← Quay lại trang sách

Phần VII 61- LIỄU TÚ TÀI

Rốt đời Minh tại đất Thanh Châu, Diễn Châu, cào cào sanh ra nhiều lắm, lần lần qua Đất Nghi. Quan huyện sở lại lấy làm lo sợ, nằm ngoài nhà khách mơ màng thấy Liễu Tú Tài đội mão cao, mặc áo xanh, hình thù phốp pháp tới viếng, xưng mình có phép trừ cào cào. Ông huyện hỏi phép gì? Liễu Tú Tài nói sáng ngày bên đàng tây nam có người đờn bà cỡi con lừa cái lớn bụng, thì là thần cào cào, ông phải xin đờn bà ấy cứu thì khỏi. Quan huyện lấy làm lạ, sáng ngày sắm lễ vật ra phía nam chực một hồi, quả có một người đờn bà bới tóc cao, mặc áo vải rộng cỡi lừa xăm xăm qua bên bắc. Quan huyện thắp nhan rót rượu đón lạy bên đàng, nắm lừa không cho đi. Người đờn bà hỏi muốn làm gì? Quan huyện năn nỉ nói huyện hạt tôi chẳng bao lớn, xin bà làm phước cứu cho khỏi miệng cào cào. Người đờn bà nói: tệ dữ chưa! Liễu Tú tài nhạy miệng, lậu cơ quan rồi, để ta bắt hắn chịu, không hại tới lúa má thì thôi. Đờn bà ấy uống hết ba chén rượu rồi biến mất. Sau cào cào qua huyện bay tối trời, song có ý tránh ruộng lúa, cứ đậu theo mấy cây liễu; qua đâu liễu sạch lá còn cây không, mới biết Tú Tài là thần cây liễu. Có kẻ bàn nói là tại ông huyện có lòng lo cho dân, mơ tưởng ra như vậy.

62- CHUYỆN LƯU HỔ

Người Lưu Hổ tánh hung ngang, ai nấy đều chạy mặt, thêm duyên cho là cọp đội mão. Người ấy có ruộng giáp ruộng Họ Miêu. Miêu siêng không bỏ đất dư, dọc ranh trồng đào nhiều. Đào vừa già con họ Miêu qua hái, họ Lưu làm hung đuổi đi, nói là của mình. Con họ Miêu khóc chạy về mét với cha, cha sửng sốt, xảy thấy họ Lưu đã tới chưởi mắng trước cửa lại hăm đi kiện. Họ Miêu cười nói ngon ngọt, họ Lưu cũng không an lòng, còn làm mặt giận dữ bỏ ra về. Thuở ấy có người đồng ấp tên là Lý Túy Thạch làm tài phú buôn bán bên đất Nghi, họ Lưu làm đơn đem vào thành xảy gặp nhau; họ Lý ỷ quen biết hỏi đi chuyện gì? họ Lưu học lại, họ Lý cười nói: danh vọng anh, ai ai đều biết, tôi biết chắc tánh lão Miêu ít oi thiệt thà, không lẽ dám làm điều ngang ngữa, có khi là tại anh muốn trở trái làm mặt. Họ Lý nói rồi bèn xé đơn, kéo họ Lưu vào phố mà đãi rượu. Họ Lưu căm căm không hết giận, ăn cắp viết trong phố, lại tả đơn khác, giấu trong lưng, sao vậy đi kiện cho đuợc. Hồi lâu họ Miêu cũng tới nói hết tự sự, năn nỉ xin họ Lý bài giải; nói mình làm ruộng quê mùa hơn nửa đời người không thấy mặt quan, xin nói làm sao cho họ Lưu đừng kiện, một hai cây đào y không tiếc.

Họ Lý kêu họ Lưu nói họ Miêu chịu nhưỡng đào, họ Lưu cũng còn chỉ trời vạch đất chưởi mắng hết tiếng. Họ Miêu hòa hoãn ăn nói nhỏ nhoi, không dám cải một lời. Việc an rồi cách bốn năm bữa, nghe nguơi trong làng đồn họ Leu chết, họ Lý thất kinh. Sáng ngày sau, họ Lý có việc đi đàng, ngó thấy một người chống gậy mà đi tới in ai họ Lưu. Đến khi giáp mặt chào hỏi ân cần, họ Lý nói bữa trước nghe tin dữ, sao có huyễn hoặc dường ấy. Họ Lưu không nói đi nói lại, cứ nắm tay họ Lý đem về nhà mời trà rượu rồi, mới nói tiếng đồn ngày trước là thiệt. Số là ngày trước y thấy hai người tới bắt y đi tới quan; y hỏi chuyện chi? Hai người nói không biết. Y nghĩ mình ra vào cửa quan mấy mươi năm, quan quyền chi mình cũng tầng thấy, chẳng sợ lện chi, bèn đi theo tới một cái nhà thính, thấy một ngươi ngồi trở mặt hướng nam, mặt giận phừng phừng hỏi rằng: có phải họ Lưu là thằng nầy, tội ác nó dẫy đầy mà chẳng biết chừa cải, lại chiếm đoạt của người ta, tánh khí ngang tàng dường ấy, phải bỏ nó vào trong vạc. Chẳng dè có một người tra bộ nói rằng: tên ấy có một việc lành, chưa đáng tội chết. Ông ngồi trên coi bộ lại gật đầu bớt giận, dạy đưa y về đã. Các người hầu hạ đều nạt nộ đuổi y đi. Y hỏi chuyện gì mà bắt y tới, chuyện gì mà đuổi y về, xin nói cho y biết. Có một ông thơ lại ôm bộ xuống chỉ một khoản ghi rằng: đời Sùng Trinh năm thứ 13, họ Lưu có xuất tiền ba trăm cứu hai vợ chồng người kia khỏi chết đói mà được hòa hiệp. Ông thơ lại lại nói nếu không có việc lành ấy, thì ngày nay đã phải chết, lại bào thai làm súc sanh. Y sợ quá, lật đật đi theo hai người mà ra. Hai người đòi ăn lót, y nổi hành hung, nói các anh không biết Lưu nầy vào ra cửa quan đã hai mươi năm, ăn của người ta biết mấy, các anh khéo nhè cọp già mà đòi thịt. Hai người làm thinh đưa y về tới làng, rồi đứng vòng tay nói trong vụ nầy chúng tôi không uống đặng một chén rượu lạt. Hai người đi rồi, y vào nhà mà sống lại, thì chết đã hai ngày rồi.

63- CON RƯỢU

Đất Trường Sơn, họ Lưu mập chắc mà có tật rượu, một lần uống hết cả ghè, nhờ có 300 mẫu ruộng giàu có, cho nên uống mấy cũng không hại gì. Có một tên thầy sãi ngó thấy ông ấy, liền nói ông ấy có bịnh kì. Họ Lưu nói mình không bịnh, thầy sãi hỏi ông uống làm vậy có say hay là không? Họ Lưu nói nhiều khi không say. Thầy sãi nói ấy là sâu rượu. Họ Lưu sợ xin thầy sãi cho thuốc. Thầy sãi nói không phải thuốc thang chi. Vậy trời đương tròn bóng, thầy sãi biểu họ Lưu phải cột tay cột hơ lại nằm sấp xuống, biểu lấy một cái bát cô tô đựng rượu ngon để trước đầu nằm cách chừng năm tấc. Hồi lâu họ Lưu thèm rượu khao khát, hơi rượu bay vào lổ mũi nực nồng, muốn uống hết sức mà uống không đặng, xảy nghe ngứa cổ quá chừng, liền có vật bò ra rớt ngay vào trong tô rượu. Việc rồi mở trói cho họ Lưu coi thì thấy có một cục thịt hồng hồng dài chừng ba tấc, cựa quậy như cá lội, có miệng có con mắt đủ. Họ Lưu thất kinh đem tiền tạ ơn, thầy sãi không chịu lấy, xin con trùng ấy mà thôi. Họ Lưu hỏi xin làm gì? Thầy sãi nói là cốt tử rượu, đựng nước vào ghè bỏ nó vô mà đánh thì hóa ra rượu ngon. Họ Lưu biểu làm thử, có quả như lời. Từ ấy họ Lưu thấy rượu thì ghét như kẻ thù, nhưng vậy càng ngày càng ốm, nhà lần lần cũng suy vi, đến đỗi nghèo khổ không có đủ mà ăn.

Sách Dị sử bàn rằng: ngày uống một hộc mà nhà không bớt giàu, đến khi không uống một đấu nhà lại mang nghèo, có phải một ăn một uống đều có định số rồi chăng?

64- CHÓ KHÔN

Đất Lộ An có một người mắc hàm oan ở tù gần chết, người con gop nhóp tiền bạc trong nhà được một trăm đồng, toan đi tới tỉnh mà lo cho cha. Ở nhà có nuôi một con chó mực, người con cỡi lừa mà đi, con chó lăng căng chạy theo, cố đuổi thì nó tháo lui, lừa chạy nó lại tuốt theo, đánh nó cũng không chịu trở về. Nó theo được vài mươi dặm, chủ nó xuống đi tiểu một bên đàng, vác đá quăng nó chạy trở lại. Сhủ lên lưng lừa mà đi, nó lại lóc thóc theo sau, cắn đuôi cắn cẳng lừa; chủ giận đánh, nó la nó sủa mãi, chạy vọt tới nhảy cắn đầu lừa, ra ý như không cho chủ đi. Chủ lấy làm điềm không khá, lại càng giận lắm; trở đầu lừa rượt nó chạy xa rồi mới day cương thúc lừa nhảy.

Tới tỉnh thì trời đã tối, người chủ rờ lưng thì túi bạc mất hết nữa, tháo mồ hôi, ngẩn ngơ, trằn trọc cả đêm ngủ không đặng. Sực nhớ lại lời người ta nói chó đâu có sủa lổ không, trời vừa rựng sáng, người chủ thoát ra khỏi thành, tìm kiếm dọc đàng đi, lại nghĩ đàng quan lộ người ta đi như kiến cỏ, nếu có rơi rớt tiền bạc thì chẳng lẽ còn. Đi lần lần tới chỗ xuống lừa, bèn thấy con chó nằm chết trong cỏ, mồ hôi ra lông lá ướt dầm, người chủ nắm tai con chó giở lên mà coi, thì có gói bạc dưới mình nó.

Người chủ cám vì con chó có nghĩa, bèn mua hòm mà chôn, người ta gọi là mả chó khôn.

65- THẦN NÚI

Quan Đồng tri phủ Dương Châu nằm chiêm bao, thấy Thần núi đòi; Thần núi làm mặt giận, song ngước mặt lên thấy một người hầu bên Thần lại có ý hiền lành. Ông ấy thức dậy lấy làm sợ hãi, sáng ngày đi tới miễu Thần núi, thầm thỉ vái van cho khỏi Thần giận. Đến khi ông ấy ra về, xảy thấy một người bán thuốc bắc giống hệt người ông ấy thấy hồi Thần đòi, hỏi ra thì là thầy thuốc. Ông Đồng tri về tới nhà phát bịnh nặng, liền cho đi rước thầy thuốc ấy tới nhà soạn thuốc đầu thang. Chẳng dè ông Đồng tri uống thuốc hồi đầu hôm, qua tới nửa đêm thì chết. Người ta nói vua Diêm La cùng Thần Đông Nhạc mỗi ngày sai sứ cả trai cả gái là mười vạn tám ngàn người, phân nhau đi khắp thiên hạ mà làm thuốc, gọi là sứ Câu hồn, cho nên có uống thuốc thì phải cẩn thận.

66- CHUYỆN THẦY THUỐC

Họ Trương vẫn là dân nghèo ở đất Nghi, đi đàng gặp một ông Đạo sĩ biết coi tài tướng đoán rằng: nhà ngươi sau sẽ nhờ một nghề mà làm giàu. Họ Trương hỏi nghề gì? Thầy Đạo sĩ nói là nghề làm thuốc. Họ Trương nói mình làm tbuốc làm sao đặng. Đạo sĩ cuời nói nhiều thầy làm thuốc có danh có phải là tại hay chữ đâu. Họ Trương về nhà túng lắm mới đi lượm đồ ngoài bãi biển đem về dọn bán giữa chợ, chung ra những là xương cá, sò hến, ổ vò vò, trau chuốc lời nói cho được kiếm cơm mà đắp đổi, mà cũng chưa lấy làm đắt. May đâu có quan Thái thú đất Thành Châu mắc bịnh ho, sức ra cho các huyện đòi thầy thuốc. Đất Nghi ở dọc núi không có mấy thầy giỏi; mà quan huyện sở tại thì sợ quan Thái thú nói không hết lòng, mới sức ra cho các làng dạy ai biết làm thuốc phải tới mà khai. Khi ấy ai nấy đều báo tên họ Trương làm thuốc giỏi, quan huyện bèn cho đòi. Họ Trương mang lấy bịnh đàm suyễn, chữa bịnh mình cũng không xong, nghe trát đòi sợ hãi không chịu đi, quan huyện không nghe, bắt trạm đưa đi. Họ Trương đi qua truông ải, khát nước chừng nào càng nổi ho nổi suyễn lên chừng ấy, ghé vào xóm xin nước mà uống; chẳng dè giữa truông khô khan nước quí giá, xin ai cũng không cho. Xảy thấy một người đờn bà rửa rau, rau nhiều nước ít, trong chậu nước đục ngàu ngàu, họ Trương khát khao chịu không đặng, bèn xin nước dơ ấy mà uống, uống vào đả khát, ho suyễn cũng hết, nghĩ trong bụng ấy là một phương hay.

Đến khi tới quận, thì thấy các thầy thuốc danh tiếng ở các huyện tới đó bày tủ hốt những thuốc tốt, mà bịnh ông Thái thú không giảm chút nào. Họ Trương vào xin một chỗ khuất tịch giả đò chế thuốc, lại truyền cho đâu đó cho người đi ra nhà quê tìm các thứ rau cỏ đem về. Anh ta lấy nước dội rửa làm như con mẹ rửa rau, rồi lấy nuớc rửa ấy đem cho ông Thái thú uống vào một chén bịnh liền đã. Ông Thái thú mầng lắm thưởng vàng bạc nhiều lại cho một tấm biển để treo trước nhà. Bỡi đó họ Trương nổi danh, người ta tới hốt thuốc chật nhà, làm đâu chịu đó không bịnb nào không lành. Thuở ấy có người đau bịnh thương hàn, cho người tới hốt thuốc, họ Trương say hốt lầm nhằm thang thuốc hạ, tỉnh rượu biết mình lầm mà không dám nói, ai ngờ cách ba bữa có người đem lễ vật tới nhà mà tạ; hỏi ra thì là người đau bịnh thương hàn, nói uống thuốc vào, trên mửa dưới tả mà khá. Cũng còn có nhiều chuyện mặc may như vậy. Từ ấy họ Trương giàu có làm thinh giá, có rước bằng kiệu, đem nhiều tiền mới chịu đi cho.

67- TỐNG QUỐC ANH

Tống Quốc Anh là người Đông Bình, làm tri huyện Lộ Thành tham bạo bất nhơn, thâu thuế lại càng làm dữ, đánh chết người ta nằm ghỉnh trước dinh. Xảy có Từ Bạch Sơn đi tới nba, thấy sự hung ác, trách quan huyện mà rằng: ông làm cha mẹ dân, mà làm hung dữ tới chừng ấy sao. Chẳng dè quan huyện lấy chuyện mình làm làm hay, có ý khoe khoang nói tuy mình làm quan nhỏ, đáo nhậm chưa được một trăm ngày, mà giết được năm mươi tám mạng. Cách nửa năm rồi, một bữa quan huyện đương ngồi khách, vùng trợn mắt đứng dậy, xang tay xang chơn dường như ai đánh mà đỡ, la lên nói tội tôi phải chết, tội tôi phải chết. Dịnh ông ấy vào nhà trong, cách một hồi thì chết.

Hỡi ôi! May có tào âm phủ gồm hay việc dương gian, bằng chẳng thì thâu góp càng nhiẻu, càng được vinh hiền, hại thiên hạ nói sao cho cùng. 68- CHÓ BIẾT CỨU CHỦ

Có một người đi buôn bán bên đất Vu Hồ, được tiền bạc nhiều mướn ghe mà về xứ sở. Xảy thấy phường làm thịt chó khiêng một con chó đi trên đàng, người ấy chịu nhiều tiền chuộc đem xuống ghe nuôi dưỡng tử tế. Chẳng dè ghe mướn ấy là ghe ăn cướp, thấy bộ hành chở tiền bạc nhiều, chèo ngay vào chỗ hóc hiểm, vác gươm ra toan làm dữ. Người ấy lạy khóc xin cho toàn thây, quân ăn cướp bèn lấy mền nỉ gói anh ta lại, cột chặt bỏ xuống sông. Con chó thấy vậy kêu la nhảy theo cắn lấy gói, hụp lên hụp xuống dưới nước, linh đinh trôi theo dòng nước một đỗi xa xa, may tới chỗ cạn cản ngang lại đó. Con chó lội lên bờ kiếm chỗ có nhà người ta, chay tới chạy lui kêu sủa tiếng buồn bực. Có kẻ lấy làm sự lạ chạy theo nó tới chỗ cạn, con chó vùng lội xuống nuớc, người chạy theo ngó ra, thì thấy một gói sùm sùm nằm trên mặt nước, liền lội ra vớt lên bờ, mở dây ra thì người bộ hành hãy còn sống, tỉnh lại nói hết sự tình, thuê ghe trở lại đất Vu Hồ cho đặng thám ghe ăn cướp. Người ấy bước chơn xuống ghe liền mất con chó, lấy làm thương tiếc quá chừng. Tới cửa Vu Hồ ba bốn ngày, thuyền đậu chật sông mà không thấy chiếc ghe ăn cướp. Tình cờ con chó ở đâu chạy tới, ngó thấy chủ liền la lên dường như kêu chủ đi, chủ theo nó chạy tới trước. Con chó nhảy lên ghe lạ, cắn cứng ống chơn người dưới ghe, đánh không nhả, chủ nó lại gần la lên; té ra người nó cắn là đứa ăn cướp bữa trước, nó thay quần đổi lốt đi qua ghe khác cho nên khó nhìn. Bắt ép tên ấy trói lại, xét trong mình nó, thì vàng bạc nó ăn cướp hãy còn.

Ấy là chó mà còn biết trả ơn, những người đen bạc không biết liêm sĩ cũng phải hổ cùng nó dường nào!