← Quay lại trang sách

69 - Nhận thư gửi thư -

Đầu thế kỷ, quan cai trị Hà Nội là quan đốc lý, các tỉnh có quan công sứ Pháp đứng đầu. Người Pháp đến làm chúa chùm nước ta, cái gì, cái gì cũng thay theo ý họ, kể cả phạm vi nhỏ hẹp, riêng biệt trong xã hội và ở từng người. Đối lại, ta cũng bịa tạc bạt thế. Như trong ứng xử ra đời những tên mới, từ sinh hoạt đến công việc. Vì quen mắt và tiện việc, cả đến các loài hoa nhập nội, chẳng biết tên gốc là gì, nhưng đã được người bán hoa chơi hoa gọi theo hình dáng: hoa loa kèn, hoa đồng tiền, hoa giấy, hoa mõm chó hoặc tên tây gọi chệch: hoa lay ơn (glaieul), hoa lép dê... nhiều tên quen thuộc đến bây giờ.

Lại như về thư tín. Thời trước, chỉ có đường công văn chạy bộ chạy ngựa của vua quan. Trạm Hà Mai, trạm Hà Trung ở Hà Nội trên đường cái quan từ kinh đô Huế ra. Khi vua quan đã bán Hà Nội cho Tây thì Tây mở bưu điện để mọi người thư từ. Sở Bưu điện Bờ Hồ ngày trước gọi theo hình thù là nhà Dây thép. Có lẽ vì quanh nhà chăng dây thép điện thoại mà thành tên. Cũng như máy nói, dây nói và tem dán thư (timbre, chữ Pháp). Máy nói, dây nói, cái tem, bàn giấy, tòa soạn nghe lâu quen tai cả những chữ thật thô sơ.

Hàng ngày, có chuyến đưa thư đi các phố. Ông đưa thư ngồi ngay ngắn trên cái xe bánh cao su có cu li kéo. Xe lênh khênh, càng xe, khung xe sơn màu đen, ông đưa thư đeo cái tráp đen trước ngực, tráp gỗ bọc da, như cái trống cà rùng. Chiếc dây da quàng cổ, ông đội cái mũ xám đít vịt bè bè. Mùa hè mặc áo cổ cồn trắng, mùa rét cái áo thâm cũng đen sạm như cái tráp, như cái xe. Trông ông đưa thư vừa nghiêm nghị, vừa ảm đạm.

Đến trước nhà có thư, ông dậm chân một cái, chiếc chuông dưới sàn xe kêu reng một phát. Người cu li biết hiệu, hạ càng đỗ xe. Ông lom khom hai tay đỡ cái tráp đựng thư bước xuống, đến bên cửa. Người đi vắng hay có nhà, cửa đóng hay cửa mở, ông cũng thản nhiên đứng lắc cái chuông đồng nho nhỏ loong coong... loong coong rồi cúi xuống mở tráp.

Nếu cửa khóa, mai lại đến chứ không ném thư giắt thư vào khe cửa. Bởi vì đưa thư tận tay ông còn nhận bổng. Lần sau, chủ thư ở nhà biếu ông đồng “săng căng” (cinq cents, năm xu) tiền “thuốc, nước”. Có hôm vừa mới đến, nhưng ông bảo đến lần thứ hai, lần thứ ba, ai cãi được và cũng tùy tâm lại gợi ý người ta cho sởi lởi hay keo kiệt thế nào. Cái thư thường thì vậy, nếu giấy báo “rơ-còm-măng-đê” (recommandé, thư bảo đảm) hay báo “măng đa” (mandat, giấy lĩnh tiền) thì dẫu mới đưa cũng phải biện cho ông tiền “nước, thuốc” gấp đôi, gấp ba khi có thư thường.

Giấy báo “thư bảo đảm” hay “măng đa”, chủ nhà đem đến hộ phố. Ông hộ phố cùng người có thư lên nhà Dây thép Bờ Hồ, cả thành phố chỉ có nơi ấy cho lĩnh loại giấy tờ quan trọng này và phải có ông hộ phố ký làm chứng.

Tất nhiên, thế thì tiền bổng lại chi ra nhiều hơn, tùy bọc thư bảo đảm hay số tiền to nhỏ ghi trong “măng đa”. Ở các trạm ngoại ô trên chợ Bưởi, dưới chợ Mơ, ông cai trạm đưa người có thư lên nhà Dây thép ở tòa đại lý (huyện) Hoàn Long lấy dấu rồi ra nhà Dây thép Bờ Hồ thì mới xong việc. Đâu vào đấy rồi mới đền công khó nhọc ông cai trạm. Ông cai trạm, nhưng không phải ông đi lính đóng cai, đóng quản, đóng đội gì đâu. Bộ quần áo nhà trạm ka ki vàng như áo lính thì người ta gọi là ông cai và gọi là cai trạm thì cái tên mới khác người trạm tráng. Ông cai trạm không được ăn lương tháng vì cả nhà ông đã được ở cái nhà trạm của nhà nước, hai gian, một nửa để ở và bếp núc nửa bên kia là phòng làm việc. Nhà trạm quét vôi vàng, cái buồng làm việc con con, có lỗ cửa mắt bò, người có việc đến đứng ngoài.

Mỗi năm có vài dịp ông cai trạm được bổng vào cái “măng đa”. Người hàng huyện đi làm xa, sở công, sở tư các tỉnh, có khi bên Lào, bên Miên, người đi phu đồn điền cao su Đất đỏ ở Nam Kỳ, có người làm cu li sang Tân Thế Giới đâu đâu ngoài châu Đại dương. Kẻ xa xứ, mỗi người mỗi hoàn cảnh, nhưng thông thường tương tự, người ta hay gửi tiền về cho bố mẹ, cho vợ con, cho anh em - tùy người, tùy việc, vào khi có giỗ chạp, cho khỏi mang tiếng ra đi biệt tăm bỏ làng nước và ông bà, ông vải; vào dạo sưu thuế, cũng vẫn gánh vác thuế má đầy đủ hòng sau này còn có khi trở về được ông chánh, ông lý để ở làng, được về làng về nước; lại thư thăm hỏi và mừng tuổi vào dịp tết nhất, xóm giềng ác khẩu khỏi diếc móc là quân bỏ làng.

Các nhà cai trạm ở chợ Bưởi, chợ Mơ được ăn ghẹ những “măng đa” của người trong vùng. Vào cuối năm, bà cai trạm chạy chợ chẳng ăn thua. Mớ ốc hồ Tây hay mẻ lươn chạch đầm Sét ngày thường còn có người mua, bị ê hề vào áp Tết, chẳng ma nào ngó ngàng. Ông bà cai trạm ngày ngày đành hấp háy mắt trông những cái “măng đa” tiền bạc của người ta vu vơ ở đâu về.

Chuyện đưa thư, lĩnh thư trong thành phố thì vậy vậy như thế, nếu như ở phủ Hoài Đức còn nhiêu khê, tần phiền hơn, vì Hoài Đức phải vào lĩnh trong Đơ tỉnh lỵ Hà Đông. Và thêm bác trạm tráng được bổng trước ông cai trạm trong phủ. Bác trạm tráng cũng chỉ là phu trạm, nhưng không ai gọi trước mặt bác là phu, là cu li. Bác trạm tráng cũng làm ruộng trong làng ở Canh, mỗi phiên chợ mới đi thư một chuyến. Từ phủ Hoài về làng qua mấy xóm, tắt mấy cánh đồng. Nhà hay có thư thì bác đeo túi dết đi vào thẳng, nếu nhà lạ thì đến ông lý trưởng trước.

Mừng quá, tết nhất đến nơi, nhận được cái “măng đa” mười đồng bạc của chú ấy. Bác trạm tráng được thưởng một hào, trước khi ra về lại cầm đồng ván (hai hào) của gia chủ biếu ông cai trạm trong phủ. Hôm sau, nhà có “măng đa” lên tỉnh với ông lý, hai người tắt đồng Mọc cuốc bộ vào tỉnh.

Theo lệ, người “măng đa” mà có thẻ căn cước thì đi lĩnh một mình được. Vì căn cước có ảnh, có chữ ký quan công sứ, người có căn cước còn đi được các xứ Trung kỳ, Nam kỳ, Cao Miên. Hiếm không mấy người xin được căn cước, cả làng chẳng một ai. Mà cũng có đi xa đâu bao giờ để phải cất công vào dinh quan công sứ rước cái thẻ căn cước. Thẻ thuế thân chỉ là thông hành trong tỉnh, trong xứ, cũng không đến được các tỉnh đạo quan binh biên giới ở Móng Cái và Cao Bằng, không bảo đảm được lĩnh “măng đa”. Vì có bổng nên ai đi lĩnh “măng đa” ông lý cũng đi theo, trong khi ông lý áp triện vào tờ giấy lĩnh tiền ở nhà cũng được. Chẳng biết đầu cua tai nheo thế nào, vả chăng đây là cái lộc, chỉ tờ giấy mà ra tiền bạc, đây là việc vui mừng nên cũng đành để ông lý chấm mút lộc chung.

Ông lý đưa người có giấy vào nhà dây thép tỉnh. Ông lý viết hộ tờ khai rồi ông móc thắt lưng lấy cái triện và hộp dấu, ông áp triện đồng rồi ký vào cạnh ngón cái tay phải điểm chỉ của người lĩnh. Một lúc sau, ra chỗ chợ Trâu ngoài cầu Đơ, hai ông con làm mươi cút rượu nhắm miếng chả trâu, cơm bát úp với canh cà chua suông. Bữa chén thanh cảnh, bần bách mà cũng túy lúy, mãi chiều mới dò về đến làng. Ông lý đã giắt hầu bao một đồng bạc của gia chủ. Cũng là cái may năm hết tết đến cho cả hai người.