươi mát, trong trẻo và trẻ trung, như thể chưa từng được sinh vật sống nào hít thở mà tràn xuống mới tinh từ những ngọn núi tuyết cao dưới vòm sao, hoặc từ những bờ biển bạc xa xôi bọt sóng vỗ vào.

“Tỉnh lại đi, Éowyn, Công Chúa Rohan!” Aragorn lại nói, và cảm lấy bàn tay phải nàng, cảm thấy nó ấm lên khi sự sống quay trở lại. “Tỉnh lại! Cái bóng đã tan đi và tất cả bóng tối đã gột rửa sạch!” Rồi chàng đặt tay nàng vào tay Éomer và lùi lại. “Gọi nàng đi!” chàng nói, và yên lặng rời khỏi phòng.

“Éowyn, Éowyn!” Éomer kêu lớn qua làn nước mắt. Nhưng nàng mở mắt và nói: “Anh Éomer! Niềm vui nào thế này? Vì họ nói anh đã tử trận. Không, đó chỉ là những giọng nói đen tối trong giấc mơ của em thôi. Em đã mơ bao lâu rồi?”

“Không lâu đâu, em gái,” Éomer nói. “Nhưng đừng nghĩ thêm về chuyện đó!”

“Em mệt mỏi lạ lùng,” nàng nói. “Em phải nghỉ ngơi một chút. Nhưng cho em biết, Vua đất Mark thế nào rồi? Than ôi! Đừng nói với em đó chỉ là giấc mơ; vì em biết là không phải. Người đã bỏ mình như người tiên đoán.”

“Người đã bỏ mình,” Éomer nói, “nhưng người dặn anh gửi lời vĩnh biệt Éowyn mà người yêu thương còn hơn con gái. Người giờ nằm trong niềm tôn kính lớn ở Hoàng Thành vương quốc Gondor.”

“Thật đau đớn làm sao,” nàng nói. “Vậy mà vẫn tốt đẹp hơn tất cả những gì em dám hy vọng vào những tháng ngày đen tối, khi dường như ngôi nhà của Gia tộc Eorl đã mất danh dự chẳng bằng túp lều kẻ chăn cừu. Thế còn hầu cận của đức vua? Cậu Tí Hon đó? Éomer, anh phải phong cho cậu ấy là hiệp sĩ đất Riddermark, vì cậu ấy thật dũng cảm!”

“Cậu ta nằm ngay trong Y Viện này, và ta sắp ra với cậu ta,” Gandalf nói. “Éomer sẽ ở lại đây một lúc. Nhưng đừng nói chuyện về chiến tranh hay những nỗi đau buồn vội, cho tới khi nàng khỏi hẳn. Thật vui sướng được thấy nàng thức tỉnh khỏe mạnh và tràn đầy hy vọng, một quý nương anh dũng dường này!”

“Khỏe mạnh?” Éowyn nói. “Có lẽ. Ít nhất trong khi còn tấm yên của Kỵ Sĩ tử trận nào cho tôi thế chỗ, và có việc phải làm. Nhưng còn hy vọng? Tôi không biết.”

Gandalf và Pippin tới phòng Merry, và ở đó, họ thấy Aragorn đứng cạnh giường. “Tôi nghiệp anh Merry!” Pippin kêu lên và chạy tới bên giường, vì cậu thấy dường như bạn mình đã tệ hơn, gương mặt xám đi như thể trĩu nặng dưới hàng năm trời đau khổ; và đột nhiên trái tim Pippin thắt lại trong nỗi sợ rằng Merry sẽ chết.

“Đừng sợ,” Aragorn nói. “Tôi đã tới kịp, và tôi đã gọi cậu ấy trở về. Giờ cậu ấy mệt mỏi và đau buồn, bị trúng đòn giống như Công Chúa Éowyn, vì đã dám đánh vào thứ chết chóc đó. Nhưng những đòn ác đó có thể chữa lành được, cậu ấy có tinh thần mạnh mẽ và vui vẻ. Cậu ấy sẽ không quên nỗi đau buồn; nhưng nó sẽ không nhuộm đen trái tim cậu, mà sẽ dạy cậu thêm thông thái.”

Rồi Aragorn đặt tay lên trán Merry, và nhẹ nhàng vuốt qua những lọn tóc nâu, chàng chạm lên mi mắt, rồi gọi tên cậu. Và khi mùi hương athelas tràn ngập căn phòng, giống như mùi vườn cây ăn quả, và thảm thạch nam đầy ong dưới nắng trời, đột nhiên Merry tỉnh giấc, và cậu nói:

“Tôi đói quá. Mấy giờ rồi?”

“Quá giờ ăn tối rồi,” Pippin nói; “dù em dám nói là em có thể đem cho anh thứ gì đó, nếu họ cho phép.”

“Chắc chắn là họ sẽ cho,” Gandalf nói. “Cùng bất cứ thứ gì khác mà chàng Kỵ Sĩ Rohan này muốn, nếu thứ đó có ở Minas Tirith, nơi tên cậu được vinh danh.”

“Tốt quá!” Merry nói. “Thế thì cháu muốn ăn nhẹ, sau đó là một tẩu thuốc.” Nói tới đây, gương mặt cậu tối sầm. “Không, không cần tẩu thuốc. Cháu không nghĩ cháu còn bao giờ hút nữa.”

“Tại sao?” Pippin hỏi.

“Chậc,” Merry chầm chậm trả lời. “Người đã qua đời rồi. Nó đã khiến anh nhớ lại tất cả. Người nói mình tiếc rằng không bao giờ còn cơ hội nói chuyện về những kiến thức thảo mộc với anh. Đó gần như là điều cuối cùng người nói. Anh sẽ không bao giờ có thể lại hút thuốc mà không nhớ về người, và cái ngày hôm đó, Pippin ạ, hôm người phi ngựa tới Isengard và lịch sự biết bao.”

“Vậy thì cứ hút đi, và nhớ về ngài!” Aragorn nói. “Vì ngài có trái tim dịu dàng, ngài là vị vua vĩ đại luôn giữ lời thề ước; và ngài bước ra từ bóng tối để đến sớm mai tươi đẹp cuối cùng. Dù cuộc phụng sự của cậu với ngài ngắn ngủi, đó hẳn phải là một ký ức tươi đẹp và vinh dự cho tới trọn đời.”

Merry cười. “À thế thì,” cậu nói, “nếu Sải Chân Dài cho tôi cái tôi cần, thì tôi sẽ hút và tưởng nhớ. Tôi có một ít thuốc tốt nhất của Saruman bỏ trong túi, nhưng cái túi đã gặp số phận nào trong cuộc chiến thì tôi tin là mình không biết.”

“Cậu Meriadoc,” Aragorn nói, “nếu cậu nghĩ tôi vượt qua núi non và đồng đất Gondor với lửa và kiếm để mang cỏ rả đến cho một anh chàng chiến binh bất cẩn lỡ ném mất đồ mình, thì cậu nhầm rồi. Nếu túi của cậu không tìm thấy, cậu phải gọi thầy thảo dược ở Viện này. Và ông ta sẽ nói với cậu rằng ông ta không biết loại cỏ cậu muốn có tác dụng gì, nhưng nó được những kẻ thông tục gọi là cỏ người tây, và người quý phái gọi là galenas, và còn nhiều tên khác trong những ngôn ngữ khác uyên thâm hơn, và sau khi bổ sung thêm vài vần thơ đã gần bị quên lãng mà ông ta không hiểu, ông ta sẽ rất tiếc phải thông báo với cậu rằng chẳng có tí nào trong Viện, và ông ta sẽ để cậu lại mà suy tư về lịch sử ngôn ngữ. Và giờ tôi cũng phải làm vậy đây. Vì tôi chưa được ngủ trên cái giường nào như thế này, kể từ khi ra đi từ Dunharg, hay ăn miếng nào kể từ khi còn bóng tối trước bình minh.”

Merry nắm lấy tay chàng hôn lên đó. “Tôi vô cùng xin lỗi,” cậu nói. “Đi ngay đi! Mãi từ cái đêm ở Bree, chúng tôi đã gây phiền toái cho anh. Nhưng thói tục của người dân tôi là nói năng bỡn cợt vào những thời điểm thế này và nói ít hơn điều họ nghĩ. Chúng tôi sợ nói quá nhiều. Khi những lời đùa giỡn không phù hợp, chúng tôi không biết phải nói gì cho đúng.”

“Tôi biết rõ như vậy, nếu không tôi đã không đáp lại cậu theo cùng cách đó,” Aragorn nói. “Cầu chúc Quận tươi xanh mãi mãi!” Và hôn Merry, chàng ra ngoài, có Gandalf đi cùng.

Pippin ở lại sau. “Liệu từng bao giờ có ai như anh ấy không nhỉ?” cậu nói. “Trừ Gandalf, dĩ nhiên. Em nghĩ hai người đó hẳn là có họ đấy. Ông anh đần yêu quý này, túi của anh ở cạnh giường chứ đâu, và anh đang đeo nó sau lưng khi em gặp anh. Anh ấy lúc nào cũng nhìn thấy nó, dĩ nhiên. Dù sao em cũng mang một ít của riêng em nữa. Nào! Lá Đáy Dài đấy nhé. Hút đi trong khi em chạy kiếm đồ ăn. Và rồi hãy xả hơi một chút. Ôi trời! Họ nhà Took và Hươu Bia Rum chúng ta, chúng ta không thể nghiêm trọng quá lâu.”

“Không,” Merry nói. “Anh không thể. Dù sao cũng chưa. Nhưng ít nhất, Pippin ạ, giờ chúng ta có thể thấy họ, và kính trọng họ. Tốt nhất là đầu tiên nên yêu thứ mình phù hợp để yêu, anh cho là vậy: phải bắt đầu từ đâu đó và cắm rễ một chút, mà đất Quận thì sâu. Nhưng còn những thứ sâu hơn và cao hơn, và không cụ bõ già nào có thể chăm sóc vườn cây trong bình yên như cụ tưởng nếu không có họ, dù cụ biết họ hay không. Anh mừng là anh được biết họ, đôi chút. Nhưng anh chẳng biết tại sao mình lại nói chuyện như thế này. Mớ cỏ đó đâu rồi? Và lấy cho anh tẩu thuốc trong túi với, nếu còn chưa bị vỡ.”

Lúc này Aragorn và Gandalf tới gặp Trưởng Quan của Y Viện, có lời khuyến nghị rằng Faramir và Éowyn cần ở lại đó và được cẩn thận chăm sóc trong nhiều ngày tới.

“Công Chúa Éowyn,” Aragorn nói, “sẽ muốn trở dậy và ra đi sớm; nhưng không được cho phép nàng làm thế, nếu ông có bất cứ cách nào ngăn cản nàng, tới khi ít nhất đã qua mười ngày.”

“Còn Faramir,” Gandalf nói, “ngài cần sớm được biết cha mình đã qua đời. Nhưng câu chuyện đầy đủ về sự điên loạn của Denethor không nên kể cho tới khi ngài tương đối khỏe lại và bắt tay vào bổn phận. Hãy bảo đảm cho Beregond và cậu perian đang ở đấy đừng vội nói với ngài những chuyện đó!”

“Còn cậu perian kia, Meriadoc, người tôi đang chăm sóc, cậu ta thì sao?” Viện Trưởng hỏi.

“Cậu ta hẳn sẽ đủ sức ra khỏi giường ngày mai, khoảng một lúc,” Aragorn nói. “Cứ để cậu ta trở dậy, nếu cậu ta muốn. Cậu ta có thể đi bộ một chút với sự giúp đỡ của bạn bè.”

“Họ đúng là một chủng tộc đáng nể,” Viện Trưởng nói, gật đầu. “Rất cứng cáp trong từng thớ thịt, tôi thấy vậy.”

Ở cửa Viện, nhiều người đã tụ tập tới xem Aragorn, và họ đi theo chàng; và khi cuối cùng chàng đã ăn tối xong, người ta đến cầu xin chàng chữa trị cho người thân hoặc bạn bè, đang hấp hối vì bệnh tật hoặc thương tích, hay chìm trong Bóng Ma Đen. Và Aragorn đứng dậy đi ra ngoài, cho gọi các con trai Elrond, và họ cùng nhau làm việc cho tới đêm khuya. Và tin tức lan ra khắp Kinh Thành: “Nhà Vua đích thực đã xuất hiện.” Và họ gọi chàng là Ngọc Tiên, theo viên ngọc xanh chàng đeo, và thế là cái tên đã tiên đoán khi chàng sinh ra đã được thần dân của chính chàng lựa chọn.

Và khi không thể làm thêm được nữa, chàng trùm áo choàng quanh mình lên khỏi Kinh Thành, tới lều mình ngay trước bình minh chợp mắt trong giây lát. Và buổi sáng khi lá cờ của Dol Amroth, con tàu trắng như thiên nga trên mặt nước xanh phần phật trên nóc Tháp, người trong thành ngước lên tự hỏi có phải sự xuất hiện của Nhà Vua chỉ là một giấc mơ.