56 - Sự tích làng
Mới đây, tôi có tham gia bước đầu sơ thảo “Lịch sử xã Nghĩa Đô”. Cho thật đúng, đấy là tự thuật đời sống tinh thần, vật chất và hoạt động của một địa phương ngoại thành đương dần dần đô thị hóa - người ngoại ô thành người Kẻ Chợ. Một làng xã bình thường nhưng khơi gợi và xem xét thấy được lịch sử mỗi vùng làm nên hình ảnh cả nước, cả dân tộc, có nối tiếp và lâu dài. Nó cũng là kỷ yếu đời người, bài học hôm nay và mai sau.
Tôi là một người sinh trưởng ở giữa đời sống làng quê - một nơi thuần phác lâu đời ở ven sông Tô Lịch phía tây kinh thành. Chắc là tổ tiên xa xưa ở ngoài thiên hạ đã đến nơi đất lành chim đậu này làm ăn phục dịch cho Kẻ Chợ đô hội ba mươi sáu phố phường. Những dòng họ và tiếng nói, giọng nói trong một xã mà mỗi làng nghe đã lạ tai, chứng tỏ nhiều về đặc điểm các làng ven nội. Làng nghề lĩnh Bưởi, giấy Bưởi, kẹo mạch nha An Phú đã vào tục ngữ, ca dao. Cam Canh, lĩnh Bưởi... An Phú nấu kẹo mạch nha ngọt lừ... Tương truyền danh tướng Lý Thường Kiệt đã từng ngồi học khai tâm ở Bái Ân.
Pháp chiếm Hà Nội, các làng tây bắc thành đã đánh nhiều trận từ Trường Thi đến Cầu Giấy. Trước 1930, các phong trào yêu nước và khi đảng cộng sản ra đời, trong vùng có nhiều người hoạt động, tuy chưa thành phong trào. Điều này rất điển hình về sự trái ngược ở hoàn cảnh những thành phố lớn. Nhà cách mạng Nguyễn Phong Sắc người làng Bạch Mai ở Hà Nội lại là một trong những người lãnh đạo Xô Viết Nghệ Tĩnh.
Đến thời kỳ Mặt trận Bình dân, xã Nghĩa Đô và cả vùng Bưởi đã cuốn vào cơn lốc lịch sử. Mặt trận Dân chủ Đông Dương đấu tranh cải thiện dân sinh, Mặt trận Dân tộc phản đế rồi Mặt trận Việt Minh với Cách mạng tháng Tám, các ngành, các giới cứu quốc tỏa khắp, Nghĩa Đô trở thành một cơ sở chuẩn bị Tổng khởi nghĩa của căn cứ địa, của an toàn khu các cơ quan trung ương và thành phố.
Hai cuộc kháng chiến khốc liệt. Nghĩa Đô - làng trắng ven thành phố bị chiếm, không lúc nào mất liên lạc, có thời kỳ đen tối, hầm bí mật của du kích bị phá, người bị hy sinh, trong vô cùng hiểm nghèo. Hòa bình lập lại trên miền Bắc rồi kháng chiến chống Mỹ, con em trong làng đã vào chiến trường miền nam, đi chiến trường biên giới. Toàn xã có 125 liệt sĩ các thời kỳ, được khắc bia lưu niệm. Có lần viếng nghĩa trang Trường Sơn, tôi đã thắp hương mộ hai liệt sĩ quê Nghĩa Đô: Nguyễn Văn Chứ và Đoàn Văn Tiến.
Kinh tế và văn hóa phơi bày thực tế mỗi giai đoạn khác nhau. Ở Nghĩa Đô, các triều đại xưa, có người đỗ đạt cao. Theo sử sách thống kê: Hà Nội có 525 tiến sĩ, huyện Từ Liêm 113 vị, thì Nghĩa Đô 18 người đỗ tiến sĩ và hoàng giáp. Truyền thống hiếu học ấy qua ngót trăm năm Pháp đô hộ thì không còn gì. Hàng xã không mấy người biết chữ, không ai có bằng cấp đáng kể. Người ta đổ cho vì làng nghề thủ công, trẻ em từ tấm bé đã giúp được việc nhà nên sao nhãng sách vở. Không phải. Người Pháp chẳng cần một người An Nam đi học. Và tiền đâu mà đi học. Ngày nay, người thoát nạn mù chữ và người có học cao đang vươn tới đức tính ham học, mới cắt nghĩa được cái khoảng cách không chữ nghĩa của làng xưa. (Đến tháng 9.1995, người đỗ đại học trở lên có 195, bằng 15% số dân, nhưng người mù chữ, tái mù vẫn còn 120).
Phường Nghĩa Đô thuộc nội thành nay gồm sáu làng cũ. Hai thôn làm ruộng và rau màu (Đoài Môn, An Phú), bốn thôn gốc nghề dệt, nghề giấy (Vạn Long, Trung Nha, Tiên Thượng, Bái Ân). Tất cả cánh đồng các làng đều thành phố xá nhà cao tầng thành phố cho thuê, người các nơi đến ở, coi như người làng. Hiện nay số dân toàn xã: 12.994. Đông quá, làng nào cũng ở lấn ra đồng, từ nhiều năm nay. Tôi trở về làng, tôi ở trong dãy nhà năm tầng thuê của nhà nước - chỗ ngày trước, cánh đồng cầu Điều.
Thành phố đã đô thị hóa ngoại thành, đồng bãi đất cày cấy, trồng trọt ở Nghĩa Đô chẳng còn. Nghề dệt, nghề giấy, đặc sản kẹo mạch nha đã mai một. Những năm trước cũng có hợp tác xã dệt, nhưng dệt khăn tắm xuất khẩu. Không ai còn làm lĩnh, lụa như xưa.
Các hợp tác xã nghề giấy cũng đã tàn lụi. Năm trước, hợp tác xã làng Hồ Khẩu sản xuất giấy dó in di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhưng giấy dó chính là nghề gia truyền của họ Lại ở Nghĩa Đô. Tuy nhiên, họ Lại không còn người biết làm giấy dó.
Hiện giờ, nghề dệt hàng thủ công nhiều nơi đương phát triển ở Thái Bình, Hà Tây. Làng Vạn Phúc thị xã Hà Đông, vùng La, Mỗ huyện Hoài Đức, mặt hàng the lụa Hà Đông phát đạt có bán ở thị trường trong nước và ở Pháp, ở Mỹ. Các làng làm giấy trên tỉnh Bắc Giang được giúp đỡ vẫn tồn tại. Riêng vùng Nghĩa Đô thì các nghề dệt, nghề giấy đã hết thời.
Mọi sự việc trong xã được thống kê thành con số của tình hình. Nguyên nhân nghề nghiệp tàn lụi là trách nhiệm thành phố, ngoài phạm vi và quyền hạn địa phương. Đô thị hóa không phải vô tình làm tan rã những làng nghề lâu đời mà phải tính đến công cuộc giữ gìn nghề cổ truyền chân chính. Những người già làm nghề lụa, nghề giấy đôi khi than thở: “Nếu làng ta vẫn thuộc tỉnh Hà Đông chắc vẫn còn nghề”. Thực sự, thủ công nghiệp chưa khi nào được coi trọng đúng mức ở Hà Nội. Một thời gian thật dài, phụ trách thủ công nghiệp thành phố là một cán bộ rất vui, chỉ mê mải viết vở cải lương và chèo và anh ấy là hội viên Hội sân khấu thành phố của chúng tôi.
Người dân vùng này hiện tình làm gì? Làm công sở, xưởng máy trong phố, ở nhà thì làm mũ cối, làm vàng mã, thợ mộc, cắt tóc, mổ lợn, bán tào phở và buôn thúng bán mẹt chạy chợ. Đất ở đây đang đắt như vàng, người ta bán một nửa chỗ đang ở cho người nơi khác đến, lấy tiền sinh sống trợ thời. Những nghề cổ đã thất truyền, tiếc thay vùng nghề trù phú lâu đời chỉ còn trong tục ngữ, ca dao.