← Quay lại trang sách

PHỤ LỤC A SỬ KÝ CÁC VUA VÀ QUAN CAI TRỊ

Về nguồn tư liệu cho hầu hết nội dung bàn đến trong các Phụ lục sau đây, đặc biệt là phụ lục A - D, xin xem phần ghi chú cuối Phi lộ. Mục A III, Dân Durin, hẳn là chép theo lời Người Lùn Gimli, ông vẫn giao hảo thân thiết với Peregrin và Meriadoc và họ còn nhiều lần tái ngộ tại Gondor hay Rohan.

Các truyền thuyết, lịch sử và tích truyện chứa trong các nguồn ấy cực kỳ phong phú, nhưng dưới đây chỉ trình bày lại những trích đoạn liên quan, hầu hết đều lược đi đáng kể. Mục đích chính ở đây là minh họa cho cuộc Nhẫn Chiến và nguyên ủy sinh ra cuộc chiến, cũng như bổ khuyết nhiều phần trong bản kể chính. Những truyền thuyết thái cổ về Kỷ Đệ Nhất, mối quan tâm chính của Bilbo, cũng được nhắc sơ qua để minh họa cho dòng dõi Elrond cũng như các vua và thủ lĩnh người Númenor. Các đoạn trích nguyên văn từ sử ký hay truyện thuật dài hơn đều để trong ngoặc kép. Bổ sung của người đời sau được đưa vào ngoặc vuông. Các chú thích nằm trong ngoặc kép đều có sẵn trong sách gốc. Chú thích còn lại đều của người biên tập[1].

Ngày tháng đều tính theo Kỷ Đệ Tam, trừ khi có chú KĐ2 (Kỷ Đệ Nhị) hay KĐ4 (Kỷ Đệ Tứ). Kỷ Đệ Tam vẫn được tính là kết thúc khi Bộ Ba Nhẫn ra khơi vào tháng Chín năm 3021, nhưng riêng trong thư tịch ở Gondor, năm 1 KĐ4 bắt đầu vào ngày 25 tháng Ba 3021. Về cân đối ngày tháng giữa Gondor và Niên lịch Quận, xem tập I tr. 5 và tập III tr. 473-474. Trong các danh mục dưới đây, tên vua hoặc quan cai trị nào chỉ kèm theo một con số thì đó là năm tử. Ký hiệu † đánh dấu cái chết trước hạn, tử trận hoặc vì lý do khác, dù sự kiện đó không nhất thiết được chép trong sử ký.

______________

[1] Một đôi chỗ có cung cấp để đối chiếu số trang tương ứng trong Chúa tể những chiếc Nhẫn và Anh chàng Hobbit. [Trong bản tiếng Việt, số trang lấy theo Anh chàng Hobbit, 2011 và Chúa tể những chiếc Nhẫn I, II, III 2013-2014. - BT]

CÁC VUA NÚMENOR (i) Númenor

Fëanor là người vĩ đại nhất trong tộc Eldar về mặt kỹ nghệ và hiểu biết tích truyện, nhưng cũng là kẻ kiêu hãnh và bảo thủ hiếm ai bằng. Chính ngài chế tác ra Ba Ngọc, những viên Silmaril, đặt vào lòng chúng ánh thiên quang của Hai Cây Telperion và Laurelin[1] hằng chiếu sáng xứ sở Valar. Ba Ngọc trở thành đối tượng thèm khát của Kẻ Thù tức Morgoth; hắn đánh cắp ngọc, hủy diệt Hai Cây, rồi mang ngọc tới Trung Địa và cho canh giữ cẩn mật trong thành trì lớn tên Thangorodrim. Bất chấp ý nguyện của Valar, Fëanor từ bỏ Vương Quốc Hằng Phước mà tự rước lấy số phận tha hương ở Trung Địa, dẫn theo một phần lớn dòng tộc mình; vì lòng kiêu hãnh đã xui khiến ngài quyết tâm giành lại Đại Ngọc trong tay Morgoth bằng vũ lực. từ đó bắt đầu cuộc chiến vô vọng của hai chủng tộc Eldar và Edain đánh lại Thangorodrim, chấm dứt bằng thất bại hoàn toàn. Người Edain (Atani) bao gồm ba gia tộc Con Người đầu tiên đi sang miền Tây Trung Địa, tới cả bên bờ Đại Dương, kết liên minh với Eldar chống lại Kẻ Thù.

Có tất cả ba cuộc phối ngẫu giữa dân Eldar và Edain: Lúthien với Beren, Idril với Tuor, Arwen với Aragorn. Nhờ vào hôn sự thứ ba, các nhánh từ lâu chia cắt của dân Á Tiên đã được tái hợp, dòng dõi họ được nối lại.

Lúthien Tinúviel là con gái Vua Thingol Áo Choàng Xám ở Doriath vào Kỵ Đệ Nhất, nhưng mẫu thân nàng là Melian chính thuộc dòng dõi Valar. Beren là con trai Barahir thuộc Gia Tộc Edain Thứ Nhất. Cùng nhau họ đoạt lại một viên silmaril trên Vương Miện sắt của Morgoth. Lúthien nhận lấy phận phàm trần hữu tử, vĩnh viễn xa rời nòi giống Tiên. Dior là con trai nàng. Elwing là con gái nàng, đến lượt mình nhận giữ viên silmaril.

Idril Celebrindal là con gái Turgon, vua của thành Gondolin ẩn lánh. Tuor là con trai Huor thuộc Gia tộc Hador, Gia Tộc Edain Thứ Ba, là người lừng danh nhất trong các cuộc chiến chống Morgoth. Eärendil Nhà Hàng Hải là con trai họ.

Eärendil kết hôn với Elwing, nhờ quyền năng của viên silmaril, đã vượt qua Bóng Nước mà tới tận Tây Cực, trình bày nguyện vọng của cả Tiên lẫn Con Người, giành được sự trợ giúp của Valar lật đổ Morgoth. Eärendil không được phép trở lại đất phàm trần, nên con thuyền chàng gắn viên silmaril được định phận căng buồm lướt sóng trên các tầng trời, làm ngôi sao và tín hiệu hy vọng cho cư dân Trung Địa sống dưới ách áp bức của Kẻ Thù Lớn hay các bầy tôi của hắn. Chỉ mình ba viên silmaril còn bảo tồn được ánh sáng thượng cổ từ Hai Cây Valinor trước khi bị Morgoth đầu độc, nhưng hai viên còn lại đến cuối Kỷ Đệ Nhất đã thất lạc. Những việc này được thuật lại đầy đủ, cùng rất nhiều tích khác về Tiên và Con Người, trong Huyền sử Silmaril.

Các con trai Eärendil, Elros và Elrond, là Peredhil tức Á Tiên. Chỉ mình họ còn giữ trong huyết quản dòng máu các thủ lĩnh Edain anh hùng vào Kỷ Đệ Nhất, và tới sau khi Gil-galad lâm chung, kể cả dòng dõi các Vua Thượng Tiên ở Trung Địa cũng chỉ còn lưu lại trong số hậu duệ hai người.

Vào cuối Kỷ Đệ Nhất, Valar đặt cho các Á Tiên một lựa chọn không thể đảo ngược, đứng về phía chủng tộc nào. Elrond lựa chọn làm Tiên, sớm trở thành bậc thầy tri thức. Vì thế ngài cũng được ban ân huệ giống như các Thượng Tiên còn lưu lại Trung Địa: rằng khi cuối cùng cũng thấy mệt mỏi với đất người trần, họ có thể lên tàu tại Cảng Xám mà đi về Tây Cực, và ân huệ ấy vẫn được duy trì sau cuộc thay đổi thế giới. Nhưng những con cháu Elrond cũng vẫn phải đối mặt với lựa chọn ấy: hoặc theo ngài rời khỏi các vòng biên thế giới này, hoặc nếu ở lại, phải trở thành người trần rồi chết ở Trung Địa. Bởi thế với Elrond, cuộc Nhẫn Chiến dù tới kết cục nào cũng đều chứa đầy khổ não.

Elros chọn làm Người và ở lại cùng tộc Edain; nhưng được ban cho tuổi thọ cao gấp nhiều lần những chủng người thấp kém.

Ban thưởng cho những hy sinh của người Edain trong cuộc chiến chống Morgoth, Valar tức các Vệ thần của Thế giới tặng họ miền đất mới làm quê hương, tránh xa những hiểm nguy Trung Địa. Vì thế hầu hết đã giương buồm vượt Đại Dương, theo ánh Ngôi Sao Eärendil mà tới Đảo Elenna lộng lớn, nằm chót cùng phía Tây mọi miền đất Phàm Nhân. Vương quốc Númenor mọc lên ở đó.

Chính giữa hòn đảo có một ngọn núi cao tên Meneltarma, và đứng trên đỉnh núi, người tinh mắt có thể thấy ngọn tháp trắng ở Cảng Eldar trên đảo Eressëa. Từ đó dân Eldar tới gặp Edain, trao tặng họ hiểu biết cùng quà biếu; nhưng có một mệnh lệnh người Númenor phải tuân theo - “Lệnh Cấm từ Valar”: cấm họ lên thuyền đi về Tây, vượt ngoài tầm nhìn từ bờ biển đảo, hoặc tìm cách đặt chân lên Xứ Sở Bất Tử. Bởi dù được ban cho tuổi thọ trường sinh, nguyên thủy dài gấp ba lần các chủng Người thua kém, họ vẫn phải là người hữu tử, vì Valar không được phép lấy đi Món Quà của Con Người (hoặc Định Mệnh của Con Người như sau này gọi).

Elros là Vua Númenor thứ nhất, sau này lấy đế hiệu tiếng Thượng Tiên Tar-Minyatur. Hậu duệ của ngài đều trường thọ, nhưng đều chết. Về sau, khi trở nên hùng mạnh, họ quay ra căm tức lựa chọn của tổ phụ mình, thèm muốn số phận như đã dành cho dân Eldar, còn bất tử chừng nào thế giới này còn sống, và ngấm ngầm phản đối Lệnh Cấm. Từ đó bắt đầu cuộc nổi loạn dưới sự dẫn dắt của Sauron tà ác, đưa đến cuộc Sụp Đổ Númenor và hủy hoại toàn thế giới cổ đại, như kể trong cuốn Akallabêth.

Sau đây là tên các Vua và Nữ Hoàng Númenor: Elros Tar-Minyatur, Vardamir, Tar-Amandil, Tar-Elendil, Tar-Meneldur, Tar-Aldarion, Tar-Ancalime (Nữ Hoàng Chấp Chính đầu tiên), Tar-Anárion, Tar-Súrion, Tar-Telperiën (Nữ Hoàng thứ hai), Tar-Minastir, Tar-Ciryatan, Tar-Atanamir Đại Đế, Tar-Ancalimon, Tar-Telemmaitë, Tar-Vanimeltë (Nữ Hoàng thứ ba), Tar-Alcarin, Tar-Calmacil, Tar-Ardamin.

Từ sau Ardamin, các Vua lên nhận vương trượng lấy hiệu bằng ngôn ngữ Númenor (tức Adûnaic): Ar-Adûnakhôr, Ar-Zimrathôn, Ar-Sakalthôr, Ar-Gimilzôr, Ar-Inziladûn. Inziladûn hối cải, sửa lại thói tục của Các Vua mà đổi hiệu thành Tar-Palantir “Mắt Nhìn Xa”. Con gái ngài đáng lẽ trở thành Nữ Hoàng thứ tư, Tar-Míriel, nhưng cháu trai nhà Vua đã tiếm ngôi đoạt trượng mà trở thành Ar-Pharazôn Kim Đế, vị Vua Númenor cuối cùng.

Vào thời Tar-Elendil, lần đầu tiên người Númenor phái tàu quay lại Trung Địa. Con đầu lòng của ngài là nữ, tên gọi Silmariën. Con trai ngài là Valandil, khởi đầu chức Lãnh Chúa Andúnië ở mạn Tây hòn đảo; các lãnh chúa đều nổi danh vì tình bạn thân thiết với dân Elder. Hậu duệ của ngài có Amandil, lãnh chúa cuối cùng, và con trai ngài là Elendil Khôi Vĩ.

Vua thứ sáu chỉ có một con, là nữ. Bà trở thành Nữ Hoàng đầu tiên, vì khi đó có luật ban bố rằng với hoàng tộc, con trưởng nhà Vua dù nam hay nữ cũng sẽ đều tiếp nhận vương trượng.

Vương quốc Númenor trường tồn mãi đến cuối Kỷ Đệ Nhị, mỗi lúc một thêm hùng mạnh và rực rỡ, và cho đến giữa Kỷ Nguyên người dân Númenor cũng không ngừng thêm thông tuệ và hoan hỉ. Cái bóng rồi sau này sẽ phủ xuống họ lấp ló lần đầu tiên là vào triều đại Tar-Minastir, Vua đời thứ mười một. Chính ngài là người đã cử đội quân hùng hậu đến tiếp ứng Gil-galad. Ngài yêu mến tộc Eldar, nhưng lại ganh tỵ với họ. Người Númenor lúc này đã rất cừ khôi trong nghề hàng hải, đã khám phá hết mọi vùng biển phía Đông, tim họ bắt đầu mong mỏi phương Tây cùng những vùng nước cấm; và cuộc đời càng hạnh phúc thì họ càng khát khao số phận bất tử của Eldar.

Thêm nữa, kể từ sau Minastir, các Vua trở nên tham lam - cả về của cải lẫn quyền lực. Vốn lúc đầu người Númenor tới Trung Địa làm thầy dạy và bạn hữu của những chủng Người thua kém sống khổ sở dưới ách Sauron; nhưng tới giờ cảng biển đã biến thành thành trì, miền duyên hải rộng lớn trở thành đất phụ thuộc. Atanamir cùng những người kế vị đánh tô thuế rất nặng, mỗi con thuyền Númenor hồi hương đều chất trĩu của vơ vét.

Chính Tar-Atanamir là người đầu tiên công khai phản đối Lệnh Cấm, và tuyên bố mình có quyền hưởng tuổi đời của Eldar. Khi ấy bóng tối đặc dần, ý nghĩ về cái chết bắt đầu nhuộm đen trái tim dân đảo. Rồi người Númenor bắt đầu chia rẽ: một bên là các Vua và những người ủng hộ, lạnh nhạt với Eldar và Valar; bên kia là nhóm thiểu số tự xưng là những người Trung Tín. Những người này chủ yếu sống về phía Tây đảo.

Các Vua và những người ủng hộ dần dà từng chút một thôi không dùng các thứ tiếng Eldar, và cuối cùng Vua thứ hai mươi lấy hiệu tiếng Númenor, tự xưng là Ar-Adûnakhôr, “Chúa tể phương Tây”. Đây có vẻ là điềm gở với số người Trung Tín, vì từ trước tới giờ danh hiệu đó chỉ được dành cho các Valar, hay thậm chí là cho Vua Cả. Và quả là Ar-Adûnakhôr bắt đầu truy sát nhóm Trung Tín và trừng trị những ai công khai nói tiếng Tiên; và dân Eldar không còn đến Númenor nữa.

Quyền lực và của cải của người Númenor, tuy thế, vẫn tăng thêm, nhưng tuổi thọ ngắn dần mà nỗi sợ chết thì càng dai dẳng, và niềm vui sống không còn. Tar-Palantir cố gắng sửa chữa tai họa ấy, nhưng đã quá muộn, Númenor chìm vào nổi loạn và xung đột. Khi ngài chết, cháu ngài cầm đầu phe nổi loạn đã cướp vương trượng, trở thành Vua Ar-Pharazôn. Ar-Pharazôn Kim Đế là người kiêu hãnh nhất, hùng mạnh nhất trong cả dòng Vua, và chẳng nhắm đến điều gì thấp hơn làm vua trên toàn thế giới.

Ngài quyết định khiêu chiến với Sauron Đại Đế để giành ngôi thượng tôn Trung Địa, và cuối cùng đích thân cầm đầu một đoàn thuyền chiến hùng hậu ra khơi, đổ bộ tại cảng Umbar. Mãnh lực và vẻ rực rỡ của đoàn quân Númenor lớn tới mức chính các bầy tôi Sauron cũng bỏ chúa chạy trốn, còn Sauron nhún mình tiến lễ và thỉnh cầu ân xá. Rồi Ar-Pharazôn, lóa mắt vì kiêu ngạo, đã mang hắn về làm tù nhân tại Númenor. Chẳng mấy lâu sau hắn đã bỏ bùa Nhà Vua, trở thành cố vấn tin cẩn của ngài, và ít lâu nữa hớp hồn toàn dân Númenor, chỉ trừ những người Trung Tín còn sót lại, khiến họ quy phục bóng tối.

Và Sauron dối gạt Nhà Vua mà nói sự sống trường sinh sẽ thuộc về kẻ nào chiếm hữu được Xứ Sở Bất Tử, và nói Lệnh Cấm đặt ra chỉ nhằm cản trở các Vua Con Người trở nên hùng mạnh hơn cả Valar. “Nhưng vĩ đại là những vị Vua chiếm lấy những gì thuộc về mình,” hắn nói.

Cuối cùng Ar-Pharazôn cũng thuận theo lời khuyên ấy, vì ngài cảm thấy ngày tháng đời mình đang dần ngắn lại, và u mê đi vì nỗi sợ Tử Thần. Ngài sửa soạn vũ trang cho một đội đại thủy quân lớn chưa từng thấy trên thế giới, và khi tất cả sẵn sàng, ngài lệnh cho kèn thổi và nhổ neo ra khơi; và ngài phạm vào Lệnh Cấm từ Valar mà toan dùng chiến tranh giành lấy sự sống vĩnh cửu từ các Chúa tể phương Tây. Nhưng khi Ar-Pharazôn đặt chân lên bờ biển đảo Aman Hằng Phước, Valar liền rời bỏ trách nhiệm Vệ thần tới kêu cầu Đấng Cả, và thế giới bị thay đổi. Númenor bị lật nhào, chìm đắm đáy Đại Dương, còn Xứ Sở Bất Tử bị mang đi vĩnh viễn ra ngoài các vòng biên thế giới. Vinh quang của Númenor vậy là chấm dứt.

Những thủ lĩnh cuối cùng của dân Trung Tín, Elendil và các con, đã trốn thoát khỏi cuộc Sụp Đổ mang theo chín thuyền, chở một mầm non từ hạt cây Nimloth và Bảy Quả Cầu Nhìn Thấu (là món quà dân Eldar tặng cho Gia tộc đó); và họ được cơn bão dữ dội đưa đi trên cánh gió, đẩy dạt vào bờ Trung Địa. Ở đó trên mạn Tây Bắc họ thành lập các vương quốc Númenor lưu vong, Arnor và Gondor. Elendil trở thành Đại Vương, sống trên miền Bắc tại thành Annúminas; còn quyền trị vì miền Nam được trao cho hai con trai Isildur và Anárion. Dưới đó họ dựng thành Osgiliath, nằm giữa Minas Ithil và Minas Anor, cách không xa địa giới Mordor. Vì ít nhất họ nghĩ có một điều thiện đã thành giữa cảnh trầm luân, rằng cả Sauron cũng đã tử mạng.

Nhưng không phải vậy. Quả đúng là Sauron cũng vướng trong cơn tận diệt Númenor, khiến xác phàm hắn khoác lấy từ lâu bị tiêu hủy; nhưng hắn đã trốn trở về Trung Địa, một linh hồn thù hận trên cánh gió đen. Từ đó về sau không bao giờ hắn mang hình hài đẹp đẽ trước mắt con người được nữa, mà trở nên đen đúa ghê tởm, và từ đó về sau quyền năng hắn chỉ còn ở việc gieo rắc kinh hoàng. Hắn trở lại Mordor, ẩn nấp rất lâu và câm lặng. Nhưng hắn điên giận không tả xiết khi biết tin Elendil, người hắn căm hận nhất, đã thoát ra và giờ đang thiết lập một vương quốc giáp giới lãnh địa mình.

Vì vậy mà đến một lúc hắn lại tuyên chiến cùng lớp Tha Hương, trước khi họ kịp cắm rễ. Lại lần nữa núi Orodruin phừng cháy, và được đặt tên mới ở Gondor: Amon Amarth, Đỉnh Định Mệnh. Nhưng Sauron ra đòn quá sớm, trước khi quyền năng chính hắn kịp phục hồi, còn sức mạnh của Gil-galad thì đã tăng nhiều trong lúc hắn vắng mặt; và trong Liên Minh Cuối Cùng nhằm chống lại hắn, Sauron bị lật đổ và Nhẫn Chúa bị cướp khỏi tay. Tới đó kết thúc Kỷ Đệ Nhị.

______________

[1] Nay không còn hình ảnh nào về Cây Vàng Laurelin lưu lại ở Trung Địa.

(ii) Các vương quốc Lưu Vong Dòng Bắc

Kế vị Isildur

Arnor.

Elendil †3441 KĐ2, Isildur †2, Valandil 249[1], Eldacar 339, Arantar 435, Tarcil 515, Tarondor 602, Valandur †652, Elendur 777, Eärendur 861.

Arthedain.

Amlaith ở Fornost[2] (trưởng nam Eärendur) 946, Beleg 1029, Mallor 1110, Celepharn 1191, Celebrindor 1272, Malvegil 1349[3], Argeleb I †1356, Arveleg I 1409, Araphor 1589, Argeleb II 1670, Arvegil 1743, Arveleg II 1813, Araval 1891, Araphant 1964, Arvedui Vua Cuối †1975. Chấm dứt Vương quốc Bắc.

Thủ Lĩnh.

Aranarth (trưởng nam Arvedui) 2106, Arahael 2177, Aranuir 2247, Aravir 2319, Aragorn I †2327, Araglas 2455, Arahad I 2523, Aragost 2588, Aravorn 2654, Arahad II 2719, Arassuil 2784, Arathorn I †2848, Argonui 2912, Arador †2930, Arathorn II †2933, Aragorn II 120 KĐ4.

Dòng Nam

Kế vị Anárion

Các Vua Gondor.

Elendil, (Isildur và) Anárion †3440 KĐ2 Meneldil con trai Anárion 158, Cemendur 238, Eärendil 324, Anardil 411, Ostoher 492, Rómendacil I (Tarostar) †541, Turambar 667, Atanatar I 748, Siriondil 830. Tiếp đến là bốn “Vua Tàu”:

Tarannon Falastur 913. Ngài là vì vua đầu tiên không con, truyền ngôi cho con trai em mình là Tarciryan. Eärnil I †936, Ciryandil †1015, Hyarmendacil I (Ciryaher) 1149. Gondor lên tới đỉnh cao quyền lực.

Atanatar II Alcarin “Vinh Hoa” 1226, Narmacil I 1294. Ngài là vị vua không con thứ hai, truyền ngôi cho em trai. Calmacil 1304, Minalcar (nhiếp chính 1240-1304), lên ngôi hiệu Rómendacil II 1304, chết 1366, Valacar 1432. Trong thời ngài bắt đầu thảm họa đầu tiên ở Gondor, vạ Thân Tranh.

Eldacar con trai Valacar (tên trước kia là Vinitharya), truất ngôi 1437. Castamir Thoán Nghịch †1447. Eldacar tái lập, chết 1490.

Aldamir (thứ nam Eldacar) †l540, Hyarmendacil II (Vinyarion) 1621, Minardil †1634, Telemnar †1636. Telemnar và các con chết trong đại dịch; nối ngôi là cháu ngài, con trai Minastan, con trai thứ Minardil. Tarondor 1798, Telumehtar Umbardacil 1850, Narmacil II †1856, Calimehtar 1936, Ondoher †1944. Ondoher cùng hai con trai bị sát hại trong chiến trận. Năm sau, 1945, vương miện được trao cho viên chỉ huy thắng trận Eärnil dòng dõi Telumehtar Umbardacil. Eärnil II 2043, Eärnur †2050. Tới đây dòng Các Vua chấm dứt, cho tới khi Elessar Telcontar nối lại năm 3019. Từ đây vương quốc do các Quốc Quản cai trị.

Quốc Quản Gondor.

Gia tộc Húrin: Pelendur 1998. Ngài cai trị một năm sau khi Ondoher tử trận, là người khuyên Gondor từ chối trao vương quyền cho Arvedui. Vorondil Thợ Săn 2029[4]. Mardil Voronwë “Kiên Trung”, mở đầu dòng Quốc Quản Chấp Chính. Những người kế nhiệm ngài bỏ không dùng tên tiếng Thượng Tiên.

Quốc Quản Chấp Chính.

Mardil 2080, Eradan 2116, Herion 2148, Belegorn 2204, Húrin I 2244, Túrin I 2278, Hador 2395, Barahir 2412, Dior 2435, Denethor I 2477, Boromir 2489, Cirion 2567. Vào thời ngài, người Rohan đến Calenardhon.

Hallas 2605, Húrin II 2628, Belecthor I 2655, Orodreth 2685, Ecthelion I 2698, Egalmoth 2743, Beren 2763, Beregond 2811, Belecthor II 2872, Thorondir 2882, Túrin II 2914, Turgon 2953, Ecthelion II 2984, Denethor II. Ngài là Quốc Quản Chấp Chính cuối cùng, truyền vị cho con trai thứ Faramir, Lãnh Chúa Emyn Arnen, Quốc Quản của Vua Elessar, 82 KĐ4.

______________

[1] Ngài là con trai thứ tư của Isildur, sinh tại Imladris. Các anh trai ngài đều tử trận trên Đồng Diên Vĩ.

[2] Từ sau Eärendur, các Vua không còn lấy hiệu tiếng Thượng Tiên.

[3] Từ sau Malvegil, Các Vua tại Fornost lại xưng vương khắp lãnh thổ Arnor, lấy hiệu có tiền tố ar(a) ghi nhận điều đó.

[4] Loài bò trắng hoang nay vẫn còn thấy gần Biển Rhûn được truyền thuyết kể là con cháu giống Bò của Araw, đấng Vala ưa săn bắn, cũng là Vala duy nhất thường lui tới Trung Địa vào thời Cựu Niên. Oromë là dạng tiếng Thượng Tiên của tên.

(iii) Eriador, Arnor, và những Người Kế Vị Isildur

“Eriador xưa kia là tên gọi trọn vùng đất nằm giữa Dãy Núi Mù Sương và Dãy Núi Lam; địa giới phía Nam là dòng Lũ Xám cùng dòng Glanduin đổ vào đó ngay trên Tharbad.

“Vào giai đoạn hùng cường nhất, Arnor mở rộng tới toàn Eriador chỉ trừ các vùng bên kia sông Lune, hay nằm về phía Đông sông Lũ Xám và Nước Ồn là nơi có Thung Đáy Khe và Đất Nhựa Ruồi. Bên kia sông Lune là đất của Tiên xanh tươi yên ả, Con Người chưa hề đặt chân tới; nhưng Người Lùn từng sống ở mạn Đông Dãy Núi Lam cho mãi đến bây giờ, nhất là phía Nam Vịnh Lune có những mỏ khai khoáng nay vẫn còn hoạt động. Chính vì thế họ vẫn thường đi lại trên Đường Cái về phía Đông, một thói quen từ thời xa thẳm trước khi chúng ta tới định cư ở Quận. Cảng Xám là nơi ở của Círdan Người Đóng Tàu, có kẻ nói giờ ông vẫn còn ở đó chờ Chuyến Cuối căng buồm về Tây, Vào thời Các Vua, phần lớn các Thượng Tiên nào còn chưa rời Trung Địa đều sống cùng Círdan hoặc ở dải đất Lindon ven biển. Nếu giờ vẫn còn lại ai, thì cũng chỉ còn rất ít.”

Vương quốc Bắc và người Dúnedain

Tiếp sau Elendil và Isildur còn tám Đại Vương cai trị Arnor. Sau thời Eärendur, các con trai ngài rơi vào tranh chấp, dẫn đến việc vương quốc bị chia ba: Arthedain, Rhudaur, Cardolan. Arthedain nằm góc Tây Bắc, là phần lãnh thổ nằm giữa các sông Bia Rum Đun và Lune, thêm cả miền đất phía Bắc Đường Đông kéo dài tới tận Khu Đồi Gió. Rhudaur ở góc Đông Bắc, nằm giữa vùng Truông Etten, Khu Đồi Gió và Dãy Núi Mù Sương, lại bao gồm cả Mũi Đất nằm giữa hai sông Nguồn Xám và Nước Ồn. Cardolan chiếm nửa Nam, mốc phân giới là hai sông Bia Rum Đun, Lũ Xám và Đường Cái.

Ở Arthedain dòng tộc Isildur vẫn còn được giữ gìn và nối tiếp, nhưng Cardolan và Rhudaur thì chẳng mấy đã lụi tàn. Ba vương quốc thường lâm vào xung đột, càng đẩy nhanh sự suy vong của người Dúnedain. Đối tượng tranh giành chính là Khu Đồi Gió và khoảnh đất ở về phía Tây đồi cho mãi đến Bree. Cả Rhudaur và Cardolan đều muốn đoạt được Amon Sûl (Đỉnh Gió) nằm trên biên giới cả ba nước, vì Tháp Amon Sûl là nơi đặt quả Palantír chính yếu của miền Bắc, mà cả hai quả còn lại đều nằm trong tay Arthedain.

“Chính vào buổi đầu triều đại Malvegil vua Arthedain là khi cái ác đến Arnor. Vì vào khoảng đó, vương quốc Angmar mọc lên ở phương Bắc bên kia Truông Etten. Lãnh địa nó trải ra cả hai bên Dãy Núi, tới đó tụ lại vô số con người hiểm ác, cùng Orc và các sinh vật tàn độc khác. [Chúa tể vùng đất đó được gọi là Vua phù thủy, nhưng mãi về sau này người ta mới biết hắn cũng chính là thủ lĩnh bọn Ma Nhẫn, lên phía Bắc chẳng với mục đích gì khác ngoài tiêu diệt hết người Dúnedain ở Arnor, vì thấy cơ hội trong cảnh tam phân, trong lúc Gondor còn mạnh.]”

Tới thời Argeleb con trai Malvegil, vì không còn lại hậu duệ Isildur nào trong hai vương quốc còn lại, các vua Arthedain lần nữa lại xưng vương trên toàn cõi Arnor. Nhưng Rhudaur kháng lại. Ở đó người Dúnedain không còn mấy, quyền lực đã rơi vào tay tên thủ lĩnh gian ác của đám Người Đồi, vốn giao kết bí mật với Angmar. Argeleb củng cố lại Khu Đồi Gió, nhưng ngã xuống khi giao chiến với Rhudaur và Angmar.

Arveleg con trai Argeleb, có Cardolan và Lindon hợp sức, đã đánh đuổi kẻ thù khỏi Khu Đồi; và suốt nhiều năm Arthedain cùng Cardolan duy trì một phòng tuyến mạnh dọc Khu Đồi Gió, Đường Cái và hạ lưu sông Nguồn Xám. Nghe nói chính vào thời gian này Thung Đáy Khe đã bị bao vây.

Nẳm 1409, Angmar cử đi một đạo quân lớn, vượt sông tiến vào Cardolan vây Đỉnh Gió. Người Dúnedain thất trận, Arveleg bị giết. Tháp Amon Sûl bị đốt phá san phẳng, nhưng quả palantír được cứu thoát, đoàn quân rút chạy mang về Fornost. Rhudaur trở thành địa bàn của Con Người phe ác dưới quyền Angmar, và những người Dúnedain nào còn ở lại đều bị truy sát hoặc bỏ chạy về Tây. Cardolan bị tàn phá. Araphor con trai Arveleg, chưa tới tuổi trưởng thành nhưng có tinh thần anh dũng, được Círdan trợ giúp đánh đuổi hết quân thù khỏi Fornost và Khu Đồi Bắc. Một toán nhỏ người Dúnedain trung tín nước Cardolan cũng cầm cự tại Tym Gorthad (vệt đồi Mộ Đá), hoặc lánh nạn trong khu Rừng sau vệt đồi.

Tương truyền có một thời gian Angmar bị áp chế nhờ người Tiên từ Lindon đến; cả từ Thung Đáy Khe, vì Elrond đã vời được người Lórien vượt Dãy Núi qua hỗ trợ. Chính vào khoảng đó mà chi Đại Cồ vốn từng sống trong Mũi Đất (giữa Nguồn Xám và Nước Ồn) chạy về phía Tây và Nam, tránh chiến tranh và mối đe dọa từ phía Angmar, và cũng vì thung thổ Eriador, nhất là ở nửa Đông, càng lúc càng trở nên hà khắc khó sống. Một số trở về Vùng Đất Hoang cắm lại bên dòng Diên Vĩ, lâu dài thành dân đánh cá sống bên sông.

Đến thời Argeleb II, trận dịch hạch từ Đông Nam lan tới Eriador khiến dân cư Cardolan hụt đi không còn mấy, nhất là dưới mạn Minhiriath. Dân Hobbit cũng như mọi giống dân khác sống qua một giai đoạn hãi hùng, nhưng bệnh dịch càng lên Bắc thì càng yếu, những vùng phía Bắc Arthedain không bị tổn thất nhiều. Đó là thời người Dúnedain ở Cardolan tiêu biến hẳn, và các loại ác hồn Angmar và Rhudaur tới chiếm các trụ mộ bỏ hoang làm nơi trú thân.

“Nghe đồn các cột mộ ở Tym Gorthad, tên gọi vệt đồi Mộ Đá ngày xưa, đã có từ thượng cổ, rất nhiều cột xây từ thuở thế giới mới bước vào Kỷ Đệ Nhất, nhờ công các tổ phụ Edain trước khi vượt Dãy Núi Lam đi vào Beleriand (mà nay chỉ còn lại dải Lindon ven bờ). Vì thế sau khi trở lại, người Dúnedain coi những đồi đó là đất thiêng và lấy làm nơi mai táng nhiều bậc vua chúa. [Có người bảo trụ mộ đã giam cầm Người Mang Nhẫn chính là mộ táng vị hoàng tử Cardolan cuối cùng, chết trận năm 1409.]”

“Năm 1974 thế lực Angmar lại mạnh lên lần nữa, tên Vua phù thủy kéo quân xuống đánh Arthedain khi mùa đông còn chưa qua. Chiếm được Fornost, hắn truy đuổi phần lớn dân Dúnedain còn lại chạy quá dòng Lune, trong số đó có cả các con trai nhà vua. Nhưng Vua Arvedui vẫn chống trả đến cùng trên Khu Đồi Bắc, rồi sau đó cùng vài cận vệ chạy lên mạn Bắc; đàn ngựa chân nhanh đưa họ chạy thoát quân thù.

“Suốt một thời gian Arvedui ẩn náu trong các hầm mỏ xưa của Người Lùn ở đầu xa Dãy Núi, nhưng cuối cùng cơn đói buộc ông phải cầu viện người Lossoth, Người Tuyết vịnh Forochel[1]. Ông bắt gặp vài người dựng trại bên bờ biển; nhưng họ không sẵn lòng giúp đỡ, vì ông chẳng có gì đánh đổi trừ ít châu báu chẳng có giá trị gì với họ, và họ lại sợ tên Vua phù thủy, kẻ có khả năng (theo họ nói) tùy ý làm băng đóng hay tan. Nhưng phần vì thương hại ông vua và đoàn người hốc hác, phần vì sợ vũ khí họ mang theo, những người này cho đoàn ít thức ăn và xây cho họ vài túp nhà trong tuyết. Arvedui buộc phải ở lại đây chờ đợi, mong có hỗ trợ từ phương Nam tới; vì ngựa của họ đã chết cả.

“Khi Círdan nhờ Aranarth con trai Arvedui mà biết nhà vua đã chạy trốn lên phía Bắc, ông lập tức cho tàu lên Forochel tìm kiếm nhà vua. Con tàu tới nơi sau rất nhiều ngày vì gặp nhiều luồng gió ngược, và thủy thù đoàn từ xa nhìn thấy đống lửa nhỏ nhóm bằng gỗ dạt được đoàn người gặp nạn chăm chút nuôi cho cháy. Nhưng mùa đông năm ấy ương bướng không chịu sớm nhả gọng kìm, dù đã tháng Ba nhưng băng mới bắt đầu tan, trải xa bờ trên mặt vịnh.

“Khi nhìn thấy con tàu Người Tuyết rất lạ lùng sợ hãi, vì từ thuở còn nhớ được họ chưa từng nhìn thấy tàu trên biển bao giờ; nhưng tới lúc này họ đã thân thiện hơn, cho xe trượt đưa nhà vua và những người còn sống trong đoàn qua mặt băng xa tới chừng nào họ dám. Nhờ thế tàu có thể thả thuyền nhỏ vào đón họ.

“Nhưng những Người Tuyết có vẻ không yên: họ nói mình ngửi thấy nguy hiểm trong hơi gió. Và thủ lĩnh người Lossoth bảo với Arvedui: ‘Đừng lên con quái vật biển này! Hãy nói những người biển mang đồ ăn và đồ cần thiết cho chúng ta, nếu họ có, còn ông thì ở lại đây tới lúc Vua phù thủy về nhà. Vì tới mùa hè hắn yếu đi, nhưng lúc này hơi thở hắn mang lại chết chóc, còn cánh tay lạnh toát thì dài.’

“Nhưng Arvedui không nghe lời khuyên ấy. Ông cảm ơn viên thủ lĩnh, và tặng lại chiếc nhẫn trên tay khi ra đi mà nói: ‘Đây là một vật có giá trị vượt xa những gì các người hiểu được. Chỉ nhờ dòng dõi của nó mà thôi. Nó chẳng có quyền lực gì, ngoài tình trân trọng của những ai yêu mến gia tộc ta. Nó không giúp gì được các người, nhưng nếu có lúc nào các người gặp nạn, họ hàng ta sẽ đồng ý chuộc bằng tất cả những gì các người mong có.’[2]

“Nhưng rồi ra, không biết vì tình cờ hay vì hiểu biết, lời khuyên của người Lossoth lại xác đáng vô cùng; vì con tàu chưa ra được biển khơi đã gặp một cơn bão lốc nổi lên, từ phương Bắc quất từng vốc tuyết lóa mắt; nó xua con tàu trở lại mặt băng và chồng chất băng táp lên tàu. Cả những thủy thủ nhà Círdan cũng bất lực xuôi tay, và tới đêm đó băng đập vỡ thân, làm con tàu chìm nghỉm. Đấy là đoạn kết của Arvedui Vua Cuối, cả những quả palantír cũng theo ông chôn vùi đáy nước[3]. Phải mãi về sau qua Người Tuyết người ta mới biết tin về vụ đắm tàu Forochel.”

Chúng dân Quận vẫn sống sót, dù có bị chiến tranh quét qua khiến phần lớn phải bỏ chạy và ẩn nấp. Họ có cử vài tay cung đi hỗ trợ nhà vua nhưng chẳng thấy trở về; lại còn những người khác tham chiến trong trận đánh đã tiêu diệt Angmar (được chép kỹ hơn trong sử ký vương quốc Nam). Trong thời kỳ thanh bình tiếp đó, dân Quận sống tự trị và hưng thịnh. Họ chọn ra vị Thain nắm quyền thay nhà vua, lấy đó làm thỏa mãn; dù qua nhiều năm vẫn còn nhiều người trông đợi nhà vua trở về. Nhưng cuối cùng cả hy vọng ấy cũng bị quên đi, chỉ còn lưu lại trong câu thành ngữ Khi nào Nhà Vua quay lại, nghĩa là điều lành khó mà đạt được, mà cũng có khi là điều dữ khó mà chữa được. Vị Thain đầu tiên ở Quận là một người họ Bucca ở Chằm Lớn, mà nhà Lão Hươu tự nhận là ông tổ họ mình. Ngài được phong Thain năm 379 theo Niên lịch Quận (1979).

Sau thời Arvedui là chấm dứt vương quốc Bắc, vì bây giờ người Dúnedain chỉ còn lác đác, còn mọi dân tộc sống trên Eriador đã vãn nhiều. Nhưng dòng vương hệ vẫn được duy trì, trở thành Thủ Lĩnh người Dúnedain, bắt đầu từ Aranarth con trai Arvedui. Arahael con trai ông chào đời ở Thung Đáy Khe, cũng như mọi con trai các thủ lĩnh đời sau đó; đây cũng là nơi cất giấu các bảo vật truyền gia của dòng họ: nhẫn của Barahir, những mảnh gãy thanh Narsil, ngôi sao Elendil, vương trượng thành Annúminas[4].

“Khi vương quốc chấm dứt, người Dúnedain lẩn vào bóng đêm, trở thành một tộc dân lang bạt trong bí mật, những chiến tích và công sức của họ ít khi được ghi chép hay ca tụng. Ngày nay chẳng còn mấy điều được biết về họ kể từ ngày Elrond ra khơi. Dù ngay từ trước khi chấm dứt thời Hòa Bình Cảnh Giới, nhiều mối ác họa đã lại bắt đầu tấn công hoặc ngầm xâm nhập Eriador, nhưng các Thủ Lĩnh Dúnedain phần lớn vẫn sống trọn tuổi trời cho rất thọ. Aragorn I, theo lời đồn, bị lũ sói kết liễu; chúng vẫn là mối nguy lớn ở Eriador và đến giờ vẫn chưa dứt hẳn. Tới thời Arahad I, bọn Orc vốn từ lâu chiếm cứ những thành lũy mặt trong Dãy Núi Mù Sương để chặn mọi ngả đèo đi vào Eriador, như sau này người ta biết, bỗng đột ngột ra mặt. Năm 2509, Celebrían phu nhân của Elrond trên đường tới Lórien bị phục kích ở Đèo Sừng Đỏ, đoàn hộ tống trước đội Orc tấn công bất ngờ bị đánh tản mát, còn Phu Nhân bị bắt lấy đưa đi xa. Elladan và Elrohir lùng theo cứu được mẹ mình, nhưng bà đã phải chịu hành hạ khủng khiếp và trúng độc từ vết thương. Bà được đưa lại về Imladris, nhưng dù được Elrond chữa trị cho lành thể xác, bà đã mất hết lòng vui sống ở Trung Địa; tới năm sau bà ra Cảng và đi về bên kia Đại Dương. Rồi đến sau này vào thời Arassuil, bọn Orc đã lần nữa nảy nở sinh sôi trong Dãy Núi Mù Sương bắt đầu tràn ra phá phách miền đất, khiến người Dúnedain và các con trai Elrond phải đối đầu. Chính thời điểm đó là lúc một nhóm Orc lớn đánh về Tây xa đến mức vào tận Quận, rồi bị Bandobras Took đánh đuổi đi.”

Có tất cả mười lăm Thủ Lĩnh trước khi ra đời người cuối cùng thứ mười sáu là Aragorn II, về sau lại trở thành Vua của cả Gondor lẫn Arnor. “Nhà Vua của chúng ta, như chúng tôi vẫn gọi; và khi ngài lên Bắc tới sống ở cung điện Annúminas đã xây lại và nghỉ lại ít lâu bên Hồ Bóng Tà, mọi người trong Quận đều mừng rỡ. Nhưng ngài không tới thăm Quận, tự ràng buộc mình bằng luật chính ngài đã ban ra, rằng Dân To Lớn không ai được quyền vào ranh giới Quận. Nhưng ngài rất nhiều lần cùng đoàn người đẹp đẽ phi ngựa tới Cầu Lớn, ở đó đón tiếp các bạn bè mình cùng tất cả những ai muốn diện kiến ngài; một số cùng đi từ đó với ngài, về sống trong cung điện tới chừng nào họ thích. Vị Thain Peregrin đã nhiều lần viếng thăm nơi đó, và cả Thầy Samwise tức Thị trưởng nữa. Con gái ông, Elanor Xinh Đẹp, là một trong những thị nữ của Hoàng Hậu Sao Hôm.”

Niềm tự hào và thần kỳ của Dòng Bắc là ở việc, dù quyền lực đã suy giảm và dân số đã bớt nhiều, nhưng qua từng ấy thế hệ dòng trực hệ từ cha tới con vẫn không đứt đoạn. Và dù cho tuổi đời người Dúnedain càng lúc càng rút ngắn khi sống ở Trung Địa, thì sau khi dòng vua chấm dứt ở Gondor, sự suy tàn dưới miền Nam còn chóng vánh hơn; trên miền Bắc rất nhiều Thủ Lĩnh vẫn còn sống tới gấp đôi tuổi thọ thông thường Con Người, tức là vượt xa cả những lão trượng dân chúng ta. Aragorn thực tế sống đến hai trăm mười tuổi, lâu hơn bất kỳ ai thuộc dòng dõi ngài từ sau Vua Arvegil; nhưng ở Aragorn Elessar, danh giá của các vua xưa đã trở lại.

______________

[1] Đây là một tộc người lạ lùng không hiếu khách, tàn dư dòng giống Forodwaith, Con Người từ thuở xa xưa, quen sống trong cái lạnh giá băng ở vương quốc Morgoth. Thực tế là đến nay ở vùng đó vẫn còn lạnh giá, dù nằm về phía Bắc Quận chỉ chừng trăm lý. Người Lossoth xây nhà trong tuyết, nghe đồn còn có thể chạy trên băng nhờ buộc xương vào chân và chở xe thồ không có bánh. Họ sống chủ yếu ở nơi kẻ thù không tài nào đến được, trên Mũi Forochel rộng lớn chắn đầu Tây Bắc vịnh nước khổng lồ cùng tên, nhưng cũng thường cắm trại ở bờ Nam vịnh dưới chân Dãy Núi Lam.

[2] Chính nhờ thế mà chiếc nhẫn của Gia tộc Isildur còn giữ được, vì sau này được người Dúnedain chuộc lại. Tương truyền đó chính là chiếc nhẫn đã được Felagund ở Nargothrond tặng Barahir, mà sau này Beren đã trải bao hiểm nguy giành lại.

[3] Đây là hai Quả Cầu Annúminas và Amon Sûl. Quả cầu duy nhất còn lại trên Bắc là quả trên Tháp ở Emyn Beraid nhìn ra Vịnh Lune. Quả này được người Tiên canh giữ, và dù chúng ta không biết nhưng nó vẫn còn lại đó, tới khi Círdan đặt lên tàu cùng Elrond khi ông ra đi. Nhưng theo chúng tôi biết, không giống như những quả khác và cũng không đáp lại chúng, quả cầu này chỉ nhìn ra Đại Dương. Elendil đặt trên Tháp để có thể ngoảnh lại nhìn theo “đường thẳng” về Eressëa ở phương Tây đã biến mất; nhưng mặt biển cong bên dưới đã trùm lấp Númenor vĩnh viễn.

[4] Vương trượng là chứng vật chính của hoàng gia ở Númenor, như Nhà Vua cho chúng tôi biết; và tới Arnor cũng vậy, vua nước này không đội miện mà mang một viên ngọc trắng duy nhất, Elendilmir, Ngôi Sao Elendil, đeo trên trán đính vào băng vải trắng. Khi nói đến vương miện, hiển nhiên Bilbo đang nghĩ đến Gondor; có vẻ ông đã trở nên rất uyên bác về các vấn đề liên quan đến dòng dõi Aragorn. Vương trượng của Númenor nghe đồn đã bị phá hủy khi Ar-Pharazôn chết, vương trượng của Annúminas chính là cây gậy trắng của các Lãnh Chúa Andúnië, có lẽ là thành tạo lâu đời nhất dưới bàn tay Con Người nay còn được giữ gìn ở Trung Địa. Cây gậy đã hơn năm nghìn tuổi khi Elrond trao trả lại cho Aragorn. Vương miện Gondor tạo hình dựa theo mũ đầu mâu ở Númenor. Ban đầu nó chỉ là một chiếc mũ trụ đơn giản, nghe đồn chính là mũ Isildur đội vào Trận Dagorlad (vì mũ trụ của Anárion đã bị nghiến nát khi hòn đạn đá từ Barad-dûr sát hại ngài). Nhưng tới thời Atanatar Alcarin nó đã thay bằng chiếc mũ đính ngọc quý dùng trong lễ đăng quang của Aragorn.

(iv) Gondor và những Người Kế Vị Anárion

Có tất cả ba mươi mốt vị vua Gondor nối tiếp Anárion đã hy sinh trước cổng Barad-dûr. Dù biên giới không bao giờ ngớt động binh, trong suốt hơn một nghìn năm người Dúnedain miền Nam vẫn ngày càng giàu có và quyền thế trên đất liền và biển cả, mãi đến triều Atanatar II, đế hiệu Alcarin tức Vinh Hoa. Nhưng những dấu hiệu suy tàn lúc này đã chớm; vì chủng người cao quý miền Nam kết hôn muộn, đường tử tức cũng hiếm hoi. Falastur là vị vua đầu tiên không con, tiếp đến Narmacil I, con trai Atanatar Alcarin.

Ostoher vị vua thứ bảy là người cho xây lại Minas Anor, biến nơi đó thành hành cung mùa hè thay thế Osgiliath từ đó về sau. Trong thời ngài, Gondor lần đầu bị người hoang phương Đông tấn công. Nhưng Tarostar con trai ngài đánh bại và xua đuổi chúng, rồi lấy hiệu Rómendacil, “kẻ chinh phục miền Đông”. Tuy thế sau này ngài tử trận khi bọn phương Đông lại đổ quân đợt mới. Turambar con trai ngài đã báo thù cho cha, mở thêm lãnh thổ rất xa về phía đó.

Tới Tarannon đời thứ mười hai bắt đầu dòng các vị Vua Tàu; họ tổ chức thủy binh và bành trướng uy quyền của Gondor dọc bờ biển phía Tây và Nam Cửa Sông Anduin. Kỷ niệm các chiến thắng khi còn là Chỉ Huy Thủy Đội, Tarannon lên ngôi lấy hiệu Falastur, “Chúa miền Duyên hải”.

Eärnil I, cháu trai và là người nối ngôi ngài, cho sửa chữa cảng Pelargir có từ cổ đại, lập nên đội thủy quân hùng mạnh. Bằng cả đường biển và đường bộ ngài bao vây và chiếm được Umbar, biến nơi này thành khu cảng và thành trì lớn thêm vào uy vũ Gondor[1]. Nhưng Eärnil chẳng sống được lâu để tận hưởng chiến thắng. Ngài chết cùng rất nhiều quân sĩ và tàu chiến trong trận bão lớn ngay ngoài khơi Umbar. Ciryandil con trai ngài tiếp tục đóng tàu bè; nhưng Con Người Harad, dẫn đầu là những lãnh chúa bị đánh đuổi khỏi Umbar, kéo quân đông đảo về tấn công thành, và Ciryandil tử trận ở Haradwaith.

Suốt nhiều năm Umbar vẫn bị quấy nhiễu nhưng không bị mất nhờ sức mạnh của hải đội Gondor. Ciryaher con trai Ciryandil kiên nhẫn chờ đợi, rồi khi cuối cùng cũng tập trung đủ lực lượng, ngài từ Bắc đánh xuống cả đường bộ và đường biển, và sau khi vượt sông Hamen đoàn quân đánh bại tan tành bọn Người Harad, bắt vua của chúng xưng thần với Gondor (1050). Ciryaher sau đó lấy tên Hyarmendacil, “kẻ chinh phục miền Nam”.

Uy dũng của Hyarmendacil không bị kẻ thù nào thách thức suốt từ đó tới hết triều đại. Ngài làm vua suốt một trăm ba mươi tư năm, triều đại dài nhất lịch sử Dòng Anárion chỉ thua có một. Chính trong thời ngài Gondor đạt đến đỉnh cao quyền lực. Vương quốc mở rộng về phía Bắc tới đồng Celebrant và hiên Nam rừng Âm U; phía Tây đến sông Lũ Xám; phía Đông đến Biển nội địa Rhûn; phía Nam tới sông Hamen, rồi từ đó dọc bờ biển tới bán đảo và cảng Umbar. Con Người ở Đồng Bằng sông Anduin suy tôn nó; các vua Harad sùng phục nó, con trai họ sống trong triều để làm tin. Mordor trở thành xứ hoang tàn, nhưng họ vẫn đặt những thành trì lớn canh phòng, đứng chặn đầu các đèo núi.

Đến đó là hết dòng các Vua Tàu. Atanatar Alcarin con trai Hyarmendacil sống trong nhung lụa xa hoa, đến mức người ta bảo ở Gondor đá quý là sỏi cuội làm đồ chơi con trẻ. Nhưng Atanatar ưa cuộc đời dễ chịu, chẳng hoài công bảo vệ quyền lực đã truyền đến tay mình, và hai con trai ngài cũng cùng tính khí. Sự xuống dốc của Gondor đã bắt đầu từ trước khi ngài mất, và hiển nhiên không lọt ra ngoài mắt kẻ thù. Sự canh gác Mordor lơi lỏng. Tuy thế cũng phải mãi đến thời Valacar mới có ác họa lớn đầu tiên ập đến Gondor: cuộc nội chiến vẫn gọi là vạ Thân Tranh, gây ra những mất mát tổn hại khủng khiếp, không bao giờ hoàn toàn hồi phục.

Minalcar con trai Calmacil là một người có sức lực phi thường, và vào năm 1240, để khỏi vướng bận vì việc nước, Narmacil phong ngài làm Nhiếp chính toàn vương quốc. Từ năm đó ngài cai trị Gondor nhân danh các vua, tới khi lên nối ngôi cha mình. Mối lo chủ yếu của ngài là người miền Bắc.

Tộc người này đã lớn mạnh nhanh chóng trong cảnh hòa bình dưới bóng uy quyền Gondor. Các vua vẫn ưu ái họ, vì họ là họ hàng gần cận nhất với người Dúnedain tuy thuộc về chủng thấp kém hơn (phần lớn có gốc gác là họ hàng tổ tiên các gia tộc Edain khi trước), và trao cho họ những vùng đất rộng bên kia bờ Anduin, phía Nam Rừng Xanh Lớn, làm tuyến phòng thủ trước giống dân phương Đông. Vì trước đó hướng tấn công chủ yếu của bọn người phương Đông vẫn là từ phía đồng bằng nằm giữa Biển Nội Địa và Dãy Núi Tro.

Trong thời Narmacil I chúng lại bắt đầu gây hấn, dù mới đầu chỉ từng toán nhỏ; nhưng rồi vị nhiếp chính nhận ra người miền Bắc không phải lúc nào cũng trung thành với Gondor; một số nhập bọn cúng đám phương Đông, vì tham món lợi do cướp bóc, hay vì sự chia bè kết phái giữa các hoàng thân của chính họ. Vì vậy năm 1248 Minalcar đích thân dẫn lực lượng mạnh tới đánh bại đội quân phương Đông đông đảo giữa Rhovanion và Biển Nội Địa, tiêu hủy hết mọi vị trí dựng trại hay định cư của chúng phía Đông Đại Dương. Sau đó ngài lấy hiệu Rómendacil.

Khi trở về, Rómendacil cho củng cố thêm bờ Tây sông Anduin mãi đến tận nơi Lim Sáng hòa vào, và cấm mọi kẻ lạ mặt xuôi dòng sông đi quá khu đồi Emyn Muil. Chính ngài là người đã xây đôi cột Argonath tại miệng vào Nen Hithoel. Nhưng vì vẫn cần người, và vẫn muốn thắt chặt tình đoàn kết giữa Gondor với người miền Bắc, ngài đã nhận vào triều rất nhiều người trong số họ, thậm chí phong cho họ nhiều chức tước cao trong quân đội mình.

Được ưu đãi nhất là Vidugavia, người đã trợ giúp Rómendacil trong cuộc chiến. Ngài tự xưng là Vua Rhovanion, và quả thực là người hùng mạnh nhất trong số các hoàng thân miền Bắc, dù chỉ cai quản lãnh thổ nằm giữa Rừng Xanh và sông Celduin[2]. Năm 1250 Rómendacil phái Valacar con trai mình làm chánh sứ tới sống cùng Vidugavia một thời gian, dặn ngài học hỏi ngôn ngữ, phong tục và chính sách của người miền Bắc. Nhưng Valacar còn đi xa hơn dự tính của cha. Dần dà ngài đem lòng yêu mến đất nước và con người miền Bắc, rồi kết hôn cùng Vidumavi con gái Vidugavia. Phải đến vài năm sau ngài mới quay về. Chính từ cuộc hôn nhân ấy mà sau này dẫn đến vạ Thân Tranh.

“Vì quan chức Gondor vốn đã để bụng nghi ngờ những người miền Bắc sống trong triều; và việc thái tử nối ngôi, hay bất kỳ con trai nào của Đức Vua cũng vậy, lại hợp hôn cùng một kẻ thuộc nòi xa lạ, thấp kém hơn là một điều vô tiền khoáng hậu. Khi Vua Valacar già đi, đã bắt đầu có loạn ở nhiều tỉnh miền Nam. Hoàng hậu của ông vô cùng xinh đẹp và quý phải, nhưng chết yểu, theo số mệnh của các chủng Người thấp kém, và người Dúnedain e sợ con cháu bà cũng vậy, khiến suy tàn hùng khí của Các Vua Con Người. Thêm nữa họ không đẹp lòng khi phải tôn con trai bà làm chúa, mà dù nay có tên Eldacar, nhưng ngày trẻ, sinh ở vùng đất lạ, đã được đặt cho cái tên Vinitharya theo phong tục họ ngoại ông.

“Chính vì thế khi Eldacar lên nối ngôi cha, ở Gondor chiến tranh bùng nổ. Nhưng Eldacar không dễ dàng chịu bị cướp trắng quyền thừa kế. Thuộc dòng dõi Gondor, ông còn thừa hưởng chí khí không biết sợ của người miền Bắc. Ông tuấn tú và quả cảm, cũng không hề có dấu hiệu lão suy kém cỏi so với cha mình. Khi liên quân các hoàng thân quốc thích khác nổi dậy đánh lại ông, ông đã chống trả tới khi sức cùng lực kiệt. Cuối cùng ông bị vây hãm tại Osgiliath, và còn cố thủ hồi lâu, mãi tới khi bị đánh bật bởi cái đói và số quân nổi loạn áp đảo, bỏ lại sau lưng ngôi thành cháy rực. Trong trận vây thành và đốt phá ấy Tháp Lâu Đài Osgiliath bị phá hủy, quả palantír rơi mất dưới lòng sông.

“Nhưng Eldacar trốn thoát các địch thủ mà chạy lên phía Bắc, tìm về với thân thích ở Rhovanion. Ở đó nhiều người tập hợp bên ông, cả người miền Bắc đang phụng sự Gondor lẫn người Dúnedain mạn phía Bắc vương quốc. Vì nhiều người Dúnedain đã trở nên kính phục ông, còn nhiều người khác lại căm ghét kẻ thoán đoạt. Đó là Castamir, cháu trai Calimehtar, em trai Rómendacil II. Không chỉ là họ hàng gần nhất với dòng vua, ông ta còn cầm đầu lực lượng lớn nhất trong số quân nổi loạn; vì ông ta là Chỉ Huy Hạm Đội, huy động được dân chúng sống vùng duyên hải cũng như ở các cảng lớn Pelargir và Umbar.

“Castamir ngồi chưa ấm chỗ trên ngai vàng đã lộ bản tính kiêu căng và hẹp bụng. Bản tính nhẫn tâm của ông ta đã thể hiện từ khi chiếm được Osgiliath. Ông ta lệnh cho Ornendil con trai Eldacar, bị bắt trong trận chiến, phải bị xử tử; và dưới tay ông ta thành phố bị tàn sát hủy diệt kinh khủng hơn nhiều chiến sự yêu cầu. Minas Arnor và Ithilien vẫn nhớ mãi điều ấy, và ở vùng này tình cảm dành cho Castamir càng bớt nồng nhiệt khi hiểu ra ông ta chẳng lo nghĩ gì cho đất liền mà chỉ chăm chút đội thuyền, và còn dự định dời đô đến Pelargir.

“Vì thế ông ta mới đoạt ngôi được mười năm thì Eldacar, nhận thấy thời cơ đã đến, dẫn đoàn quân lớn từ phía Bắc đánh xuống, và dân cư đổ tới cờ ông từ cả Calenardhon, Anórien và Ithilien. Một trận đánh lớn nổ ra ở Lebennin đoạn vượt sông Erui, nơi rất nhiều người ưu tú của Gondor đổ máu. Đích thân Eldacar hạ gục Castamir giữa chiến trận, và Ornendil đã được báo thù; nhưng các con trai Castamir trốn thoát, mang theo họ mạc và đội thủy quân đông đảo cố thủ lâu dài tại Pelargir.

“Khi đã tập trung mọi lực lượng phe mình về đó (vì Eldacar không có tàu để kìm giữ quân địch trên mặt biển), họ rời khỏi cảng, lập căn cứ tại Umbar. Nơi này trở thành chốn trú chân cho mọi kẻ thù của nhà vua, một công quốc độc lập không thừa nhận vương quyền. Umbar còn xung đột với Gondor suốt nhiều thế hệ con người, quấy phá miền duyên hải và mọi giao thương trên biển. Lực lượng ở đây chẳng bao giờ bị hoàn toàn dập tắt, mãi cho đến thời Elessar; còn lãnh thổ Nam Gondor trở thành vùng tranh chấp giữa Các Vua và Hải Tặc.”

“Để mất Umbar là một đòn nặng với Gondor, không chỉ vì vương quốc bị cắt mất nửa Nam và bớt khả năng chế ngự bọn Người Harad, mà còn vì chính đó là nơi Ar-Pharazôn Kim Đế, Vua Númenor cuối cùng, đã đổ bộ và khuất phục Sauron. Bất chấp hậu quả khủng khiếp mà việc đó đem lại, ngay những người ủng hộ Elendil cũng kiêu hãnh mà nhớ lại ngày đoàn thuyền hùng hậu của Ar-Pharazôn đổ tới từ Đại Dương thăm thẳm, và trên ngọn đồi cao nhất ở mũi đất bên Cảng dựng cột trắng cao ghi dấu việc này. Trên đỉnh cột đặt quả cầu pha lê lớn đón nhận những tia Mặt Trời cùng Mặt Trăng, chói lọi như ngôi sao sáng, những hôm trời quang có thể nhìn rõ từ tận Gondor hay từ giữa biển xa phía Tây. Cây cột đứng đó mãi đến khi Sauron trỗi lên lần nữa, chỉ sau đó ít lâu, và Umbar bị bề tôi hắn chiếm lĩnh, còn tượng đài nhắc về nỗi hổ nhục của hắn bị quật đổ.”

Sau khi Eldacar tái lập, huyết thống hoàng gia cùng những gia tộc Dúnedain khác lại càng pha trộn với nòi giống Con Người thấp kém. Vì rất nhiều người vĩ đại đã bỏ mình trong vạ Thân Tranh; còn Eldacar thì ưu ái người miền Bắc đã giúp ngài đoạt lại ngai vàng, và dân cư Gondor được bổ sung thêm bằng những đợt đi cư lớn từ Rhovanion.

Cuộc hỗn huyết không đẩy mạnh ngay từ đầu sự héo mòn của dòng giống Dúnedain như người ta đã sợ; nhưng điều ấy vẫn tiếp diễn, từng chút một như từ trước đến nay. Vì, tới giờ không phải nghi ngờ nữa, điều đó có nguyên do trước hết là vì bản thân Trung Địa, và vì ân sủng của người Númenor đã dần phai nhạt sau sự suy tàn của Đất Nước Sao. Eldacar sống tới hai trăm ba mươi lăm tuổi, làm vua năm mươi tám năm, trong đó có mười năm lưu vong.

Ác họa thứ hai và cũng là lớn nhất đổ xuống Gondor vào triều đại Telemnar, vua đời thứ hai mươi sáu, con của Minardil con trai Eldacar đã tử trận ở cảng Pelargir dưới tay bọn Hải Tặc Umbar. (Cầm đầu chúng chính là Angamaitë và Sangahyando, các chắt trai của Castamir.) Chỉ ít lâu sau đó cơn đại dịch chết người ập đến trên luồng gió đen thổi tới từ phương Đông. Nhà Vua cùng tất cả con cái đều chết bệnh, cùng với một phần lớn dân cư Gondor, nhất là những người sống ở Osgiliath. Rồi vì mệt mỏi và thiếu quân, việc canh phòng ở biên giới Mordor yếu đi và các thành trì chắn đèo núi bị bỏ trống.

Sau này người ta nhận thấy biến cố đó xảy ra ngay giữa khi Bóng Đen đậm đặc dần ở Rừng Xanh, và nhiều thứ độc ác nay tái xuất, báo hiệu Sauron lại nổi lên. Quả đúng là ngay những kẻ thù của Gondor cũng hứng chịu hậu quả, nếu không hẳn vương quốc đã bị đánh đổ khi thất thế, nhưng Sauron biết đợi, và rất có thể chính việc thả lỏng Mordor mới là mục tiêu chủ yếu của hắn.

Khi Vua Telemnar qua đời, Cây Trắng ở Minas Anor cũng héo khô rồi chết. Nhưng Tarondor, cháu trai lên nối ngôi ngài, đã trồng lại hạt cây trên hoàng thành. Chính ngài là người dời dô về Minas Anor vĩnh viễn, vì Osgiliath bây giờ gần như đã bỏ hoang và bắt đầu đổ nát. Rất ít kẻ chạy trốn bệnh dịch về Ithilien hay các thung lũng phía Tây còn muốn quay về.

Tarondor lên ngôi khi còn trẻ, là người cai trị lâu dài nhất trong số Các Vua Gondor; nhưng ngài chẳng đạt được thành tựu gì nhiều ngoài việc bố trí lại kinh đô và chậm chạp vun lại sức mạnh thuở trước. Nhưng Telumehtar con trai ngài, nhớ lại cái chết của Minardil và tức giận bọn Hải Tặc hỗn hào đã lên tận bờ Anfalas mà cướp phá, đã tập hợp binh lực hùng hậu đổ tới Umbar năm 1810. Trong cuộc chiến này những cháu chắt cuối cùng của Castamir bị tiêu diệt, và lần nữa Umbar lại trở về với các vua trong một thời gian ngắn. Telumehtar lấy thêm hiệu Umbardacil vào tên mình. Nhưng những ác họa sắp rơi xuống Gondor lại lần nữa tước mất Umbar, trao vào tay bọn Người Harad.

Ác họa thứ ba là cuộc xâm lăng của quân Cưỡi Xe, đã rút cạn chút sinh lực của Gondor phai tàn qua gần trăm năm chiến sự. Bọn Cưỡi Xe là một tộc người, hay là liên quân nhiều tộc người, gốc ở phương Đông, nhưng chúng mạnh hơn và có vũ khí tốt hơn bất kỳ địch thủ nào từng đọ sức. Chúng hành quân trên những xe thồ lớn, còn thủ lĩnh xông trận trên chiến xa hai ngựa. Bị đám phái viên của Sauron kích động, như sau này người ta biết, chúng đổ tới tấn công Gondor đột ngột, và Vua Narmacil II chết trận khi giao chiến bên kia dòng Anduin nãm 1856. Nhiều nhóm người mạn Đông và Nam Rhovanion bị bắt làm nô lệ; biên giới Gondor thời điểm đó thu về dòng sông và dãy đồi Emyn Muil. [Theo ước đoán, chính thời kỳ này bọn Ma Nhẫn vào lại Mordor.]

Calimehtar, con trai Narmacil II, nhân một cuộc nổi dậy ở Rhovanion đã báo thù cho cha bằng chiến thắng lớn đập tan bọn người phương Đông ở Dagorlad năm 1899, và trong một thời gian mối nguy đã bị đẩy lùi. Đến triều đại Araphant trên miền Bắc và Ondoher con trai Calimehtar dưới miền Nam, lần nữa hai vương quốc lại cùng nhau lập kế sau thời kỳ dài ghẻ lạnh và xa lánh. Vì cuối cùng họ cũng nhận thấy chỉ có một thế lực và ý chí duy nhất điều khiển cuộc tấn công từ rất nhiều mặt trận nhằm vào những người Númenor còn sống sót. Cũng vào thời kỳ này Arvedui kế vị Araphant kết hôn cùng Fíriel con gái Ondoher (1940). Nhưng cả hai vương quốc đều không có cách nào cử tiếp viện cho bên kia; vì Angmar lại phái quân tới đánh Arthedain cùng lúc bọn Cưỡi Xe trở lại rất đông đảo.

Rất nhiều quân Cưỡi Xe lúc ấy đi xuống phía Nam Mordor, liên minh với bọn người ở Khand và Cận Harad; và đợt tiến công từ cả Bắc lẫn Nam này đã khiến Gondor suýt bị tiêu diệt. Năm 1944, Vua Ondoher cùng cả hai con trai, Artamir và Faramir, tử trận trên phía Bắc cổng Morannon, khiến quân thù tràn xuống Ithilien. Nhưng Eärnil, Chỉ Huy đạo quân Nam, đã chiến thắng rực rỡ ở Nam Ithilien, diệt đoàn quân Harad vừa vượt sông Poros. Ngài hối hả tiến về phía Bắc, tập hợp tất cả những người còn lại trong Đạo Bắc đang rút chạy, và đánh vào khu trại chính của quân Cưỡi Xe trong lúc chúng tiệc tùng chè chén vì tin rằng Gondor đã bị lật đổ, chẳng còn việc gì ngoài vơ vét cướp phá. Eärnil ập vào trại như vũ bão, phóng hỏa đốt hết đoàn xe, đánh đuổi kẻ thù vỡ trận chạy khỏi Ithilien. Một phần lớn những kẻ chạy trốn ngài bỏ mạng trong vùng Đầm Lầy Chết.

“Khi Ondoher và các con trai qua đời, Arvedui ở vương quốc Bắc đòi lấy vương miện Gondor với tư cách hậu duệ trực hệ của Isildur