16 - Sáng ngoại ô
Ai ơi đứng lại mà trông
Kìa vạc nấu dó, kìa sông đãi bìa
Kìa giếng Yên Thái như kia
Giếng sâu chín trượng, nước thì trong xanh
Đầu chợ Bưởi có điếm cầm canh
Người đi kẻ lại như tranh họa đồ
Cổng chợ có miếu thờ vua
Đường cái chính xứ lên chùa Thiên Niên
Chùa Thiên Niên có cây vọng cách
Chùa bà Sách có cây đa lông
Cổng làng Đông có cây khế ngọt
Gái kẻ Cót buôn dăm buôn xề
Trai làng Nghè dệt cửi kéo hoa
An Phú nấu kẹo mạch nha ngọt lừ
Làng Vòng làm cốm để mà tiến vua
Họ Lại làm giấy sắc vua
Làng Láng mở hội kéo cờ hùng ghê
(Ca dao vùng Bưởi)
Cái xóm nách đình Yên Thái rộn rịch từ gà gáy.
Con lợn bị chọc tiết kêu đinh tai cả tiếng đồng hồ rồi thở òng ọc. Ai cũng phải thức giấc tỉnh hẳn, cho đến sáng bạch. Cái nhà chú Sồi giết lợn bán chợ ấy đã khua cả xóm dậy.
Chỉ có một mảnh sân bằng bàn tay lổn nhổn gạch củ đậu mà chú Sồi đã một mình bắt lợn chọc tiết, cạo lông, rồi mổ, làm lòng, nhồi tiết. Lại ra giếng cổng làng quảy nước, đổ đúng ba thùng nước vào cái nồi ba mươi. Tất cả cỗ lòng quẳng vào đấy. Xong gọn vẫn chưa sáng hẳn. Chú Sồi vào làm tợp rượu. Lạnh thế mà chú Sồi phanh ngực cái áo xuyến ống tay rộng ngoài đen nhánh trong nâu, chú Sồi lăn ra tấm phản góc nhà. Vừa đặt mình, đã ngáy khò khò.
Gió heo may sột soạt trên mái nhà tranh đưa cái rét về rồi.
Thím Sồi chui trong cửa màn ám khói đen nhẻm ra. Thím cứ việc thổi bếp, chất thêm củi cháy rừng rực quanh nồi nước luộc lòng. Cái nồi ba mươi miệng rộng huếch hoác đã sôi rèo rèo quanh mép. Người đến mua nước xuýt xúm xít ngoài bậc cửa từ lúc nào. Chưa ai dám vào. Còn lâu. Phải đợi chú Sồi trở dậy vớt lòng đã. Rồi lại xả thịt cả con lợn xếp từng vỉ cho mẹ con thím Sồi đặt vào đòn gánh, khiêng thịt ra phản ngoài chợ.
Chú Sồi vùng dậy, lại bắt tay vào việc. Tinh tươm đâu đấy, chú Sồi mới vần chiếc thớt đại ra. Bao nhiêu cái nhờ nhờ, lủn mủn, miếng bèo nhèo, bạc nhạc, miếng phổi còn sót, một khúc khấu đuôi cạnh đám nước lờ lờ lẫn tiết, lẫn mùn thớt, chú Sồi đưa sống con dao bầu gột cồn cột, rồi nghiêng thớt trút cả vào nồi. Rồi lại đẩy củi cho lửa reo lên.
Trong nồi, nước xuýt nổi váng đục những mùn tiết phòi ra ở đầu cái xiên sắt chú Sồi vừa chọc vào khúc lòng, xem dồi đã chín chưa.
Thím Sồi đã lại ở ngoài chợ về. Lần này, một mình thím bưng cái sảo lòng gan, cổ hũ và các thứ chú Sồi vừa vớt nốt trong nồi ra.
Chỉ còn nồi nước xuýt réo sùng sục. Đám người nhấp nhô ngoài cánh cửa phên xô nhau xách quang vào. Cái bát, cái phạng, cái liễn, cái niêu, cái nồi đồng méo mó, cái chĩnh con lồng trong quang. Người mua nước luộc lòng về ăn cơm sớm, đợi lượt được múc, vào ngồi quanh bếp lửa.
Trong nồi, cái nước xám như nước cống đen mờ sôi lục bục. Thím Sồi đã khoán cả nồi nước xuýt ấy cho chú Sồi bán lấy tiền bỏ túi, mua rượu và thức nhắm hai bữa. Người mua nước xuýt đã biết cái lệ ấy của nhà này. Chú Sồi bỏ vào một vốc muối rồi múc nước xuýt lên nếm. Chú ném hai vốc hành dăm vào làn nước bốc khói. Chú vục cả cái gáo dừa, đổ vào phạng cho từng người đương tranh nhau chìa quang ra. Chốc, người chen lộn xộn, chú Sồi lại quát chửi to: Tỉu nhà ma... Tỉu nhà ma... Không biết chú chửi ai, hay chửi cái gì. Chẳng để ý. Cũng như chẳng ai để ý chú Sồi là người khách. Cái nhà Tàu này đến đây ở đã bao nhiêu đời rồi. Thím Sồi cũng nói tiếng Bưởi. Giọng ỏn ẻn nặng chịch.
Càng đông trẻ con huých nhau vào mua nước xuýt. Nhiều đứa mua được rồi, xách cả liễn sang để ở xó nhà ông ký Hài - ngày trước, năm xưa ở cửa nhà ông đồ Huỵch, anh nó, bố nó, cũng để cái liễn nước luộc lòng như thế. Lớp học ở ngay xế cổng. Chốc nữa, tan học xong mới đem về. Bây giờ còn lấy sách ra. Đứa nằm chổng mông viết phóng. Đứa nhai nhải gào lên: tính tương cận... tập tương viễn... tập... đứa ngoẹo mồm đánh vần... o... a... oai... Đứa mài mực, đứa mài son cho thày. Có đứa đã phải nằm thẳng cẳng dưới đất, thày đồ ngắm nghía thong thả đánh đích đáng từng ngọn roi mây vào đít nó. Thày rút cái khăn, lau khan lên mặt. Như mèo rửa mặt, thế là xong, rồi thày quấn lại búi tóc. Tiếng trẻ con nhao nhao, tiếng la khóc inh ỏi như ve, như ong.
Ngoài đường, người quảy đòn ống chạy huỳnh huỵch đổ nước vào tàu seo. Những đôi thùng đại mai ghép, tròn và lùn, sóng sánh nước. Mỗi chiếc tàu seo giấy phải hai người gánh nước từ gà gáy ngoài giếng thơi vào đổ đầy. Cũng bằng lúc còn tối đất, chú Sồi đã dậy chọc tiết lợn. Đám người gánh nước thuê cởi trần, mồ hôi nhễ nhại giữa trời rét căm căm. Cho tới tờ mờ sáng, dãy lều dưới bóng hàng dừa bờ ao một hàng các tàu đã xâm xấp nước. Các nhà mới ra đổ cối lề, cối dó, mẻ nước gỗ mò vào tàu. Lúc ấy, những tay thợ kéo tàu cũng vừa đến.
Mỗi tàu seo đôi seo ba phải hai người kéo tàu. Chỉ ở dưới Cót làm giấy hẩm tàu seo một thì một người kéo. Gió thổi buốt tê. Vẫn những người cởi trần, tay cầm chiếc đòn seo khoắng dài trong lòng tàu. Tiếng đánh nước xì xoẹt, xì xoẹt nhấp nhô, đều đều. Khắp nơi vang động tiếng kéo tàu đánh nước thế cho tới rạng sáng. Mảng lề, mảng dó tơi ra, quyện đều vào nước gỗ mò láng khắp. Thế là đoạn được cái tàu cho chốc nữa các cô thợ vào ngày seo.
Cả xóm vang tiếng xì xoẹt kéo tàu sôi nổi dần lên. Những người thợ giã dó từ các lều cối chày tay ở cuối làng bước ra, co ro mắt nhắm mắt mở trong chiếc áo tơi lá. Tiếng chày buông “xịch xì tum... tum...” từ gà gáy tới giờ mới được một cối đó... ai cũng lử lả, sã cánh, không cố hơn được nữa.
... Nhịp chày Yên Thái, mảnh gương Tây Hồ...
Cũng một quang cảnh cực nhọc ấy, thuở trước những nhà thơ thao thức trong đêm trăng hồ Tây nghe phảng phất tiếng giã dó lan trên mặt nước lồng lộng. Mà đấy là nhịp chày giã dó cuối xóm Đông Lân làng Hồ. Ngoài hồ Tây, không nghe được tiếng cối giã tận trong cầu Sau làng Yên Thái. Dãy cối giã dó chày tay tựa vào mép nước hồ, sau lưng nhà cụ danh sĩ Lý Văn Phức ở xóm Đông Lân làng Hồ. Xịch xì tum... những tiếng chày buông tum tum nặng nề, khắc khoải thâu đêm vang ra mặt nước. Người làm nghề giấy nhớ đêm giã dó khó nhọc cho tới sáng mới được một mẻ bột rẻo mịn như đất thó đùn lên tròn quanh vành cối, rồi đem quang sọt quảy về đãi bìa. Quãng sông Tô Lịch qua làng Hồ, làng Đông, làng Thọ có những bến sông dậm bìa, đãi bìa nước trong quang đãng. Trời đã sáng hẳn. Bóng những cây nhãn lồng cống Đõ lá xanh đen ngả vờn bóng nước. Nước sông buốt thon thót, lô xô người đã lội ra đãi bìa.
Bác thợ đãi bìa thả cái rá đại xuống. Con bìa dó nở ra trắng ngà. Chân tay rún đều một dáng khoan thai như múa, người đãi bìa chốc chốc lại vờn tay thục quanh cạp rá, lùa những sợi dó tơi xuống. Bóng người bóng nước lung linh, nhịp nhàng, trời rét như cắt ruột.
Ai ơi đứng lại mà trông
Kìa vạc nấu dó, kìa sông đãi bìa
...
Đầu chợ Bưởi có điếm cầm canh...
Đến thời Tây không còn “điếm cầm canh” nữa. Ở đầu chợ, cái đồn lính xen đầm khố xanh rộng sang đến nửa vườn Bàng. Sở cẩm Hàng Trống, Hàng Đậu rồi đến bóp cút lít(1) Quan Thánh, Yên Phụ lên đến Bưởi đã là ngoại ô hết phố xá, không có đội xếp mà lính khố xanh canh gác. Cái đồn khố xanh này bề thế choán hẳn một góc đường. Người lính khố xanh canh cổng hay đứng trên lô cốt, ống chân quấn xà cạp, đi đất, đội nón - như quân tốt trong cỗ bài tam cúc. Người ta cũng gọi đùa tiếng lóng lính khố xanh là thằng tốt hỉn. Lão giám binh Tây râu xồm, đội mũ đít vịt vải vàng đứng nhau nháu ngoài cổng đồn từ lúc bảnh mắt. Tay lão cầm cái roi da cặc bò, trố mắt nhìn người qua lại.
1. Bóp cút lít (tiếng Pháp: Poste de police) trạm gác của đội xếp.
Đêm Nhật đảo chính tháng ba 1945, chỗ ấy đọng một vũng máu. Người ta bảo là máu lão râu xồm Tây đồn bị quân Nhật lôi ra cắt tiết ở đấy.
Trên ngã ba đầu Thành, đầu chợ, đầu làng tấp nập từ tờ mờ đất. Bóng người loáng thoáng trong sương mù. Bên kia bãi tha ma, những ụ vạc nấu dó làng Yên Thái, làng Hồ mỏm vôi trắng lẫn khói trắng trong vạc tuôn ra. Bọn con gái và các bà đi đón buổi seo đã đứng từng đám trước cổng làng Thọ, làng Đông. Mỗi sáng, thợ seo các làng tụ tập đến hóng việc ở đấy, như cái chợ người. Những nhà khá giả, có năm ba tàu, mượn thợ đặt cọc seo năm. Nhưng có thợ mướn, có cả chủ mướn. Đấy là cả nhà mỏng vốn, đi thuê tàu. Cả tháng chỉ được vài ngày việc. Nhiều nhà như thế. Sớm sớm, càng nhiều người đi đón seo, đón can, người đứng đợi người thuê làm bìa, bóc uốn.
Cứ lóng ngóng cả đám đấy, gió rét như vun người thắt lại. Cái áo đổi vai mong manh, gió lùa buốt tái mặt. Người mướn thợ ra đặt cược vào lòng bàn tay nửa xu, một xu, hẹn chốc nữa vào tàu. Ngoài bờ sông đã im từ lâu tiếng kéo xì xoẹt trong lều tàu. Chẳng còn mấy người ra hỏi thuê người seo, can. Đã nhỡ buổi, vậy là ế. Trời lạnh mà cởi cái áo vắt lên vai ra về. Bụng dạ rối tơ vò. Hãy biết thế là hôm nay đói rồi.
Ngoài đường ùn ùn người. Các làng trong Noi gánh cẳng ngô ra, đi một dãy. Cái bồi, mỗi hôm có giấy can, phải đốt đến vài gánh cẳng ngô, gánh rơm. Các vùng bên Hối, bên Bỏi sang mua tro. Trên Cáo xuống bán rá đãi bìa, liềm seo một seo đôi, cái thép cẳng lá thông để bồi giấy can, phèn giấy. Tiếng người rao cất lên ười ượi, vào tận các ngõ.
Ở đâu nhô ra một cái cáng tre, chiếu đắp kín đầu đuôi. Người ốm phù nề, bại liệt, người đẻ rơi hay người bị chó dại cắn đương lên cơn. Mùa đông hanh hao cũng là mùa chó lú. Cái cáng hai người khiêng đi đâu. Phải ra tận Phủ Doãn mới có nhà thương thí.
Người đi làm sớm đổ vào trong phố đã ngổn ngang trên bến tàu điện. Thật ra, chỉ có những hôm chợ tơ ngoài Hàng Gai, Hàng Đào mới đông người đi tàu. Phiên tơ, đãy lụa đeo cao ngang đầu, người ngồi chật đôi bên hàng tàu. Những người ngày ngày đi làm thì chẳng mấy ai biết bước chân lên cái tàu điện. Các nhà thợ may trong Noi lũ lượt gánh hàng thầu nhà binh ra Cầu Giấy. Người phu hồ, “bắt tê”, kéo xe, cả đời đi đất, cuốc bộ. Đi về đường trên hay đường dưới, người ta rảo cẳng một lúc, chẳng thua cái tàu điện keng keng mấy bước. Hàng ngày tôi ra học trường Yên Phụ cũng đi đất.
Bến đã vắng tanh. Các cô thợ seo bên bờ sông đã vào tàu. Tiếng nước rỉ róc rách. Cái liềm cất lên, mấy tờ lót uốn thoáng như nước sóng sánh. Hai cườm tay tỳ vào thành tàu gỗ ván thôi. Chưa ngâm nước mấy, mới sáng ra mà chai tay các cô đã xám như miếng thịt trâu ôi. Các cô gái Bưởi áo hồ lơ xanh nõn, nhưng nhìn hai cườm tay thì phải ngoảnh mặt đi thôi.
Những làng tơ cửi dưới Nghĩa Đô, buổi sáng lặng lẽ hơn các làng trên làm giấy, mặc dầu trong các nhà đều biết ngày phiên, thợ vào khung cửi từ lúc sao mai còn lóng lánh. Sớm hơn cả chú Sồi xóm Ao Đình dậy mổ lợn. Tiếng khổ giựt thoi đều đều. Làm rốn cuốn cửi nữa rồi mới đổ hàng. Cho đi chợ thêm được thước lụa. Ông hương Cam bố thằng Bách đeo đãy hàng đứng ngõ. Đường xóm lạnh ngắt. Chỉ có mấy con chó chạy rông.
Ông hương Cam bước ra. Nhưng lại thụt ngay vào cổng. Thoáng thấy gánh trầu chị hai Bủng lên chợ. Ngày phiên, ra ngõ gặp gái, không xong. Ông hương lại đứng đợi. Nhưng sốt ruột. Đằng nào cũng áy náy. Bởi nhỡ chuyến tàu điện, chậm mất buổi chợ cũng chẳng nên, mà vẫn không dám bước ra.
Đường xóm lại vắng. Ông hương đeo đãy hàng, liều bước. Đến ngã ba xóm Trẽ, gặp lão năm Nhân lảo đảo tới giang hai tay, quay quay. Sáng sớm mà đã bí tỉ rồi. Làng này còn nhiều người say. Cụ xã Kín, rượu vào, đầu trọc đỏ hắt, nói như hét. Ông trưởng Bưởi bệnh sa đì, cái bị dái trễ xuống tận bẹn, ông kéo vó được đồng nào, vào cái cút cả. Mấy ông mãn lính về, ai cũng rượu. Hôm vừa rồi, trong phủ gọi lính bị ban, nhiều người nghiện rượu đã đi bớt rồi đấy. Không có thì cứ buổi chiều, một lũ người say múa tay múa chân ngoài đường. Bây giờ chỉ còn có lão năm Nhân. Lão buồn. Lão có mỗi người con. Anh Tặng đã bỏ nhà đi tha phương cầu thực rồi. Lão chỉ còn biết có chén rượu làm khuây. Cái lão phải gió này say sớm thế. Hôm nào cũng thế, đến chạng vạng tối, ông năm Nhân còn bè nhè làm trò vui cho trẻ con trong xóm. Lại giang tay quay quay, mặt đỏ phừng phừng.
Ông hương Cam chậc lưỡi: Lão say, nhưng lão là đàn ông, không phải là gặp gái. Khỏi phải đốt vía. Ông hương Cam đeo đãy hàng, rảo bước lên bến vừa kịp chuyến tàu sớm.