2- Ngọc Tìm Trong Đá, Vàng Đãi Trong Cát
Trời còn mờ sương chẳng biết mấy giờ, có mỗi cái đồng hồ lại hỏng phải đem đi chữa, người ta hẹn hôm nay mới chữa xong. Tết nhất đến nơi, hôm nay đã là ngày 28 phiên chợ cuối cùng, mua bán gì còn có ngày hôm nay nữa thôi, rồi còn nghỉ ăn Tết. Miệng nói, chân đi, tay làm, mấy phút sau Bà Tràng hối thúc cả nhà mọi người tới ăn cơm. Bữa cơm nhà quê thanh đạm không cầu kỳ, chỉ cần nồi cơm nóng, đĩa tôm hay cá kho mặn làm sẵn từ hôm trước với đĩa rau luộc, chén nước mắm cho bữa ăn buổi sáng.
Nhà ông bà Tràng tọa lạc bên chân đê đường chặn nước mặn từ bể Thái Bình Dương tràn tới. Nơi đây cũng là ngã ba giao thông bằng đường thủy cho ba miền Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa. Chung quanh nhà là ruộng cấy lúa trừ một con đường đất nhỏ chạy thẳng từ nhà tới mặt đường đê ở vào một địa điểm tiện cho nghề chăn nuôi vịt, gà, cấy lúa, trồng rau.
Trước đây Tràng lớn lên trong một gia đình đông con; thôi bú, mẹ đã để ở nhà cho anh hay chị bế ẵm, có khi là ông bà nội, ngoại hay hàng xóm, bất cứ ai có thể gửi được con, để đi làm từ sáng tới chiều mới về. Khi con lớn đến đâu đã có việc với tuổi như sai vặt, biết nấu cơm quét nhà, tưới cây, dần dà cho tới lúc đã đủ sức theo cha mẹ ra đồng cầy cấy làm ruộng.
Tràng đã thay bố đưa trâu ra đồng, thay bố cầy bừa phá rẫy, nhận những công việc nặng. Khi người em kế tiếp đủ sức thay thế cho anh, cũng là lúc bố mẹ bàn tính đến chuyện “cây cả ra hàng”, tìm nơi hỏi vợ cho con. Không cần đi đâu xa, cô thợ cấy Lệ ở xóm trên, mỗi khi ra đồng, buổi trưa nghỉ ăn cơm, mọi người kéo nhau lại dưới bóng cây đã trò truyện hỏi thăm nhau. Từ hôm cha mẹ đôi bên nói cho con biết ý định của cha mẹ, cả hai chỉ liếc mắt nhìn nhau e thẹn quay đi ngay, họ theo ý cha mẹ, không thắc mắc tìm hiểu tính xấu nết tốt của nhau, hay có yêu nhau không, cho đến ngày cưới nên vợ nên chồng.
Ba tháng sau ngày cưới, bố mẹ cho vợ chồng Tràng ra ở riêng, lấy cớ nhà chật còn phải lo cho các em. Vâng lời bố mẹ, Tràng đã tìm được mảnh đất bên chân đê vì là nơi xa xóm làng không ai muốn canh tác, với một cơi trầu chai rượi đến xin với hương chức trong làng, họ cấp giấy cho Tràng được tự do khai khẩn.
Có sức lực sung mãn, với tính cần mẫn, cả hai vợ chồng ban ngày đi làm thuê, tối về, họ cố gắng đào ao lấy đất làm nền, chẳng bao lâu đã có một mái nhà nhỏ, nói cho sang với mọi người, chỉ là túp lều che mưa che nắng, lấy chỗ nghỉ ngơi qua đêm cho một tiểu gia đình chỉ mong muốn được an cư lạc nghiệp.
Ngoài những ngày đi làm thuê cho xóm làng, họ trồng rau nuôi heo, gà, vịt; ở vào địa điểm khoáng đãng, không khí trong lành, súc vật họ nuôi đẻ sinh sôi nẩy nở. Có chút vốn liếng, cả hai vợ chồng ở nhà trông coi những đàn vịt, đàn gà nhiều hàng trăm con.
Khởi nghiệp với hai bàn tay trắng, bây giờ ông bà Tràng đã có nhà cửa khang trang, vườn rau ao cá, ruộng đồng cũng nhiều ngày mùa tấp nập thuyền ra thuyền vào chở lúa đến. Các con đã gửi trọ học gần trường.
Cả hai ông bà Tràng thuở thiếu thời đã không được học hành, chỉ nhờ vào các buổi tối mùa hè hàng năm nhà thờ Công Giáo tổ chức dậy giáo lý cho trẻ con đồng thời cũng dậy vần quốc ngữ cho những người lớn nào muốn học, nên cả hai cũng biết đọc, chữ nào khó quá thì phải đánh vần.
Vì ít học, cả hai ông bà gặp ai nói năng hoạt bát tỏ ra có học đều được ông bà kính trọng quý mến; tính tình dễ dãi, có người quen giới thiệu gửi gấm, những người khách tới nhà, ăn nói lễ phép lịch sự tỏ ra là người có địa vị, học hành nên ông bà vui vẻ kính trọng, rồi hết người này lại giới thiệu người khác, nên trong nhà ông bà Tràng lúc nào cũng có khách, khi ít khi nhiều, có người đến rồi đi ngay, có người ở lại lâu một hai tuần lễ hay hết lộ phí cũng được ông bà cung cấp luôn.
Nhà sẵn gà vịt, thức ăn, ông bà khoản đãi những người lạ mặt càng ngày càng nhiều, người ta đã hứa hẹn khi cách mạng thành công sẽ trả ơn ông bà nào chức quyền lợi lộc. Tọa thực sơn băng, mắc bận vào thù lao tiếp khách, công việc làm ăn bỏ bê, lợi tức ngày một kém, khách khứa cũng tự rút bớt, không còn những bữa ăn nhậu nhẹt đầy nhà như trước.
Vợ chồng người nông dân chất phác tin tưởng vào người học hành giỏi giang, không ngần ngại dốc hết túi tiền để dành từ bao lâu nay đưa ra giúp vào công cuộc cách mạng cứu dân cứu nước chưa có tia hy vọng.
Đã thấy chiến sự lan tràn, trong dân chúng thỉnh thoảng nghe nói người bị bắt cóc, người bị thủ tiêu, hoang mang chán nản, bị đe dọa vì trong nhà thường có người lạ mặt lui tới ở nhà, lại ở vào nơi đồng không mông quạnh, xa xóm làng. Ông bà suy đi tính lại các con còn nhỏ phải kiếm chỗ an toàn cho các con ăn học, nên quyết định thu nhặt những gì có thể mang đi được rồi xuống thuyền tìm vào khu an toàn Phát Diệm có người bà con quen thuê giúp gian nhà làm nơi tá túc lần hồi.
Năm 1954, Hiệp định Genève ra đời chia đôi đất nước. Gia đình ông bà Tràng cũng vội vàng thu xếp đưa con theo làn sóng người đi tị nạn xuống tàu há mồm vô Nam. Lần này được sự trợ cấp của chính phủ đi định cư trên cao nguyên, được bảo vệ an ninh, với hai bàn tay cần cù mẫn cán, đã quen khởi nghiệp bằng nghề canh tác, ngày qua ngày, hai ông bà sung sướng nhìn nương vườn, thửa ruộng xanh mướt thoai thoải dưới chân đồi thay thế cho vườn rau, ao cá, ruộng lúa tốt um do hai bàn tay trắng vợ chồng đã tạo lập nên ở ven đê thuở thiếu thời. Quê hương cũ ngoài Bắc bây giờ chỉ còn những hạng lục lâm thảo khấu, những lũ chó nhảy bàn độc chiếm ngự ăn trên ngồi trốc, bần cùng hóa nhân dân biến dân thành nô lệ cho chúng, ru ngủ dân với mỹ từ tự do, độc lập, hạnh phúc.
Đang yên ổn sống trong vùng tự do, các con nhỏ có chỗ học hành, các con lớn tản mác các quân khu thi hành nghĩa vụ giữ nước thì ngày 30-4-75 ập đến, cơn hồng thủy khắc nghiệt tràn vào bao phủ toàn dân. May mắn thay, qua thời gian lo âu ông bà đã nhận được tin các con từ Mỹ, tứ Úc lần lượt báo tin về. Rồi ông bà Tràng luôn nhận được những thùng quà từ các nước văn minh gửi về kèm với lá thư thương nhớ phát xuất từ tâm hồn hiếu thảo trung trực thừa hưởng di truyền của cha mẹ chúng, lòng chân thành rộng rãi, với dòng chữ dặn cha mẹ giúp đỡ những người thiếu thốn chung quanh.
Không cần những lời con dặn trong thư ông bà Tràng cảm ơn Trời đã cho mình gặp may mắn, chỉ để đủ dùng cho hai vợ chồng còn bao nhiêu phân chia cho bà con lối xóm không phân biệt thân sơ. Muốn sự giúp đỡ hiệu nghiệm và lâu dài hơn, ông chia tùy từng người có nghề gì như thợ mộc, thợ nề, thợ cưa, sửa xe v.v… giúp mua cho dụng cụ theo nghề. Hay không có nghề thì cho thuê xích lô với giá tượng trưng, ít lâu sau có tiền muốn làm chủ sẽ bán lại với giá rẻ.
Tại nhà, ông bà mướn người mở dậy may miễn phí cho các bà các cô, tập may bằng thứ vải xấu rẻ tiền. Rồi đem mớ quần áo này vào các thôn xóm xa thành phố phát quần áo này cho những nhà quá nghèo, có người ốm đau thì giúp đỡ gạo, thuốc men. Ông bà cứ âm thầm giúp đỡ tha nhân.
Những hành động từ bi bác ái đã làm gương khích động được mấy ông bà khác họ tới hợp tác, tiến lên giúp đỡ đồng bào một cách hữu hiệu và sâu rộng hơn như đã kiếm được một căn nhà bỏ không, họ sửa sang lại biến thành trung tâm y tế, thuê một ông bác sĩ, một nha sĩ lương chưa tới 10 mỹ kim mỗi tháng chữa miễn phí cho dân nghèo, một ngôi trường có 9 lớp, thuê các giáo sư dậy miễn phí cho các học sinh nghèo, lại có một cổ đòn đám ma cho mượn không lấy tiền.
Ông bà hăng say với công việc giúp đỡ tha nhân; vì các con thúc giục phải đi đoàn tụ, nhưng trước khi đi ông bà giao lại công việc cho các ông bà bạn điều hành với lời hứa ra ngoại quốc sẽ tìm nguồn tài trợ gửi và khuếch trương rộng để giúp đỡ được nhiều người hơn.
Ngọc tìm trong đá, vàng đãi trong cát, tình thương ẩn trong tim những người chất phác, không khoe khoang kêu gọi ầm ĩ. Đúng như câu Tổng Thống 4 không đã nói hãy nhìn việc người ta làm, đừng nghe người ta nói. Linh hồn nhân loại chỉ có thể mua được bằng tình thương yêu, rộng rãi và chân thành.