← Quay lại trang sách

29 - Con nhà người

Khoảng mấy chục năm nay, những tiếng gọi bố mẹ thay đổi rất nhanh. Riêng một vùng Hà Nội đã thấy khác xưa

Ngày trước, ở phường phố, con cái gọi bố mẹ là thầy đẻ, thầy me (me chứ không phải mẹ). Nhà có đi đó đi đây, bắt chước các nơi đôi chút, gọi là ba má (hoặc ba mẹ). Vợ chồng còn trẻ cho con gọi là cậu mợ. Khi có tuổi mới đổi là thầy mẹ. Hoặc đã quen thuộc, cứ gọi “cậu mợ” đến già. Chưa kể, còn gọi là “ông bà” thay con.

Các làng ngoại ô, gọi bố mẹ là thầy u, thầy mẹ, thầy bu.

Vài ba nhà giàu kệch cỡm, “giẫm phải cứt Tây”, bắt con cái gọi bố mẹ là pa-pa, ma-măng.

Những nhà hiếm thường dạy con trai gọi bố mẹ là chú thím hay anh chị (theo hèm, gọi tránh để ma không biết là con cái nhà mình). Thuở bé, tôi cũng gọi bố mẹ tôi là anh, chị. Ở các vùng quê xa, trẻ con mới gọi bố mẹ là bố mẹ. Nơi phố phường, cho hai chữ “bố mẹ” là quê kệch. Hoặc có nghĩa thấp hèn: bố cu, mẹ đĩ. Trong kháng chiến 1945-1954, hầu hết người thành phố đi tản cư về các vùng nông thôn. Không biết từ lúc nào hai chữ “bố mẹ” trong cửa miệng con cái đã trở nên gần gũi, thân thương và bình thường rồi lan đi tất cả mọi nhà. Hai chữ bố mẹ được dùng rộng rãi như ngày nay, đã trải và in dấu lịch sử phát triển tiếng nói đất Hà Nội như thế.

Nhân nghĩ về những từ bố mẹ, tôi chợt nhớ một chuyện cũ.

Hồi ấy, thời kỳ Mặt trận Bình dân, các hoạt động ái hữu, nghiệp đoàn phát triển, bên trong đã bắt đầu bí mật nhen nhóm phong trào phản đế. Có lần tôi theo anh em về một nhà cơ sở liên lạc ở Trạm Trôi. Trên đường Hà Nội - Sơn Tây, phố có nhiều nhà ở Nhổn, Lai Xá, ở Phùng. Chỗ Trạm Trôi chỉ lèo tèo đôi ba quán nước. Người đi nhỡ độ đường bần cùng mới vào nghỉ nhờ nơi vắng vẻ.

Nhà anh ấy mở hàng chữa xe đạp ở Trạm Trôi, cũng là nơi liên lạc ra vào Hà Nội. Thực oái oăm, không biết đoàn thể có đỡ anh đồng nào, chứ nhiều hôm chẳng có việc. Hồi ấy không như bây giờ, cả ngày chưa chắc đã có một cái xe đạp đi qua. Trước cửa nhà, trên cành rong bờ rào, to tướng ba chữ viết bằng vôi vào cái cọc tre: Chua xe đap (không có dấu). Trên bậc cửa, đặt chiếc hộp bích quy đỏ, trong đựng mấy cái đinh ốc gỉ.

Chẳng thấy ai tạt vào chữa xe. Nhưng anh vui tính và nhà lại thường có người lui tới vì những việc khác. Nơi liên lạc, có người công khai, có khi bí mật, cơ sở các nơi mạn Sơn Tây về. Không mấy khi chị ấy ra gian ngoài cửa. Chị được hai thằng con trai trạc lên ba, bốn, thau tháu như nhau. Có lẽ đẻ sinh đôi. Nhà nghèo, kiếm từng bữa mà hai con đỏ thế này, khướt lắm.

Để ý kỹ, tôi thấy có những cái lạ mắt, khó hiểu. Hai đứa con xống áo khác hẳn nhau. Một thằng thì áo chồi vàng chóe, cái dấu bán khoán của nhà chùa đỏ sẫm to bằng bàn tay đóng giữa lưng. Cổ đeo vòng bạc đính chiếc vuốt hổ, cách thức của con nhà hiếm. Một thằng thì trần truồng nồng nỗng, mũi thò lò xanh xuống đến tận bụng, cái rốn lồi dài như thằng bé có hai dái. Thằng bé cởi truồng lúc nào cũng nắm váy mẹ, khóc ê ê. Cái thằng đeo vòng bạc áo quần tử tế kia được ẵm, hai gót chân trắng hồng. Bé mặc áo chồi có miếng giò lụa trong bát cơm. Thằng kia đòi, giãy đành đạch cả hai chân hai tay. Mẹ nó dường cũng không để ý. Cứ nhẩn nha cầm cùi dìa xúc từng thìa cơm với giò bón cho thằng bé ngồi trên lòng. Mặc kệ, thằng kia đập bĩnh mà cũng chẳng được, lại tru lên.

Anh ấy vào dắt thằng bé đương khóc ra ngoài cửa. Anh dỗ ngọt:

- Ra đây bố cho cái này. Ăn giò làm khỉ gì. Ăn cái này thích hơn giò cơ.

Anh nói thế, nhưng rồi cũng chẳng có “cái này thích hơn giò cơ”. Thằng bé lại rống to. Anh chỉ cười, không dỗ nữa, và nói:

- Mày cứ tập khóc, khóc khỏe vào cho giãn họng ra, ngày sau nhớn bố cho đi học hát tuồng.

Nghe con gào một lúc, anh nói như trêu:

- Khóc mãi rồi cũng phải im. Khóc nữa đi.

Thằng bé lại gào.

Có lúc hai thằng bé cùng đùa rúc rích với mẹ. Thằng áo chồi quệt tay lên má mẹ, gọi:

- Chị ơi! Chị ơi!

Thằng kia kéo tụt thằng này xuống, phụng phịu:

- Bu tao! Bu tao!

Rồi nó lại nổi cơn hờn. Lúc lúc gặp việc uất ức, thằng bé chốc lại mếu, lại lên bài kèn khóc òa. Như mưa bóng mây, khóc rồi nín tự nhiên, chẳng ai buồn dỗ.

Tôi thấy tội tội và nghịch mắt, khó hiểu thế nào.

Tôi hỏi:

- Sao lại thằng gọi mẹ là chị, thằng gọi là bu?

Chị ấy lặng im. Anh nói:

- Để cho con ma Phạm Nhan có vào nhà bắt trẻ con thì nó nhầm, cứ cái thằng gọi bu mà bắt, không bắt thằng gọi chị.

- Vợ chồng cậu dạy con cũng tài, bé thế mà đã bảo được mỗi đứa một cách.

Anh ấy lại nói:

- Cứ cái roi là xong tất. Thằng kia độ trước cũng gọi “chị, chị”. Cho mấy trận quắn đít là kệch. Trẻ con cũng tinh gớm. Không nghe lại phết nữa, kỳ phải gọi bu mới thôi. Cháu nghe ra rồi.

Tôi lại càng không hiểu.

Thấy tôi ớ ra, anh ấy tủm tỉm cắt nghĩa:

- Chả là cái thằng gọi “chị” là con người ta ở ngoài phố đem về gửi thôi. Ấy nhà hiếm, nên lo xa đến thế, đã gửi nuôi mà vẫn sợ ma bắt, chúng tôi phải tập cho nó gọi là chị. Nuôi từ lúc mới ngoặp vú bú đấy.

Có lúc chị ấy kể, dân dấn nước mắt:

- Khổ lắm, anh ạ. Mỗi lần cậu mợ ấy về chơi với con, thấy cái áo dây mũi cũng không bằng lòng, thấy thằng bé nhà tôi chạy lon ton, cứ hỏi sao nó cứng cáp hơn con nhà cậu mợ ấy, rồi đòi trừ tiền. Lần nào cũng diếc móc đay đi đay lại chị phải nhớ chị ở vú nuôi con tôi. Đi ở vú mà được ở nhà lại còn không biết sướng! Tiền công, tiền lương của người ta chị ăn không à? Nghĩ tủi thân quá.

Anh ấy cười hì hì chêm câu nói đùa:

- Mà nói trộm vía cái thằng cu nhà tôi, có chó gì ăn đâu, vẫn phổng pháp tròn như con quay.

Bây giờ, mỗi khi đi qua Trạm Trôi, tôi vẫn nghĩ và nhớ chuyện ấy.