39 - Đường về quê
Những con đường hằn vết chân trong đời người. Ấy là đường về quê nội không xa mấy, chỉ hai mươi cây số con đường cái đá từ huyện Từ Liêm về huyện Thanh Oai, thế mà mỗi khi trở lại, dù đã luống tuổi rồi, vẫn cứ thấy mình nho nhỏ đôi mắt trẻ thơ. Lúc nào cũng vẫn là con đường của tuổi lên mười, tuổi mười lăm. Bao giờ thấy con đường về quê mình nghĩ cũng xa hơn, dài hơn con đường thật đương đi.
Nhớ lại quang cảnh phía nam thị xã Hà Đông, một khoảng trời xanh xám úp chụp xuống đồng ruộng ngay sau vách ngôi nhà rách rưới, ở cuối cái tỉnh lẻ im lìm mờ mịt hoàng hôn. Cánh đồng liền với chân tường, khi những cơn gió bấc hun hút đưa mùa đông đến suốt chân trời, đôi chỗ đùn lên một đám khói của bọn trẻ trâu ngồi run rẩy sưởi quanh đống gốc rạ vừa được nhen lửa lên. Khi mùa mưa tới, màu xám cánh đồng lại tan thành một vùng nước trắng bệch. Trên mặt nước, lội bì bõm những người lót chiếc thừng quấn lá chuối khô cho đỡ giát cái vai lệch một bên, người làm trâu kéo cày và người đẩy cày. Ruộng đồng lầy lội triền miên tưởng không bao giờ khác như thế.
Ba La Bông Đỏ man mát bóng nước ruộng và tiếng ríu rít những đàn chim sáo đá bay qua.
Trên đường phố xép lơ thơ mấy nóc nhà bên cánh đồng trũng. Nhà hát cô đầu lẫn lộn với những nhà buôn thúng bán mẹt, hàng xay hàng sáo ở bám ngoài đầu ô. Những nhà cô đầu cổng tỉnh, cô đầu phố huyện cũng là cảnh vui buồn đêm hôm Ba La Bông Đỏ. Cô đầu nhà quê - người ta gọi thế. Các cô đầu rượu, đêm tiếp khách khứa, ban ngày lại ra đồng cấy gặt. Những con người khốn khổ ấy cũng thường bỏ hầu hạ ở nhà hát, trở về làng, đi phu cao su Nam Kỳ, đi Tân Thế Giới. Người nào được khách chơi cho tiền chuộc ra, theo về làm người ở con hầu trong nhà, ngỡ như thoát chết đuối.
Cái tưởng không bao giờ có, tôi đã thấy, ấy là những ngày cuối năm 1946, mặt trận Hà Nội đã lan ra đến Thanh Xuân. Ba La Bông Đỏ ngày đêm trực chiến. Tự vệ ra thị xã gác tận ngoài bến tàu điện bên kia cầu, nấp vào lưng cái toa tàu lật chắn ngang đường. Trông thấy Tây quần áo vàng lố nhố đằng Phùng Khoang, quán Bún. Trong đội tự vệ ấy có những chị em cô đầu rượu hôm qua. Các cô gánh cơm tiếp tế, cứu thương tải thương, đi liên lạc...
Người cô đầu ra làm tự vệ ấy cũng dị dạng - cô khoác áo tơi lá, trong mặc áo lụa dài màu hoa cau mỏng mảnh, tấm áo mồi mọi đêm. Nhưng chân đi đất, đầu tùm hụp khăn vuông. Ngang mình quấn chiếc thắt lưng da to tướng. Thắt lưng da của tự vệ các làng đã vào tịch thu cái hôm khởi nghĩa hạ được trại khố xanh quản Dưỡng.
Kìa kìa, đã về đến cầu Khâu. Đường đá lổn nhổn, khấp khểnh, trơ trọi hai bên đồng cạn không một bóng cây. Trong lặng lẽ, chốc chốc lại nghe lắc rắc, lạo xạo tiếng cái bánh xe sắt. Trên xe, ngồi chồng chất hai ba người. Trong tay xe, người kéo xe ngửa ngực chạy, mồ hôi ướt sũng xuống đến hai bàn chân bụi đường sạm đen, như lội bùn.
Cầu Khâu! Cầu Khâu! Nhớ những đêm lặng lẽ, cái xe bò người kéo người đẩy nặng nề đi qua. Trời rét buốt tưởng như những mảnh sao sắc rơi xuống cứa cả vào mặt mũi. Người kéo xe, đẩy xe cứ đổi thay nhau chạy quanh các xe nồi, xe nón, xe thúng mủng mang từ các làng chuyên đan lát, bốc nặn ở Canh Hoạch, ở Quảng Bị, ở Quán Tròn, ở Chuông. Vất vả, khó nhọc và cũng thật ly kì, những đêm thời loạn Pháp Nhật ấy. Trong cái xe bò ngất ngưởng kia có bó truyền đơn và báo bí mật của Việt Minh. Cứu Quốc, Cờ Giải Phóng, Kèn Gọi Lính nhét khe những nồi, nón, thúng mủng. Xe lắc lư đến một quãng, vừa lúc gà gáy dồn. Chúng tôi đã có hẹn, người các cơ sở đầu làng ra đợi lấy tài liệu xuống. Những cái xe bò lại lững thững vào bóng tối về qua cầu Am làng Vạn Phúc.
Ở Cầu Khâu, dù khuya canh ba canh tư vẫn có hàng cơm thịt chó đến suốt sáng. Ai quen qua lại đường này mà chẳng biết tiếng thịt chó Cầu Khâu. Cửa hàng mùa đông là những cây rơm rỗng ruột, khách ăn chui vào bụng cây rơm, gió hú bốn phía. Trong cây rơm, thôi thì thịt luộc, sáo chó, rượu ty, rượu ngang. No say rồi nằm lăn ngủ cho đến sáng bạch mới thò cổ trông ra. Con người lại bị đẩy ra giữa ban ngày run rẩy gió những nhạt nhẽo, lo âu.
Ngày nay, qua Cầu Khâu - không biết cái cầu bắc qua lạch nước hay cái quán có mái, (vùng Hà Đông, những cái quán cũng gọi là cầu), cứ đi qua rồi mới biết đã qua. Ở Cầu Khâu còn quán thịt chó không, có còn cũng chẳng còn những cây rơm thú vị, và chắc chẳng khác thịt chó Kim Bài, Ngã Tư Vác không phân biệt rõ ràng được. Cầu Khâu hay Ba La, hay Thạch Bích, những hàng quán, những kho tàng xưởng máy, trạm bảo dưỡng đường xá, lò gạch, nhà cửa chen chúc, nườm nượp các thứ xe với người đi bộ. Không thể đâu còn những cây rơm rỗng lòng chồm hỗm bên mép cánh đồng nước, người trốn rét chui vào tận âm ti địa ngục ấy ăn uống rồi đánh giấc luôn trong ruột rơm.
Quãng đường dằng dặc vắng hẳn làng xóm dài nhất từ Thạch Bích về Bình Đà - ngày trước, phố huyện lỵ huyện Thanh Oai, bây giờ cũng lổm ngổm những nhà là nhà. Bình Đà vẫn ở thế trung tâm huyện, nhưng huyện lỵ đã xuống Kim Bài. Phiên chợ Tư chợ huyện đông nghịt quanh những gốc muỗm cổ thụ. Khách tíu tít xuống chuyến xe hàng Hà Đông vào. Hiệu bách hóa, hàng thuốc, kho gạo, cửa hàng ăn và giải khát. Mỗi ngôi nhà phố huyện cũ đã vào nền nếp, phong tục và sinh hoạt mới. Tôi ghé lại đầu phố Bình Đà cũ uống cốc bia. Xưa kia, khi chiều tối, chuyến ôtô hàng sơn vàng của nhà Mỹ Lâm chạy đường lẻ ỳ ạch về dưới bờ tre, bụi đường và ánh nắng bốc lên đỏ xuộm. Trong làn bụi, mờ mờ thấy hàng cơm, quán nước, ty rượu, hiệu tạp hóa và thuốc bắc của chú khách, rồi lại mấy nhà hát cô đầu - tiêu điều cô đầu phố phủ, như ngoài Ba La Bông Đỏ.
Không biết đã đến Nga Mi hay cầu Nảy. Tiếng khóc. Tiếng rú. Một đám cướp, một vụ giết người. Bình Đà về Kim Bài, quãng ấy cũng chỉ trống không. Hai bên đường giữa đồng chiêm trũng, làng xóm xa trong chân tre. Nỗi lo rợn gáy vì đường vắng càng khó hiểu đối với một người bây giờ thảnh thơi ngày đêm như nhau cũng đi trên quãng ấy.
Rồi cầu Nảy. Cái tên cầu Nảy càng gợi ghê rợn hơn. Xung quanh cầu Nảy đồng nước phơ phất một cái lều chăn vịt. Những người chăn vịt cũng chỉ dám trú chân ban ngày ở đây.
Chiều đến, bọn cướp giật, cướp đói ở đâu đã ra ngồi rình như cái gò ông Đống cạnh đường. Những quán ông Bảo, miếu Giời ơi là chỗ này đây.
Tôi đang đi trong chạng vạng chiều cầu Nảy. Lò gạch và cánh đồng khoai tây san sát bên này đồng cao Nga Mi, Cát Động bây giờ ruộng màu lan cả sang bên kia đường mà ngày trước chỉ là đồng sâu bỏ trắng vụ tháng mười.
Chỗ Cây Sữa ấy rẽ vào Cát Động, làng nội tôi. Con nông giang lững lờ dưới nhịp cầu bắc qua. Khu đồng màu đã xanh xẫm những khoảng ruộng khoai tây. Xưa kia chỉ trồng được khoai tây ở ruộng trên Thanh Thần.