← Quay lại trang sách

4 - Những nhà hàng xóm

Bây giờ bốn bên hàng xóm, năm này qua năm khác, dường như bao giờ cũng vẫn thế. Người lớn già đi và cứ mỗi năm càng lắm trẻ con. Khi nào cũng nghe tiếng trẻ cười nói inh ỏi.

Ừ, mà khác thật, cái làng đã được đổi thành thị trấn - thành phường. Các xóm 1, xóm 2, xóm 3, xóm 4 gọn ghẽ. Không còn chỉ quanh quẩn bên này bên kia cũng chia ra làng Tân, làng Nghè. Làng Nghè lại còn những xóm Trong, xóm Giữa, xóm Trẽ, xóm Ngoài, rắc rối đến lắm tên.

Mấy nhà quanh quanh tôi chẳng có gì khác. Bác đôi Lạc bằng tuổi tôi vẫn đi công tác. Bên kia bờ chuôm, ông bà Tám đã nghỉ hưu. Thỉnh thoảng lên chơi cậu con trai làm bác sĩ trên Thái Nguyên. Mấy nhà bà con Việt kiều ở Thái Lan về được đưa đến định cư đây, đã thành người làng. Nhà bác Ba chung sân với nhà tôi cũng vậy. Bác Ba cũng bằng tuổi tôi. Tôi nghe nói cái năm Thân ấy các chị trong làng ở cữ đẻ toàn con trai. Chúng tôi già đi. Nhưng con cái, các anh các chị nhà bác Ba lớn lên, mỗi người mỗi công việc. Chỉ ngắm gia cảnh nhà bác ấy cũng đủ thấy ra một nếp quen thuộc, hầu như mọi nhà trong làng đều na ná thế và cũng khác thế.

Hai bác đã quá tuổi, nghỉ việc dệt của hợp tác từ lâu. Các chị lớn đã đi lấy chồng. Người làm công nhân nhà máy phibrô xi măng. Người bán hàng mậu dịch. Các anh, người đi công nhân, người đi bộ đội, một anh đã hy sinh trong trận Khe Sanh, một anh hy sinh ở Quế Sơn, bác gái đã vào tận nơi thăm mộ. Anh Kỳ lái xe đoàn 559 Trường Sơn, trung đoàn Quang Trung anh hùng. Anh thương binh ấy công tác ở sở Thương binh Xã hội thành phố.

Mấy cây dừa vẫn một năm hai vụ trĩu quả. Bác gái, thỉnh thoảng đi Bắc Giang quảy lồng gà về bán ở chợ. Nhà nuôi mấy lứa lợn. Bác trai sắm cái xe ba gác chở than cho hợp tác xã. Ngoài sáu mươi rồi, bác cầm càng vẫn vững tay. Ngày xưa, chỉ nghĩ đến kéo cái xe bò, người ta đã ngán ngẩm nỗi cu li cu leo. Nhưng đây là cái xe bò của nhà mình. Bác Ba đi xe than, chiều về sang giếng tắm rồi lên ngồi cái ghế xi măng ở bờ ao, trông ra cây đa cổ thụ đầu làng - cây đa già cỗi vắt rễ cây nọ sang cây kia, thành một cây hai gốc, vẫn trơ ra như thế từ bao đời. Bác cười khà khà, bảo tôi: “Chú cứ về đây chịu khó đi đẩy xe than với anh rồi chiều chiều anh em làm vài chén rượu thuốc, bệnh áp huyết cũng tiêu tan ngay thôi”. Rồi lại cười với nhau.

Nhưng mà ngày trước không như thế đâu. Ở xóm này chỉ có cái nhà tây một gian có trần của ông xã Lịch, còn thì nhan nhản toàn nhà tranh tường đất mấp mô như những con rùa bò.

Cái xóm nhà tôi ngày trước ẩn mình trong những bụi tre, mấy cây nhãn và giữa những ao chuôm bờ lau la liệt khoai nước và chim cuốc hoàng hôn về kêu khắc khoải. Trông làng xóm san sát bây giờ, người ở lứa tuổi mới lớn ngỡ xưa nay vẫn thế. Không phải. Thuở xưa, người ta mải miết đi kiếm ăn, kiếm gần chẳng ra, phải bò ra xa, tận Đất Đỏ, Dầu Tiếng trong “Sà Ghềnh”, đi không về, nhiều lắm.

Như vậy đấy. Đôi bên hàng xóm không phải như bây giờ. Nhiều nhà không còn nữa.

Nhà chú Cát ngay đằng sau tường. Vợ chồng chú ấy thật khỏe mạnh. Thím ấy núc ních béo tròn. Chú ấy ngày ngày quảy nước thuê, chặp tối lại ra Kẻ Chợ kéo xe. Cái tường đất đầu nhà có bờ rào xương rồng. Trẻ con bảo nhựa cây xương rồng bà, xương rồng ông mà nhỡ quệt vào mắt, nổ mắt. Đứa nào cũng sợ. Mảnh xương rồng nở hoa vàng li ti bên những cái gai sắc gớm ghiếc. Đành đứng xa nhìn. Vợ chồng chú Cát đi làm vắng, ngõ chỉ rấp một cành rong. Chẳng có gì đáng của, nhà không biết đến cái khóa bao giờ, mà trẻ con thì sợ cây xương rồng.

Tưởng như cái hoa và cây xương rồng bà dữ tợn với cành rong rấp ngõ, hàng bờ rào dậu lưa thưa ấy cứ đứng đấy mãi, lâu dài đến sốt ruột như trẻ con mong bao giờ thành người lớn. Thế mà cũng biến mất cả. Nhà chú Cát, nhà ông Hương Cam đã bán cho người ta năm nào, tôi không nhớ. Chúng tôi có những hàng xóm mới, bác đội Xị, bác ba Dương...

Xế cửa, nhà ông hương Lãng. Nghe nói không phải nhà ông, ông hương Lãng ở trên Yên Thái xuống ở nhờ nhà chú Dự hay nhà ai. Nhà ở nhờ có khác, chẳng quét tước dọn dẹp. Cái sân lạnh lẽo, đầy cứt giun đùn. Lại nghe đồn nhà có ma, cánh cửa gỗ lúc nào cũng khép hờ. Cây hoa hồng ta bên cái phên nứa, nở vô khối mà cứ rữa ra không ai dám vào hái. Tháng hai, hoa bưởi rụng, mùi thơm và màu hoa trắng rờn rợn.

Một năm kia, chú Dự ở ngoài Uông về. Chú ra Uông Bí làm gì ngoài ấy, không biết. Hình như bấy lâu chú cũng vạ vật ở Uông chứ cũng chẳng kiếm được công việc ra hồn. Chú trở về làng một mình. Chẳng đem theo được cô vợ thiên hạ. Nhiều người làng đi làm ăn xa thường có vợ lẽ về theo. Như ông cai Thảnh, ông Bẹp, ông xã Vị... Cái nhà ba gian vẫn âm thầm thế.

Tôi không biết Uông là đâu, nhưng cứ tưởng người làm ăn tận chốn nào về phải to lớn, khác lạ hơn người làng. Không, chú Dự mặc cái áo xanh đã bạc mốc hai vai. Người bé nhỏ, mà già úa, mặt choắt, xanh xám như cơn mưa.

Rồi tôi cũng mang máng biết ít lâu sau chú Dự xin được chân làm ở sở tàu điện ngoài Thụy.

Chúng tôi hỏi:

- Chú Dự được đi tàu điện không mất tiền à?

Chú Dự cười tủm tỉm. Chúng tôi lại hỏi:

- Chú Dự biết nhảy tàu chứ?

Chú Dự không nói. Nhưng chắc là chú Dự biết nhảy tàu. Người nhà tàu điện phải biết nhảy tàu chứ. Trong làng chẳng mấy ai có việc ra Kẻ Chợ, nên chẳng đi tàu điện mấy khi. Thường ngồi bàn tán về tàu điện nhiều hơn. Vốn xưa nay các tay ăn chơi lên xuống tàu điện đều nhảy tàu chứ không đợi tàu đỗ mới bước lên như mọi người ta. Tàu đang chạy nhanh, ra cửa đứng nghiêng người, nhẹ nhàng thả chân xuống. Mà dù đã đợi ở bến, cũng cứ chờ tàu chạy rồi mới nhún lên. Có thế mới là tay chơi, tay thạo.

Bỗng lúc chập tối, nghe trong xóm nói chú Dự bị chết chẹt tàu điện rồi. Chỗ cổng Rong ấy, đường xe đường tàu thong dong hai hàng, làm sao lại ngã đâm vào tàu điện được. Nhưng cũng có người thì thào rằng bốn bên cổng Rong, chồng chất những tha ma, mả mới, mả cũ nhiều vô kể. Nhiều lần rồi, mới chập tối đã có người trông thấy ma run rủi đưa người ta vào bánh tàu. Đã mấy đám chết chẹt tàu đúng chỗ ấy. Cũng chẳng hiểu chú Dự nhảy tàu ngã hay chú bị tàu chẹt. Khi tôi đã lớn biết nghĩ rộng ra hơn, có khi tôi ngờ ngợ hay là chú đâm đầu vào tàu điện. Cũng nhiều người đã tự tử thế.

Ở đầu xóm cạnh ao làng có nhà ông tư Dót đông con. Trong giữa xóm, nhà ông Hốt cũng một lũ lau nhau chạc tuổi chúng tôi.

Thằng Được nhà ông Hốt, anh em thằng Nhỡ nhà ông Dót suốt ngày chơi tha thẩn đầu làng, bên bãi, trên quán. Đánh bi đất, nặn nồi niêu, câu cá, chơi đố lá, thả thuyền, trèo nhãn, ném nụ hoa gạo... với chúng tôi.

Có điều, bao giờ anh em nhà Được, nhà cu Nhỡ cũng vừa chơi vừa phải làm, và chúng tôi đứa nào cũng làm hộ nhà nó. Chúng tôi nhặt lá đa, hàng thúng lá đa. Để nhà nó lấy cái đun. Có khi lên đường Thành bẻ cành me tây để nhà nó làm củi. Lại có khi cả buổi trèo cây bàng đâu xóm Giếng ngắt lá rồi chúng nó lại đội lên chợ bán cho các bà gói mắm tôm, gói muối, cua mặn...

Một hôm, có đứa thì thào:

- Nhà thằng Được bán rồi.

Chúng tôi chưa hiểu nỗi khổ bán nhà, chỉ lạ cái nhà đương ở thích thế mà bán. Cây nhãn, cây na, cây khế la liệt ra tận bụi tre bờ ao. Lại có cây bưởi đường tháng hai đẫm mùi hoa thơm, năm nào tôi cũng được trèo hái quả bưởi cho ông Hốt bán chợ tháng tám. Tôi hỏi Được, cho chắc chắn:

- Nhà mày bán rồi à?

Được vênh mặt nói như khoe:

- Nhà tớ vẫn ở như mọi khi.

- Bán cho người ta rồi cơ mà?

- Bây giờ nhà tớ ở nhờ.

Hình như nhà đứa nào có nhà bị bán, lúc đầu, cũng nói giống thế. Rồi đến khi dọn biến đi bao giờ thì không ai biết. Cũng như cái nhà ông tư Dót có bốn anh em thằng Nhỡ bán nhà không biết lúc nào. Nhà ông Hốt, nhà ông tư Dót rồi đi ở đâu, tôi cũng quên và dường như tôi cũng không để tâm. Từ ngày ấy, chẳng bao giờ gặp lại anh em nhà Được, nhà cu Nhỡ. Chỉ nhớ hai nhà ấy đông con cái nhất các nhà hàng xóm. Đứa nào cũng cởi trần quanh năm. Chẳng biết rồi có đứa nào sống được qua nạn đói 1945 không?

Nhà bác khán Lợi cạnh nhà chú Cát, ở sát sau tường nhà tôi. Mẹ thằng Tiếp mất đã lâu. Thằng Tiếp bằng tuổi tôi, cũng chỉ sốt mấy hôm rồi chết. Bác khán lấy kế một người thợ seo dưới Nam lên làm nhà ông Tám. Năm đói, cả nhà ngắc ngoải. Cái Lợi đi lấy chồng rồi về nhà chết đói. Chẳng biết có phải vì cái Lợi cao lớn, ăn khỏe quá, ròng rã cả tháng chẳng kiếm được cái ăn, nên phải chết trước.

Đến khi kháng chiến, nhà bác khán Lợi tản cư trôi dạt lên mãi Vĩnh Tuy trên Hà Giang. Nghe nói, ngày hòa bình 1954, bác khán có về thăm làng vài ngày rồi lại đi. Tôi không được gặp. Cái làng cũ, đối với nhà bác khán, rặt những chuyện buồn, bác chẳng về nữa. Trên Vĩnh Tuy, nghe nói bác làm ruộng và nhà có đồi trồng chè.

Dần dà mới nhận ra làng xóm thời ấy với bây giờ khác nhau nhiều.