12 - Một Mẩu Ký Ức
Cuối thu vào đông gió Bắc thổi xuống miền đồng bằng bắt đầu rét lạnh lại thêm giời mưa lất phất cộng lại càng lạnh hơn. Cũng là lúc mùa màng gặt hái đã hết, lúa, rơm, rạ được phơi khô, lúa vào cốt, rơm rạ lên đống gọn ghẽ. Trong những ngày mùa rất nhiều việc, những cụ già cũng phải giúp đỡ con cháu các việc nhẹ, không ai bình tâm đứng nhìn con cháu quá vất vả mà không ra tay giúp việc.
Bây giờ không còn việc nhẹ cần đến các cụ nên có nhiều thì giờ nhàn rỗi để đi chơi sắm sửa hay đi thăm họ hàng, bạn bè, để tỏ tình liên ái dù xa xôi cũng tới nhà bạn ở có khi đôi ba ngày mới về.
Làng Liên Quy, Hiếu Nghĩa, thuộc miền Nga Sơn là đất bồi bãi biển, người ta phá lác trồng cói ở ngoài còn nước mặn độ vài ba năm, trời mưa xuống đã rửa hết nước mặn, người ta lại đưa gốc cói ra trồng bên ngoài là những đất phù sa do lượng nước sông Hồng Hà và sông Đáy bồi lên. Những ruộng cói cũ đã thành ruộng lúa, người ở các vùng đông dân kéo nhau đến ở lập nghiệp, đất tốt, chim trời cá nước rất nhiều vì gần bờ bể.
Người ta sống rất thanh bình, tình lưu luyến hiếu khách rất cao. Nhớ đến người bạn già ở Liên Quy, cụ Huân chiều hôm trước đã ngỏ ý cho bà cụ biết sáng sớm mai cụ sẽ đi thăm bạn cụ An Hòa, và ở lại chơi mấy ngày. Sáng hôm sau cụ dậy sớm đưa xe đạp ra sân nắn lại hai bánh xe xem có rắn chắc, tay lái, đĩa răng cưa có đầy đủ dầu mỡ. Chiều hôm qua cậu con trai khi nghe bố nói đi chơi đã tự động xem lại xe cẩn thận.
Phương tiện giao thông ở nhà quê đi xe đạp rất phổ thông, khi không cần mang đồ nhiều quá, một vài bộ quần áo, ít quà để biếu bạn, xếp trên porte-bagage rất tiện. Vả lại con đường từ nhà cụ Huân tới Liên Quy nơi cư ngụ nhà cụ An Hòa xa chừng 20 cây số. Nhà cụ Huân ở thuộc Bắc Kỳ, nhà cụ An Hòa thuộc Trung Kỳ. Thời Pháp thuộc chia ranh giới hai miền là con sông Điển Hộ, một cây cầu bắc qua cho dân hai miền giao thông.
Từ khi quân phiệt Nhật tràn vào Đông Dương không bảo nhau nhưng cùng một ý hướng giống thực dân Pháp, đã lũng đoạn hết cách làm cho dân Việt Nam một cổ hai tròng khốn khổ về kinh tế, cấm cách giao thông tắc nghẽn, có ý cho dân đói khổ không còn ý chí quật khởi chống lại bọn chúng, nên chúng đặt ra những luật lệ rất vô lý.
Bọn Pháp chia nước mình ra ba kỳ như ba nước cho dễ cai trị, mỗi kỳ có luật riêng không giống nhau. Những nhà buôn vải từ Sàigòn về Hà Nội bán cũng bị cấm mỗi khi xe lửa dừng ở ga nào thuộc địa phận nào bọn cẩm phú lít ào lên khám xét toa chở hành lý hàng hóa dù nhà buôn xuất trình biên lai của nhà hàng ở Sàigòn… Đây thuộc đất Trung Kỳ không được phép đưa vải, len, sợi v.v.. qua đây. Bị tịch thu quan Tây bắt không chỗ kêu ca đành mất.
Những nhà buôn Việt Nam mình khôn lanh hơn, họ chạy khắp các toa xe tìm một ông Nhật nào, chẳng biết chức vụ lớn nhỏ, nhờ ông can thiệp lấy lại hàng ngay tức khắc. Không biết tiếng Nhật nhưng với cử động bằng tay ra dấu kéo ông tới toa hàng, thế là hiểu ngay, đế tránh xẩy ra lôi thôi nhà buôn tìm cách giao thiệp để hàng hóa vào toa có người Nhật, không một ông Tây nào dám đột nhập khám xét.
Trước thập niên 40, xứ Bắc Kỳ nền nông nghiệp tuy thô sơ vẫn không thiếu gạo mà còn thừa để xuất cảng qua cửa bể Hải Phòng, bằng chứng các phủ huyện thuộc miền duyên hải chỗ nào cũng có cửa hàng cân gạo của khách trú người Trung Hoa mua gạo để xuất cảng do những người nhà quê xay lúa giã gạo bằng tay đem tới bán. Vì chính sách tàn độc của bọn Pháp Nhật bắt phá lúa trồng đay tích trữ lương thực để cho dân thiếu gạo, các nhà buôn quay về tỉnh Thanh Hóa nhờ được chương trình nông giang cách đây ít năm đắp đập Bái Thượng khơi sông ngòi dẩn thủy nhập điền, mới có câu được mùa “Nông cống thì sống mọi nơi”.
Bị cấm phải tìm kẽ hở các nhà buôn gạo chở gạo tới hải phận gần Điền Hộ chờ đêm tối mới vượt biển vào Tân Hải thế là thoát, đã vào tới đất Bắc kỳ tự do chở đi các nơi tùy ý. Có khi thuyền đang lênh đênh ngoài biển gặp bọn tuần duyên thuyền chỉ việc quay đầu trở lại đất Trung kỳ cách mấy chục thước cũng thoát nạn tịch thu.
Trong mấy ngày ở nhà các cụ trò chuyện ăn uống muốn đổi không khí các cụ đưa nhau ra bãi biển, nghe nói có vài thuyền buôn đậu ở ngoài biển cách bờ không xa. Vì tò mò hai cụ tìm chiếc thuyền nhỏ thẳng đường chèo tới thuyền buôn mà các cụ đã trông thấy khi đi trên bờ. Tới nơi các cụ biết là bất đồng ngôn ngữ. Cũng chẳng sao, người ta đã đưa giấy để bút đàm và cho biết họ là người Trung Hoa mà người ta thường gọi là Tầu ô, cả hai cụ đều là người hiểu Hán học, rồi họ đưa các cụ đi xem các mặt hàng trong thuyền, phần nhiều là đồ sứ như bát đĩa v.v… các thứ như thuốc bắc, đồ tơ lụa của Trung Hoa. Mục đích đi chơi, các cụ chỉ xem cho biết chớ không mua gì. Sau khi họ đãi một chầu nước trà các cụ cảm hơn rủ nhau ra về.
Vừa bước chân lên bờ, hai cụ đã được du kích trong làng rước với nghi vệ giao găm, lựu đạn nội hóa đeo chung quanh lưng, trên vai, tòng teng kiếm hay gươm cùn, họ đưa các cụ về trụ sở ủy ban kháng chiến đặt ở đầu làng. Thật ngỡ ngàng, các cụ đưa ra lý do đi chơi, cụ An Hòa xin ủy ban xét tình người làng đưa bạn đi chơi.
Chủ tịch ủy ban phán rằng có ống viển kính đã trông thấy các cụ lên thuyền thông đồng với người ngoại quốc tức làm gián điệp, là Việt gian. Vào cuối năm 1946 chiến tranh bộc phát, quân Pháp định đổ bộ nhiều nơi đã tung gián điệp khắp chỗ, nên ta phải đề cao cảnh giác. Cụ An Hòa còn có thể châm chước, nhưng cụ Huân là người lạ, là người xứ Bắc kỳ theo đạo Công giáo rất đáng nghi ngờ. Đã buộc là gián điệp chẳng cần xét xử, không phải điều tra, cứ việc đưa thẳng lên lao Thành Tín giam vào trại Lý Bá Sơ cũng như trại Đầm Đùn, không cần tả lại ai ai cũng có thể hình dung ra được những cực hình dã man đối với tù nhân.
Người nhà cụ An Hòa đưa tin cho gia đình cụ Huân biết cả hai cụ bị bắt, cũng không biết người ta đưa các cụ đi đâu, hỏi thăm ở đâu cũng chối không biết. Cụ bà Huân ốm yếu mấy người con còn nhỏ chưa quen đi xa ít biết giao thiệp ứng đối, khi được tin mấy người cháu lớn tuổi của cụ Huân tự động đến họp với đại gia đình tìm cách cứu cụ Huân. Việc đầu tiên là hãy dò la cho biết chỗ giam cụ Huân ở đâu mới có cớ đích xác để tìm cơ quan can thiệp; với Cộng sản lại đang thời kỳ chống Pháp làm gì có luật sư có tòa án mà kêu ca.
Rồi họ phản công. Đang lúc chiến tranh chỗ nào cũng có canh gác, có du kích hơi khả nghi người ta bắt giữ lại để xét hỏi, đàn bà đi lại còn dễ hơn, nên người cháu dâu được đề nghị giả làm người buôn bán, chị đi mua được vài chục bánh thuốc lào để bán lẻ vì hầu hết đàn ông nhà quê thích hút thuốc lào, từ thị xã Thanh Hóa chị lân la hết nơi này đến nơi kia hỏi thăm, chị đã tìm ra nhà lao Thành Tín trại Lý Bá Sơ là nơi giam cụ Huân.
Sau một hồi bàn đi tính lại không dùng tiền, không dùng lý được, cụ bà Huân và các con tìm về Phát Diệm, nơi ở của Cố vấn Giám mục Lê Hữu Từ kể hết tự sự, một lợi điểm cụ Huân đang giữ chức chánh trương hàng xứ là người Công giáo tốt. Giám mục Lê Hữu Từ sau mấy câu yên ủi gia đình cụ Huân, bảo người thơ ký thảo công văn bảo đảm xin tha cho cụ Huân, sau khi ký tên cố vấn Lê Hữu Từ đã cho người cầm tay đưa tới ông Đặng Thái Mai, chủ tịch hành kháng tỉnh Thanh Hóa.
Sau ít lâu chờ đợi không kết quả, cố vấn Lê Hữu Từ phải gửi thư tới Hồ chủ tịch nhờ can thiệp, tạm thời bỏ chính sách giết nhầm hơn tha nhầm. Bấy giờ Đặng Thái Mai mới báo cho Đức cha cố vấn biết ngày cụ được tha. Được tin bà cụ Huân lại họp gia đình cắt cử ai là người có thể đi đón cụ Huân từ nhà lao vì đường xa không có đường xe hơi, chỉ có cách đi xe đạp đón cụ về.
Một người cháu trai xung phong xin đi với chiếc xe đạp, anh đã đạp hơn một trăm cây số đường trường khúc khuỷu, ổ gà. Nhiều chỗ đắp mộ ngăn quân giặc phải đi bộ dắt xe. Lúc về anh nhường xe để cụ Huân đi xe đạp, anh chạy bộ theo sau và đun xe cho cụ đi đỡ mệt. Quá mừng mong cho chóng tới nhà, nhiều lúc cụ cố đạp nhanh, quên người cháu chạy theo sau dù mệt cũng cố chạy theo cho kịp.
Về tới nhà sau mấy lời thăm hỏi vợ con, cụ Huân chỉ vào người cháu trai và người cháu dâu, cụ nói vì tình gia tộc các cháu đã chẳng ngại nguy hiểm khó nhọc, bỏ công ăn việc làm giúp đưa cụ về tới nhà, nói với các con phải biết ơn hai người cháu.
Thực là một gương sáng thể hiện tình gia tộc thắm thiết của thời quốc gia.