Chương 1 - Chuyện Tình Giai Nhân.
Để “tiết kiệm thời gian”, tất cả đồng hồ ở Thượng Hải đều được chỉnh nhanh hơn một tiếng, thế nhưng chỗ nhà họ Bạch lại bảo: “Đồng hồ nhà chúng tôi là loại đồng hồ cổ,” mười giờ của nhà họ là mười một giờ của nhà khác. Họ hát sai nhịp, không theo kịp khúc hồ cầm của cuộc sống.
Cây hồ cầm được kéo lên réo rắt, trong màn đêm muôn vạn ánh đèn, dây mã vĩ đưa đi đưa lại, câu chuyện thê lương không hồi kết - không hỏi đến âu cũng đành thôi!... Câu chuyện trên cây hồ cầm nên để cho cô ca nương kiều diễm diễn xướng mới phải, đôi gò má phấn hồng thon dài kẹp lấy chiếc mũi trắng như tuyết, nào hát, nào cười, nào ống tay áo che miệng... vậy mà ở đây chỉ có cậu Tư nhà họ Bạch ngồi một mình, kéo hồ cầm trên ban công tồi tàn, âm u.
Cậu Tư đang kéo đàn, chuông cửa dưới nhà chợt reo. Đây là một việc hi hữu ở nhà họ Bạch, theo quy định xưa nay, buổi tối tuyệt đối không được tiếp khách. Tối mà có khách đến, hoặc không dưng nhận được một cú điện báo, vậy ắt hẳn là việc khẩn cấp tày trời, chắc là có người chết.
Cậu Tư chăm chú lắng nghe, quả nhiên cậu Ba, mợ Ba, mợ Tư vừa bước lên nhà vừa nhặng xị, trong lúc vội vã không biết họ nói những gì. Trong căn buồng phía sau ban công, có cô Sáu, cô Bảy, cô Tám và bọn trẻ nhà cậu Ba, cậu Tư ngồi cả đấy, lúc này đều hơi hốt hoảng, cậu Tư ngồi ngoài ban công, từ trong bóng tối nhìn ra chỗ sáng, thấy hết sức rõ ràng, cửa vừa mở, cậu Ba mặc quần soóc áo may ô, giạng chân trước bậu cửa, vung tay ra phía sau, đập muỗi đen đét trên đùi, đứng từ xa gọi với về phía cậu Tư: “Chú Tư đoán xem làm sao? Thằng chồng cũ của cô Sáu, nghe bảo bị viêm phổi, chết rồi!” Cậu Tư đặt cây hồ cầm xuống đi vào trong nhà, hỏi: “Ai báo tin vậy?” Cậu Ba đáp: “Bà Từ!” Nói đoạn, cậu quay lại cầm cây quạt phẩy vào mợ Ba, nói: “Cô ở đây hóng chuyện làm gì, bà Từ còn ở dưới nhà kia kìa, bà ấy béo, ngại leo cầu thang, cô còn không xuống ngồi với bà ấy!” Mợ Ba đi rồi, cậu Tư bần thần nói: “Cái tay vừa chết ấy có phải họ hàng nhà bà Từ không nhỉ?” Cậu Ba đáp: “Thế mới nói. Nom bộ dạng, hẳn là do nhà bên kia cố nhờ bà Từ đến báo tin cho chúng ta, chắc chắn có dụng ý rồi.” Cậu Tư nói: “Chẳng lẽ họ muốn cô Sáu đến chịu tang?” Cậu Ba lấy cán quạt gãi gãi da đầu, đáp: “Theo lý, thì cũng nên...” Bọn họ cùng lúc nhìn cô Sáu một cái, Bạch Lưu Tô đang ngồi ở góc phòng, chậm rãi thêu một đôi dép vải. Vừa nãy cậu Ba, cậu Tư một hỏi một đáp, dường như không có chỗ cho cô lên tiếng, lúc này cô mới hờ hững nói: “Đã ly hôn rồi, giờ lại đi làm bà góa cho gã, để người ta cười rụng răng cho à!” Cô lại tiếp tục thêu dép như không có chuyện gì xảy ra, song trên đầu ngón tay lấm tấm mồ hôi lạnh, mũi kim rít lại, không thể nào rút ra được.
Cậu Ba nói: “Cô Sáu, không nói như thế được. Chú ấy năm xưa có lỗi với cô nhiều, chúng tôi biết cả. Nhưng giờ người ta đã chết rồi, chẳng lẽ cô vẫn để bụng sao? Hai cô vợ lẽ chú ấy bỏ lại, chắc cũng chẳng thủ tiết được đâu. Giờ cô cứ đường đường chính chính quay về chịu tang cho chú ấy, đứa nào dám cười? Tuy cô không sinh được mụn con nào, nhưng cháu chắt nhà người ta đầy cả ra, cô cứ tùy chọn lấy một đứa mang về làm con. Của nả tuy chẳng để lại gì, nhưng nhà chú ấy là danh gia vọng tộc, chắc chắn sẽ cắt cử cô trông giữ từ đường, mẹ con cô cũng chẳng chết đói được.” Bạch Lưu Tô cười nhạt đáp: “Anh Ba nghĩ cho em chu đáo thật đấy, nhưng tiếc là chậm một bước, ly hôn cũng đã bảy tám năm nay. Cứ theo cái cách anh nói, hóa ra mọi thủ tục pháp lý năm xưa đều là làm quấy quá thôi à? Chúng ta không đùa bỡn với pháp luật được đâu!” Cậu Ba đáp lại: “Cô đừng có hễ động một tí là lại lôi pháp luật ra dọa người ta, pháp luật ấy à, nay sửa đổi, mai sửa đổi, còn những điều tôi nói đều là lẽ trời, là tình người, là tam cương ngũ thường, thì không thay đổi được! Cô sống là người nhà người ta, chết đi làm ma nhà người ta, cây dẫu cao nghìn thước, nhưng lá vẫn phải rụng về cội...” Lưu Tô đứng dậy nói: “Mấy cái câu này, sao bảy tám năm trước anh không nói đi?” Cậu Ba đáp: “Tôi chỉ sợ cô cả nghĩ, cho rằng chúng tôi không muốn nhận cô về.” Lưu Tô nói: “Ủa? Giờ thì anh không sợ tôi cả nghĩ nữa chứ gì? Anh tiêu hết tiền của tôi rồi, nên không sợ tôi cả nghĩ nữa chứ gì?” Cậu Ba hỏi thẳng vào mặt Lưu Tô: “Tôi dùng tiền của cô? Được mấy đồng nào? Cô ở nhà chúng tôi, ăn cơm của chúng tôi, uống nước của chúng tôi, ngày xưa thì chẳng sao, thêm một người bất quá là thêm đôi đũa, nhưng giờ cô đi hỏi thử xem, giá gạo bao nhiêu đồng rồi? Tôi còn chưa nhắc đến tiền, mà cô lại nhắc đến trước cơ đấy!”
Mợ Tư đứng sau lưng cậu Ba, cười một tiếng nói: “Máu mủ ruột rà với nhau, lẽ ra không nên nhắc đến chuyện tiền nong. Nhưng mà đã nhắc đến tiền nong, thì là cả câu chuyện dài đấy! Tôi đã nói với anh Tư nhà này từ lâu rồi, tôi bảo: anh đi khuyên anh Ba đi, các anh buôn vàng, chơi cổ phiếu, thì đừng có dùng tiền của bà cô Sáu, dính vào rồi đâm lại xúi quẩy ra! Cô ta vừa được gả về nhà chồng, chồng liền trở thành thằng phá gia chi tử. Quay về nhà mẹ đẻ, rồi xem nhà mẹ đẻ cũng sẽ lụn bại cả thôi... thật đúng là sao Thái bạch sạch cửa nhà!” Cậu Ba tiếp lời: “Mợ Tư nói cũng có lý. Hồi xưa nếu không để cô ấy tham gia cổ phần, chắc chúng ta không đến nỗi lụn bại như thế này!”
Lưu Tô tức run bần bật, chống mặt đôi dép đang thêu dở vào cằm, cằm run lên như sắp rơi xuống. Cậu Ba lại nói: “Nhớ hồi xưa cô thút tha thút thít về nhà, làm ầm lên đòi ly hôn, có trách thì trách tôi là thằng đàn ông quá hào hiệp, thấy cô bị nó đánh ra nông nỗi ấy, thấy bất nhẫn, nên vỗ ngực đứng ra bảo: ‘Được! Cậu Ba họ Bạch tao tuy nghèo, nhưng trong nhà cũng không đến nỗi thiếu bát cơm cho em tao!’ Tôi biết cô chú là vợ chồng trẻ, ai không ngang bướng chứ? Cùng lắm là về nhà mẹ đẻ cỡ dăm ba năm, rồi thì chắc cũng hồi tâm chuyển ý. Tôi mà biết cô chú cắt đứt quan hệ thật, tôi lại ủng hộ cô ly hôn chắc! Chia cắt quan hệ vợ chồng nhà người khác, là việc làm dẫn đến tuyệt tử tuyệt tôn. Tôi đây đã có con trai, tôi còn trông mong chúng nó phụng dưỡng lúc về già nữa kia!” Lưu Tô tức đến tột độ, ngược lại buông giọng cười lớn: “Được! Được! Đều là lỗi của tôi, các người nghèo là do tôi ăn hại các vị. Các người lỗ vốn, là vì tôi rước vạ về cho các vị. Thằng con trai nhà các người có chết, cũng là do tôi hại, khiến các người tổn âm đức!” Mợ Tư vung tay tóm lấy cổ áo thằng con trai mình, dúi đầu nó vào Lưu Tô, quát: “Lại còn độc mồm độc miệng trù ẻo trẻ con nữa hả! Vì cái câu của mày, con trai tao mà chết, tao tìm mày hỏi tội nghe chưa hả!” Lưu Tô vội né người tránh, túm lấy cậu Tư nói: “Anh Tư xem, anh Tư xem... anh... anh nói một câu công bằng đi chứ!” Cậu Tư nói: “Cô chớ có sốt sắng, có gì cứ từ từ nói, chúng ta phải tính kế lâu dài. Anh Ba cũng vì suy tính cho cô đấy thôi...” Lưu Tô hờn dỗi hất tay ra, đi thẳng một mạch vào phòng.
Trong phòng không có đèn, chỉ thấy lờ mờ thấp thoáng trong bức màn, có mẹ cô đang nằm trên chiếc giường lớn bằng gỗ gụ, phe phẩy chiếc quạt tròn màu trắng. Lưu Tô đến trước giường, hai đầu gối mềm oặt, quỳ sụp xuống, phủ phục bên mép giường, khóc nấc lên gọi: “Mẹ!” Bà cụ Bạch tai vẫn còn thính, những lời bên phòng ngoài, bà đều nghe thấy cả. Bà ho một tiếng, thò tay sang bên gối rờ lấy chiếc ống nhổ, nhổ một bãi đờm, rồi mới nói: “Chị Tư là người lắm mồm, con đừng chấp làm gì. Con phải biết, ai cũng có cái khó của người ấy, chị Tư bản tính cứng rắn, xưa nay đều quản việc nhà, song anh Tư con lại kém cỏi, cờ bạc rượu chè trai gái đủ cả, cái việc chơi lắm rồi chuốc bệnh vào thân có thể bỏ qua, nhưng không nên rút tiền quỹ chung, báo hại chị Tư con mất hết thể diện, đành để chị Ba cáng đáng thay, trong lòng không nuốt trôi được cục giận ấy, đâm ra không thật sự thoải mái được. Chị Ba tinh thần lại không được tốt, phải duy trì cái nhà này thật chẳng dễ gì! Thôi thì về mọi mặt, con phải thông cảm cho anh chị con một chút đi vậy!” Lưu Tô nghe lời mẹ nói, rõ là muốn nói đỡ cho mấy đứa kia, cảm thấy chẳng có nghĩa lý gì, đành lặng thinh. Bà cụ xoay người vào trong, nói thêm: “Hai năm trước, gom góp chỗ này chỗ kia, bán một thửa ruộng đi, thì cũng đủ ăn trong hai năm. Nhưng thời buổi bây giờ khó khăn rồi. Mẹ đã cao tuổi, bảo đi là phủi tay đi ngay thôi, không lo được cho các con đâu. Trên đời này bữa tiệc nào cũng có lúc tàn, con theo mẹ, cũng không phải kế lâu dài. Quay về kia vẫn là đúng đắn. Nhận một đứa con rồi sống qua ngày, chịu khó độ mười mấy năm, thế nào cũng có ngày mở mày mở mặt.”
Đang nói thì rèm cửa rung rung, bà Bạch hỏi: “Ai đấy?” Mợ Tư thò đầu vào thưa: “Mẹ à! Bà Từ vẫn ở nhà dưới đấy, đang đợi bàn với mẹ về hôn sự của em Bảy.” Bà cụ Bạch nói: “Tôi dậy ngay đây, chị thắp đèn lên.” Đèn trong phòng đã thắp, mợ Tư đỡ bà ngồi dậy, hầu bà vận quần áo xuống khỏi giường. Bà Bạch hỏi: “Bà Từ tìm thấy người thích hợp rồi hử?” Mợ Tư đáp: “Nghe lời bà ấy nói thì rất được, có điều tuổi tác hơi già.” Bà cụ Bạch ho một tiếng nói: “Cái con Bảo Lạc, năm nay cũng đã hăm tư rồi, việc của nó tôi cứ canh cánh trong lòng mãi. Tôi sốt ruột cho nó, người ta lại còn bảo tôi: rắp tâm làm lỡ việc của nó vì nó không phải con đẻ!” Mợ Tư dìu bà cụ ra phòng ngoài, bà cụ nói: “Chị đem lá trà mới đằng kia ra, pha cho bà Từ một bát, trà trong cái hộp sắt tây màu lục là trà Long Tỉnh, năm ngoái bà cô cả mang đến, trà trong cái lon cao cao kia là trà Bích La Xuân, đừng có lấy nhầm đấy.” Mợ Tư vâng lời, gọi: “Người đâu! Bật đèn lên!” Chỉ nghe thấy tiếng bước chân vang lên, một toán con trẻ huỳnh huỵch chạy đến, giúp bác gái đưa bà xuống nhà dưới.
Mợ Tư một mình ở phòng ngoài lục tủ tìm lá trà cất riêng của bà, bỗng nhiên cười nói: “Ơ! Em Bảy! Em chui ra từ đâu thế hả, làm chị giật thót mình! Cứ bảo sao vừa nãy thoắt một cái đã không thấy tăm hơi đâu.” Bảo Lạc thỏ thẻ nói: “Em đứng ngoài sân thượng hóng mát.” Mợ Tư cười khằng khặc nói: “Chắc ngượng hả, chị bảo em này, bữa mai có về nhà chồng, việc gì cũng phải để tâm một chút, đừng có nằng nặc làm theo ý mình. Ly hôn có phải việc dễ dàng, muốn bỏ là bỏ luôn, bình thường nhẹ nhõm đâu! Nếu quả dễ như thế thật, anh Tư em là người chẳng ra gì, sao chị không bỏ quách đi! Chị cũng có nhà mẹ đẻ mà, đâu phải không có chỗ nào nương thân. Nhưng cái thời buổi này, chị không thể không nghĩ cho mọi người, chị vẫn còn chút lương tâm, chỉ cần biết có vậy, mà cũng không thể dựa dẫm vào người khác, ăn bám người ta được. Chị vẫn còn mấy phần liêm sỉ đấy!”
Bạch Lưu Tô lặng quỳ trước giường của mẹ cô, nghe những lời vừa rồi, liền ấn chặt đế dép thêu hoa trong tay vào ngực, một mũi kim đang mắc trên giày đâm vào tay mà cũng chẳng thấy đau. Cô lẩm bẩm: “Không thể tiếp tục ở đây nữa rồi! Không thể ở được nữa...” giọng u uất nhưng nhẹ bẫng, giống như chiếc đèn treo ám bụi chập chờn. Cô dường như đang nằm mơ, quanh đầu đâu đâu cũng treo đầy những bát đèn ám bụi, cô loạng choạng lao người về phía trước, chợt ngỡ đã gối đầu lên đầu gối mẹ, cô tức tưởi khóc òa: “Mẹ ơi! Mẹ ơi! Mẹ phân xử cho con!” Mẹ cô thần mặt ra, cười khì khì mà không đáp tiếng. Cô ghì chặt lấy chân mẹ, ra sức lắc, khóc kêu: “Mẹ! Mẹ ơi!” Trong thoáng chốc quay lại chục năm về trước, hồi cô chỉ hơn mười tuổi, trên đường xem kịch về, trời mưa như trút nước, cô lạc mất người nhà. Cô đứng một mình trên vỉa hè, trơ mắt nhìn mọi người qua lại, mọi người cũng trơ mắt nhìn cô, cách lớp kính xe ướt đẫm nước mưa, cách vô số lớp kính vô hình - vô số những con người lạ mặt. Ai nấy đều bị nhốt trong thế giới nhỏ bé của họ, dẫu có đụng vỡ đầu cô cũng không thể chui vào được, dường như cô bị bóng đè. Bỗng nhiên nghe thấy sau lưng có tiếng bước chân, đoán chừng là mẹ mình đang đến, cô bèn dốc sức định thần lại, làm thinh. Người mẹ mà cô đã van xin và người mẹ đích thực của cô vốn là hai con người khác biệt.
Người ấy bước tới trước giường ngồi xuống, cất giọng lên mới hay là bà Từ. Bà Từ khuyên nhủ: “Cô Sáu đừng buồn, đứng dậy đi, dậy đi, trời oi bức...” Lưu Tô chống tay vào thành giường gắng gượng đứng dậy, nói: “Thím, cháu... cháu không thể tiếp tục ở đây thêm được nữa. Cháu biết cái nhà này chán ghét cháu từ lâu rồi, chẳng qua chưa nói ra thôi. Hôm nay thì nói xơi xơi như vỗ vào mặt nhau rồi, cháu cũng chẳng còn mặt mũi nào nấn ná ở lại đây thêm nữa!” Bà Từ kéo cô cùng ngồi xuống bên mép giường, nói thầm thì: “Cháu cũng thật thà quá, chẳng trách người ta hiếp đáp, mấy ông anh đầu tư buôn bán thế nào lại dùng nhẵn cả tiền của cô em! Kể cả phải nuôi em cả đời, cũng là điều nên làm thôi.” Lưu Tô chẳng dễ gì nghe được mấy lời công bằng này, tạm chẳng hỏi bà Từ xem bà ấy thật lòng hay giả vờ nghĩ vậy, từ đáy lòng cô rạo rực, nước mắt như mưa, cô nói: “Ai bảo cháu lú lẫn thế cơ chứ! Chỉ vì mấy đồng bạc, khổ thân cháu muốn đi cũng không xong.” Bà Từ nói: “Còn trẻ còn khỏe, sợ gì không còn đường sống hả cháu.” Lưu Tô đáp: “Còn đường sống, thì cháu đã bỏ đi từ lâu rồi! Đằng này cháu chưa từng đi học, người lại yếu xìu, tay khó xách nách khó mang, thím bảo cháu làm được việc gì cơ chứ?” Bà Từ trả lời: “Tìm việc là cái cớ thôi, tìm người mới là thật.” Lưu Tô đáp: “Như thế e là không được, đời cháu coi như chấm dứt từ lâu rồi.” Bà Từ nói: “Câu này, chỉ có người có tiền, không buồn ăn, chẳng buồn mặc, mới có tư cách nói. Không có tiền, muốn chấm dứt cũng không chấm dứt được đâu! Cho dù cháu có xuống tóc làm ni cô, có hóa duyên đi nữa thì vẫn là trần duyên thôi, không tách rời khỏi con người được!” Lưu Tô cúi đầu nín lặng. Bà Từ nói tiếp: “Việc này của cháu, nhờ thím từ hai năm trước chắc đỡ hơn một chút.” Lưu Tô mỉm cười nói: “Chắc thế thím ạ, cháu giờ đã hăm tám rồi!” Bà Từ nói: “Với nhan sắc đẹp như vầy của cháu, hăm tám cũng có là gì, thím sẽ lưu tâm giúp cháu. Mà nói vậy thím lại càng phải trách cháu đấy, ly hôn bảy tám năm rồi, cháu cũng phải có ý định sơm sớm đi một tí, cứ cao chạy xa bay có phải đỡ chuốc bực vào người không!” Lưu Tô đáp: “Thím ơi, thím có phải không biết đâu, gia đình mình thế này, làm gì có chuyện bằng lòng cho cháu ra ngoài giao du với ai? Thôi thì trông cậy vào người trong nhà vậy, nhưng cũng đừng nói là họ không tán thành, dẫu có tán thành đi nữa, thì dưới cháu còn có hai cô em chưa lấy chồng, mấy đứa con gái nhà anh Ba, anh Tư cũng dần phổng phao lên rồi, thu vén cho bọn ấy còn trở tay không kịp nữa là! Thời gian đâu để tâm đến chuyện của cháu đây?”
Bà Từ cười nói: “Nhắc đến chuyện em gái cháu, thím còn đang đợi người ta trả lời đây!” Lưu Tô nói: “Chuyện của em Bảy, có hy vọng gì không thím?” Bà Từ đáp: “Nói cũng có phần rõ ràng rồi. Vừa nãy thím có ý bảo mấy cô tự bàn với nhau, thím bảo thím lên đây thăm cô Sáu rồi xuống ngay; giờ thì phải xuống rồi. Cháu tiễn thím xuống dưới nhà được không?” Lưu Tô đành phải dìu bà Từ xuống gian chính, cầu thang cũ kỹ, bà Từ lại béo, thành thử cứ kêu răng rắc liên hồi. Bước vào gian chính, Lưu Tô định bật đèn lên, bà Từ nói: “Không cần đâu, vẫn nhìn rõ. Họ ngồi trong phòng mé Đông ấy mà. Cháu cứ theo thím, mọi người cười nói vui vẻ cả, sự việc cũng đã qua rồi, bằng không, mai đến bữa cơm thế nào chẳng phải gặp mặt nhau, lúc ấy có mà ngồi ngây ra.” Lưu Tô không thể nghe lọt tai được hai từ “ăn cơm”, trong lòng xót xa, đành gồng cổ lên, cười gượng nói: “Cảm ơn thím... nhưng lúc này người cháu hơi khó chịu, thực sự không thể gặp ai được, chỉ e sẽ hồn xiêu phách lạc, nói năng linh tinh rồi lại gây họa, phụ mất tấm lòng của thím.” Bà Từ thấy Lưu Tô nhất định không chịu gặp mọi người, cũng đành thôi, bèn đẩy cửa vào một mình.
Cửa khép lại, gian chính trở nên tối tăm, hai mảng sáng đèn vàng chiếu qua ô kính phía trên cửa, rơi xuống mặt gạch màu xanh. Dưới thứ ánh sáng mông lung, có thể nhìn thấy trong căn phòng từng dãy hòm sách, tráp gỗ tử đàn có khắc chữ bằng mực xanh được xếp men theo tường từ cao xuống thấp. Ở chính giữa chiếc án cổ, bên trong lồng kính, có đặt một chiếc đồng hồ pháp lam đổ chuông theo giờ, đã dừng chạy nhiều năm vì máy móc bị hỏng từ lâu. Hai bên có đôi câu đối đỏ rực rủ xuống, lấp lánh ánh vàng thếp hoa viền quanh chữ Thọ, mỗi bông hoa đỡ lấy một chữ đại tự nét mực đen thẫm. Dưới ánh sáng yếu ớt, từng chữ từng chữ đều như lơ lửng trong không trung, cách mặt giấy một quãng rất xa. Lưu Tô cảm thấy bản thân mình chính là một con chữ trong đôi câu đối, hư ảo, nhẹ bẫng, chơi vơi. Bạch công quán có một điểm giống như động phủ thần tiên, đó là: ở đây thong thả đi qua một ngày, thì trần thế ngoài kia đã trôi qua cả nghìn năm. Nhưng nơi đây trải qua một nghìn năm, thì đại để chẳng khác gì một ngày, bởi mỗi ngày đều đơn điệu và nhàm chán giống nhau. Lưu Tô đan hai cánh tay lại, ôm lấy cổ mình. Bảy tám năm đã vụt trôi chỉ trong nháy mắt. Cô còn trẻ không? Đâu quan trọng gì, hai năm nữa thôi cô sẽ già, chỗ này tuổi thanh xuân nào có hiếm gì. Họ có đầy tuổi thanh xuân, trẻ con hết đứa này đến đứa khác được sinh ra. Đôi mắt long lanh mới, cái miệng đỏ xinh mới, trí tuệ mới. Cứ mài mòn năm này qua năm khác, đôi mắt cùn đi, con người cùn đi, lớp người sau lại được sinh ra. Lớp người này bị hút vào trong bối cảnh sơn son thếp vàng rực rỡ, một chút xíu sắc vàng nhạt trong đó chính là ánh mắt khiếp sợ của người xưa.
Lưu Tô đột nhiên kêu lên một tiếng, bịt chặt mắt lại, loạng choạng leo lên cầu thang, leo lên cầu thang... lên tới tầng trên, về phòng riêng của mình, cô bật đèn, lao đến trước gương thay áo, ngắm nghía lại mình một hồi. Còn may, cô vẫn chưa già. Người có vóc dáng thon nhỏ trông thường không già, mãi mãi là cái eo thon gầy, là bờ ngực chớm nhú như thời con gái. Khuôn mặt cô, trước đây trắng như sứ, giờ thì từ sứ hóa thành ngọc, thứ ngọc xanh nhạt mờ đục. Cằm cô khi trước tròn trịa, mấy năm gần đây nhọn dần, khuôn mặt lại càng nhỏ, nhỏ đến đáng yêu. Khuôn mặt cô vốn hơi hẹp, nhưng khoảng cách giữa hai lông mày thì rất rộng. Một đôi mắt trong, mọng nước, điệu đà. Trên sân thượng, cậu Tư lại kéo hồ cầm, vẫn là điệu nhạc khi trầm khi bổng, Lưu Tô bất giác nghiêng đầu, hơi đánh mắt, làm mấy động tác múa may. Cùng với màn biểu diễn trước gương của cô, điệu hồ cầm nghe bỗng chẳng giống hồ cầm nữa, mà tựa như vũ khúc trong cung đình được hòa tấu trầm buồn bởi sênh, tiêu, cầm, sắt. Cô bước sang trái mấy bước, rồi bước sang phải mấy bước, mỗi bước đi dường như đều khớp với tiết tấu của điệu nhạc cổ xưa mà nay đã thất truyền ấy. Cô bỗng bật cười, một nụ cười âm trầm, chẳng có ý tốt gì, tiếng nhạc liền im bặt. Điệu hồ cầm ngoài kia lại tiếp tục ngân lên, nhưng câu chuyện mà nó đang kể lại là những chuyện trung hiếu tiết nghĩa xa vời, chẳng liên quan gì đến cô hết.
Lúc này, một mình cậu Tư lánh ở đó kéo hồ cầm, nhưng là bởi bản thân cậu biết rằng trong cuộc họp gia đình ở dưới nhà không có chỗ cho cậu phát ngôn. Sau lúc bà Từ ra về, nhà họ Bạch phải ngồi nghiên cứu, phân tích đề nghị của bà ta. Bà Từ định làm mối cho Bảo Lạc với một người họ Phạm, người này gần đây có qua lại tương đối mật thiết với ông Từ trong công việc khai thác quặng, bà Từ xưa nay rất am tường về gia thế của anh này, cho rằng những điều bà nắm được tuyệt đối đáng tin cậy. Bố của anh chàng Phạm Liễu Nguyên kia là một Hoa kiều có tiếng, ông có nhiều sản nghiệp rải ở các nước Srilanka, Malaysia... Phạm Liễu Nguyên năm nay ba mươi hai tuổi, song thân đã mất. Nhà họ Bạch chất vấn bà Từ, sao một chàng rể đạt tiêu chuẩn như vậy mà đến giờ vẫn độc thân, bà Từ bảo rằng hồi Phạm Liễu Nguyên từ Anh quốc trở về, vô số bà mặt dày mày dạn, đem cả con gái đến nhà, một mực đưa đẩy cho cậu ta, bà nào bà nấy đều rắp tâm ganh đua, thi nhau thể hiện, cũng đình đám một thời gian. Nhưng tung hô cậu ta như vậy, đâm lại khiến cậu ta cao ngạo, từ giờ cứ coi đàn bà con gái như rơm như rác dưới chân. Do hoàn cảnh đặc biệt thời thơ ấu, tính khí cậu ta cũng hơi quái dị. Bố mẹ đến với nhau cũng không phải chính thức gì, một lần ông bố xuất dương đi khảo sát, có quen với một cô đầm Hoa kiều nổi tiếng ở Luân Đôn, hai người đã bí mật kết hôn. Bà vợ lớn ở dưới quê cũng nghe được một chút phong thanh. Vì sợ bà lớn trả thù, cô vợ hai từ đầu chí cuối không dám về nước, thế rồi Liễu Nguyên sinh ra và lớn lên ở Anh. Sau khi ông bố qua đời, tuy bà vợ cả chỉ có hai mụn con gái, nhưng Phạm Liễu Nguyên muốn xác nhận thân phận của anh ta trên phương diện pháp lý cũng chẳng phải chuyện dễ dàng. Anh chàng một thân một mình lưu lạc ở Anh quốc, sau một phen lao khổ, mới nhận được quyền thừa kế. Đến giờ, người nhà họ Phạm vẫn giữ một thái độ thù hằn đối với anh ta, vì vậy anh này chủ yếu sống ở Thượng Hải, chẳng mấy khi quay về quê cũ Quảng Châu. Lúc tuổi còn nhỏ anh chàng bị một vài cú sốc, dần dần cứ đi theo con đường lãng tử, ăn chơi phè phỡn, làm đủ mọi trò, duy chẳng để tâm gì đến hạnh phúc lứa đôi. Mợ Tư liền nói: “Người như vậy chắc là kén cá chọn canh lắm đấy. Cô Bảy nhà mình là con của dòng thứ, chỉ e người ta không để mắt. Bỏ qua hôn sự tốt như vầy thì thật là tiếc quá!” Cậu Ba nói: “Thì thằng ấy cũng là con dòng thứ còn gì.” Mợ Tư nói tiếp: “Nhưng người ta ghê gớm lắm, chứ cứ ngây ngây ngô ngô như cái Bảy nhà mình, có mơ mà giữ nổi? Có khi đứa con gái lớn của tôi lại nhanh nhẹn hơn, chớ coi thường nó, người nhỏ nhưng tâm không nhỏ đâu, rất biết đến đại thể là đằng khác!” Mợ Ba nói: “Thế thì hình như tuổi tác chênh lệch nhau quá nhỉ!” Mợ Tư đáp: “Ối giời! Chị không biết đấy thôi, càng là loại người như thế, lại càng thích những cô trẻ trung ấy chứ. Đứa lớn mà chẳng được, vẫn còn đứa thứ hai cơ mà!” Mợ Ba cười nói: “Đứa thứ hai nhà cô nhỏ hơn anh ta những hai mươi tuổi cơ đấy!” Mợ Tư khẽ kéo mợ Ba một cái, đoạn nghiêm mặt nói: “Chị Ba này, chị đừng có hồ đồ như thế! Chị đỡ cho cái Bảy, nó là gì của nhà họ Bạch cơ chứ? Anh em cách nhau một lớp dạ con, còn xa khướt. Đã gả đi rồi thì đừng ai mong hưởng được lợi lộc gì từ nó! Tôi đây đều là nghĩ cho mọi người thôi!” Thế nhưng bà Bạch vẫn một lòng một dạ sợ họ hàng bàn ra tán vào, bảo bà ngược đãi cô Bảy vốn đã mồ côi mẹ, nên quyết định giữ nguyên kế hoạch ban đầu, bà Từ sẽ chọn ngày lành tháng tốt mời khách đến, giới thiệu Bảo Lạc cho Phạm Liễu Nguyên.
Bà Từ làm một công đôi việc, cùng lúc lại tìm cho Lưu Tô một anh họ Khương, làm ở Hải quan, vợ mới mất, để lại năm đứa con, anh này cũng muốn mau tục huyền, bà Từ thì dự định thu xếp việc của Bảo Lạc xong, sẽ tác hợp cho Lưu Tô, bởi Phạm Liễu Nguyên chẳng bao lâu nữa sẽ đi Tân Gia Ba[1]. Về việc tái giá của Lưu Tô, nhà họ Bạch chỉ coi đó là một trò cười, nhưng vì muốn đẩy Lưu Tô ra khỏi nhà, cũng chẳng còn cách nào, đành để lặng yên mặc cho bà Từ thu vén. Vì hôn sự của Bảo Lạc, nhà họ Bạch rối nhặng cả lên, quay như chong chóng. Cùng là hai đứa con gái, một đằng thì rôm rả tưng bừng, một đằng thì úi xùi lạnh nhạt, so ra thật khiến người ta khó xử. Bà cụ Bạch gắng thu gom hết các đồ trang sức bằng vàng bạc đá quý của cả nhà lại, thứ nào có thể đeo được lên người Bảo Lạc thì đều đeo cả lên. Vuông vải tơ tằm của con gái nhà cậu Ba được mẹ nuôi tặng hôm sinh nhật, cũng bị bà cụ ép mợ Ba phải đem ra may xường xám cho Bảo Lạc. Tài sản riêng của bà Bạch tích góp bao năm, phần nhiều là đồ da, mùa hè không thể mặc được, đành phải đi cầm một chiếc áo khoác lông chồn, dùng chỗ tiền ấy đi sửa mấy món đồ trang sức theo kiểu dáng tân thời. Nào là khuyên tai trân châu, vòng tay thúy ngọc, nhẫn lục bảo, chẳng cần kể ra cũng có thể biết Bảo Lạc được trang điểm lộng lẫy đến thế nào.
Đến hôm đó, bà Bạch cùng cậu Ba, mợ Ba, cậu Tư, mợ Tư đương nhiên đều phải đi. Bảo Lạc gián tiếp nghe được âm mưu của mợ Tư, trong lòng thực sự khó chịu, cố ý không cùng xuất hiện với hai đứa con gái của mợ Tư, nhưng lại cũng ngại nói là không cần bọn nó, bèn cố sống cố chết lôi Lưu Tô đi cùng. Một chiếc xe con đen sì ngồi những bảy con người, quả thực không tài nào nhét thêm được nữa, hai đứa con của mợ Tư là Kim Chi, Kim Thiền liền bị gạt ra một cách thảm thương. Họ đi từ năm giờ chiều, đến mười một giờ đêm mới về đến nhà. Kim Chi, Kim Thiền trong dạ thấp thỏm, sao đành lòng ngủ? Chúng chong chong đôi mắt chờ họ trở về, nhưng lại thấy cả bọn im như hạt thóc. Bảo Lạc xị mặt đi vào trong phòng bà, ào ào rũ xuống tất cả mọi thứ cài cắm trên người, trả lại cho bà cụ Bạch, chẳng nói chẳng rằng, lẳng lặng quay về phòng. Kim Chi, Kim Thiền kéo mợ Tư ra sân thượng, luôn mồm dò hỏi tình hình thế nào. Mợ Tư nổi giận nói: “Cũng chẳng thấy con gái nhà nào như chúng mày, có phải mình đi lấy chồng đâu, ai bắt phải nhiệt tình sốt sắng như thế!” Mợ Ba theo ra sân thượng, thẽ thọt nói: “Lời của thím đừng để người khác cả nghĩ!” Mợ Tư liền chĩa thẳng về phía phòng của Lưu Tô nói lớn: “Tôi chỉ chó mắng mèo đấy, tôi chửi nó đấy, làm sao nào? Có phải ngàn năm vạn đại chưa từng gặp đàn ông đâu, sao vừa ngửi thấy mùi giai là mê mẩn như con điên thế?” Kim Chi, Kim Thiền nghe mẹ chửi, chẳng biết đầu đuôi mô tê thế nào, mợ Ba cố gắng giữ cho mẹ chúng bình tĩnh lại, rồi nói với hai đứa: “Mọi người thoạt đi xem phim trước.” Kim Chi ngạc nhiên hỏi: “Xem phim ạ?” Mợ Ba nói: “Thế mới lạ chứ, rõ là đi xem người, nhưng lại chúi vào ngồi trong bóng tối, chẳng thấy cái gì cả. Sau đó bà Từ bảo với bác đó là chủ trương của tiên sinh họ Phạm kia, anh ta ngồi xét nét ở đó. Anh này muốn người ta ngồi đó hai ba tiếng, cho mặt ra mồ hôi, son phấn bợt đi, để trông cho rõ hơn. Nhưng đó là bà Từ đoán vậy. Chứ như bác thấy, tay họ Phạm từ đầu chí cuối rõ là không có thành ý. Hắn muốn xem phim, là vì lười tiếp chuyện với chúng ta. Xem xong phim, hắn chẳng muốn chuồn luôn còn gì?” Mợ Tư sốt sắng nói chêm vào: “Làm gì có chuyện, vụ việc hôm nay lúc đầu thì rất êm thấm, nếu không phải người trong nhà mình gây rối từ bên trong, thì chắc chắn quá bán đã thành!” Kim Chi, Kim Thiền đồng thanh hỏi: “Sau đó thì sao hở bác Ba, sao đó sao ạ?” Mợ Ba trả lời: “Sau đó bà Từ kéo hắn ta lại, muốn mọi người đi ăn cùng nhau. Hắn bảo hắn mời.” Mợ Tư vỗ tay nói: “Ăn thì ăn, nhưng biết rõ cô Bảy nhà ta không biết khiêu vũ, vào vũ trường rồi ngồi suông ở đấy, tính thế mà tính à? Không phải tôi nói, nhưng việc này phải trách anh Ba đấy, anh ấy cũng là người hay chạy ở bên ngoài, nghe tay họ Phạm dặn thằng lái xe đưa đến vũ trường mà cũng chẳng ngăn lấy một câu!” Mợ Ba vội đáp: “Thượng Hải có lắm nhà hàng như thế, anh ấy làm sao biết được nhà hàng nào có vũ trường, nhà hàng nào không? Anh ấy không so được với người nhàn nhã như chú Tư đâu, làm gì có có nhiều thời gian đi điều tra mấy thứ đó!” Kim Chi, Kim Thiền vẫn muốn dò nghe câu chuyện về sau, mợ Ba bị mợ Tư ngắt lời mấy lần, tụt hết cả hứng. Chỉ nói: “Sau đó thì ăn cơm, ăn xong cơm rồi về.”
Kim Thiền nói: “Vậy Phạm Liễu Nguyên là người thế nào?” Mợ Ba đáp: “Bác đâu biết được? Tổng cộng cũng chẳng nghe hắn ta nói được ba câu.” Đoạn lại trầm tư một lát, rồi nói: “Nhưng khiêu vũ kể cũng không tồi nhỉ!” Kim Chi ‘ồ’ lên một tiếng, nói: “Anh ta khiêu vũ với ai vậy ạ?” Mợ Tư cướp lời nói trước: “Lại còn ai vào đây nữa, chẳng phải là cái cô Sáu của mày! Những người có lễ giáo, không được phép học khiêu vũ, chỉ có cái con ấy sau khi lấy chồng mới học được cái trò này từ thằng chồng vô tích sự kia thôi! Đúng là không biết xấu hổ, người ta hỏi mình, mình nói là không biết nhảy có phải là xong rồi không? Không biết cũng đâu phải việc gì đáng thẹn. Như bác Ba con, như mẹ, đều là tiểu thư con nhà cao quý, sống hơn nửa đời người rồi, trên đời có việc gì mà chưa từng trải? Nhưng chúng ta cứ không biết nhảy đấy đã sao!” Mợ Ba thở dài nói: “Nhảy một lần, thôi thì bảo là giữ thể diện cho người ta, nhưng lại còn nhảy lần hai, nhảy lần ba nữa!” Kim Chi, Kim Thiền nghe đến đây, bất giác há mồm cứng lưỡi. Mợ Tư lại lẩm bẩm chửi về phía bên kia: “Bị đống mỡ lợn chẹn óc rồi, đừng có tưởng phá hoại việc của em mình là có hy vọng, cô quên cái ý nghĩ đó đi! Người ta hàng bao nhiêu tiểu thư còn chẳng lọt mắt, nó lại thèm cái loại hoa tàn liễu rạc nhà cô ấy hả?”
Lưu Tô và Bảo Lạc ở trong cùng một phòng, Bảo Lạc đã lên giường đi ngủ, còn Lưu Tô thì ngồi xổm lần mò thắp hương muỗi, những lời trên sân thượng cô nghe rõ mồn một, nhưng lần này cô lại hết sức bình tĩnh. Cô đánh diêm, ngắm nhìn que diêm bốc cháy, lá cờ tam giác bé con rực lửa, phập phù trong làn gió tự dịch chuyển, dịch chuyển đến rìa ngón tay cô, cô thổi phù một cái dập tắt nó, chỉ còn lại một đoạn cán cờ cháy đỏ tí hon, rồi cán cờ cũng khô quắt lại, rủ xuống bóng ma xám xịt co quắp. Cô vứt que diêm đã cháy hết vào trong khay hương. Chuyện xảy ra hôm nay, cô không hề cố ý, song bất luận thế nào, cô cũng đã cho bọn họ trắng mắt. Họ tưởng đời cô đã hết rồi sao? Còn sớm chán! Cô mỉm cười. Trong lòng Bảo Lạc chắc chắn cũng đang chửi cô, thậm chí chửi còn khó nghe hơn những lời của mợ Tư. Nhưng cô biết tuy Bảo Lạc hận cô, song cô bé cũng phải nhìn lại chị mình với một thái độ kính cẩn. Một người con gái, dẫu có tốt đẹp hơn nữa, nếu đã không có được tình yêu của người khác giới, cũng sẽ không có được sự tôn trọng của những người đồng giới. Ở điểm này, đàn bà con gái nhỏ mọn như vậy đấy.
Phạm Liễu Nguyên có thật lòng thích cô không? Điều này cũng chưa chắc. Những lời anh ta nói với cô, một câu cô cũng chẳng tin được. Cô nhận ra cái thói quen nói dối phụ nữ của anh ta, cô không thể không thận trọng - bởi cô là người tứ cố vô thân, cô chỉ có mỗi mình cô thôi. Chiếc xường xám cánh ve màu nguyệt bạch cô vừa cởi ra được mắc trên giá. Cô khom người ngồi xuống, ôm lấy phần gối của chiếc xường xám, trang trọng áp mặt lên. Khói xanh từ cây hương muỗi chờn vờn từng lọn, bốc thẳng vào trong óc. Trong mắt cô, nước mắt lấp lánh như sao.
Mấy hôm sau, bà Từ lại đến Bạch công quán. Mợ Tư đã dự đoán trước từ lâu, bảo rằng: “Bà cô Sáu nhà chúng ta phá đám như vậy, chắc việc của con bé Bảy hỏng rồi. Bà Từ chẳng lẽ không giận sao? Bà Từ đã trách bà cô Sáu, liệu còn chịu giới thiệu cho nó không? Như thế gọi là trộm gà không xong mất nắm thóc đấy!” Bà Từ quả nhiên không hề hăng hái như trước, mà lại vòng vo giải thích vì sao hai hôm nay bà không đến nhà chơi. Rằng ông nhà có việc quan trọng phải đi Hồng Kông thương thuyết, nếu như mọi việc thuận lợi, dự định sẽ thuê nhà ở Hồng Kông, ở lại đó cỡ sáu tháng nửa năm, cho nên hai hôm nay bà bận thu dọn hành lý, chuẩn bị đi cùng ông ấy. Còn việc của Bảo Lạc, anh họ Phạm kia đã không còn ở Thượng Hải nữa rồi, đành tạm thời gác lại đã. Người định giới thiệu cho Lưu Tô là anh họ Khương kia, bà Từ thăm dò được, thì ra anh này đã có người rồi, nếu muốn tách họ ra, cũng hơi phiền phức. Theo lời bà Từ thì loại người này không đáng tin cậy, coi như bỏ qua. Mợ Ba, mợ Tư nghe được lời này, đôi bên đều đánh mắt với nhau, nhếch mép cười khẩy.
Bà Từ tiếp sau đó cau mày nói: “Ông nhà tôi có không ít bạn bè ở Hồng Kông, chỉ tiếc là nước xa không cứu được lửa gần... cô Sáu mà có thể đến đó một chuyến, có khi sẽ nhiều cơ hội hơn. Hai năm nay, người Thượng Hải ở Hồng Kông, cứ gọi là nhân tài tề tựu. Người Thượng Hải đương nhiên là thích người Thượng Hải, cho nên những cô tiểu thư đồng hương nghe nói rất được chào đón ở bên đó. Cô Sáu sang Hồng Kông, lo gì không có người tương xứng? Ở đó cứ gọi là vốc được cả nắm rồi tha hồ chọn!” Mọi người cảm thấy bà Từ rất khéo ăn nói. Hai hôm trước còn ầm ĩ vụ làm mai làm mối, thoắt một cái bỗng dưng im tịt, ngay bản thân bà Từ sau đó cũng khó xử, giờ lại đánh trống lảng, nói mấy câu đãi bôi, bà cụ Bạch nghe xong liền thở dài nói: “Đi Hồng Kông một chuyến, nói sao dễ thế! Riêng cái chuyện...” Không ngờ bà Từ liền cắt ngang lời bà cụ bằng một giọng rất sảng khoái: “Cô Sáu mà đồng ý đi, em sẽ mời cháu nó đi, em đã nhận lời giúp đỡ cháu, em sẽ giúp đến cùng.” Mọi người ngơ ngác quay sang nhìn mặt nhau, ngay cả Lưu Tô cũng thấy sững sờ. Cô đoán lúc đầu bà Từ nhiệt tình bảo sẽ làm mối cho mình, chắc là vì lòng trượng nghĩa nhất thời, bà đồng cảm với cảnh ngộ của mình thật. Vì cô mà bà ấy phải chạy đi chạy lại tìm kiếm người này người khác, lại bày cả tiệc rượu mời anh họ Khương, mối giao tình này hẳn là có thật. Nhưng đằng này là bỏ tiền bao cô đi Hồng Kông, mà số tiền đâu có nhỏ. Vì sao bà Từ không dưng lại chi cho cô một đống tiền như vậy? Người tốt trên đời này tuy nhiều, nhưng chẳng có mấy kẻ ngốc tình nguyện chi tiền để làm người tốt. Bà Từ chắc chắn có mưu đồ gì, lẽ nào lại là quỷ kế của Phạm Liễu Nguyên? Bà Từ từng nói chồng bà và Phạm Liễu Nguyên có quan hệ mật thiết trong việc làm ăn, hai vợ chồng này chắc rất nhiệt tình nịnh bợ anh ta đây. Hy sinh một người bà con cô quả không mấy liên quan đến mình để xu nịnh kẻ khác, cũng là việc có thể xảy ra. Thấy Lưu Tô đứng đó suy nghĩ miên man, bà cụ Bạch liền bảo: “Vậy không được, dù sao cũng không thể để bà...” Bà Từ cười khì khì nói: “Không sao đâu, chuyện vặt ấy mà, em làm được! Vả lại, em còn nhờ cô Sáu giúp vài việc. Em lôi hai đứa trẻ con đi theo, huyết áp em lại cao, không thể mệt quá, trên đường đi có cô Sáu, dù sao cũng hỗ trợ được. Em không coi cháu nó là người ngoài, sau này cũng phải nhờ cháu nó vất vả thêm nữa là!” Bà cụ Bạch khách sáo thay Lưu Tô một hồi. Bà Từ quay đầu lại, hỏi thẳng Lưu Tô: “Vậy Lưu Tô này, cháu cứ đi với chú thím một chuyến đi! Cho dù là đi chơi, cũng đáng mà!” Lưu Tô cúi đầu, mỉm cười đáp: “Thím đối xử với cháu tốt quá!” Cô lập tức suy tính, chuyện với anh họ Khương đã vô vọng, sau này dù có người làm mối giúp cô, cũng bất quá là tìm được người tầm tầm như anh họ Khương thôi, có khi còn chẳng bằng nữa. Bố của Lưu Tô là một tay cờ bạc có tiếng, cũng vì cờ bạc mà khuynh gia bại sản, là người đầu tiên dẫn dắt cả nhà họ đi vào con đường lụn bại. Bàn tay của Lưu Tô chưa từng chạm vào con xúc xắc hay quân bài mạt chược, nhưng cô cũng thích cờ bạc, cô quyết định đặt cược tương lai của mình. Nếu cô thua, cô sẽ thân bại danh liệt, không còn tư cách làm mẹ kế của năm đứa trẻ nữa. Nếu như đánh thắng, cô có thể giành được Phạm Liễu Nguyên, người mà biết bao kẻ luôn nhìn thèm muốn, để xả một bầu tức giận bấy lâu trong lòng cô.
Cô nhận lời bà Từ, nội trong một tuần bà Từ sẽ lên đường. Lưu Tô bèn sửa soạn hành lý. Tuy cứ bảo chẳng có đồ đạc gì nhiều, không cần thu xếp, nhưng cũng vẫn nhì nhằng mất mấy ngày. Bán mấy món đồ lặt vặt lấy ít tiền, may thêm mấy bộ quần áo. Bà Từ trăm công ngàn việc nhưng vẫn tranh thủ thì giờ làm cố vấn cho Lưu Tô. Việc bà Từ vun vén cho Lưu Tô như vậy, người của Bạch công quán rất để ý, dần dần cũng thấy hứng thú với Lưu Tô, ngoài chuyện nghi ngờ cô ra, họ cũng có mấy phần e ngại, sau lưng thì bàn tán xôn xao, trước mặt thì không còn chửi thẳng mặt như trước nữa, thi thoảng cũng gọi một tiếng “em Sáu”, “cô Sáu”, “tiểu thư Sáu”, chỉ sợ cô được gả cho tay tỉ phú Hồng Kông nào thật, sau này áo gấm về làng, mọi người cũng phải chường ra cái chỗ để nhìn mặt nhau, chẳng dám đắc tội với cô.
Ông bà Từ mang theo con nhỏ cùng đáp xe đến đón Lưu Tô lên tàu, ngồi khoang hạng nhất của một con tàu Hà Lan. Tàu nhỏ, rung lắc dữ, ông bà Từ vừa lên tàu đã ngủ vật ra, nôn ọe liên hồi, hai đứa trẻ con bên cạnh thì gào khóc quấy suốt, thành ra Lưu Tô phải phục vụ nhà họ đến mấy hôm trời. Dọc đường vất vả, mãi tàu mới cập bến, bấy giờ cô mới có cơ hội lên boong ngắm biển, đó là một buổi chiều đỏ rát, nhìn ra xa, thứ bắt mắt nhất là những tấm biển quảng cáo cỡ lớn xung quanh bến tàu, nào đỏ, nào hồng, nào da cam, tất cả đều in trên nền biển xanh ngắt, từng sọc từng sọc, từng vầng từng vầng, những sắc đối lập đầy kích thích, mảng trồi lên mảng hằn xuống. Lưu Tô nghĩ bụng, nếu có sảy chân ngã ở cái thành phố phô trương này, e là sẽ đau hơn ngã ở nơi khác, nghĩ tới đó trong lòng bỗng thấp thỏm không yên. Chợt cảm thấy có người chạy tới ôm chầm lấy chân mình, suýt bị xô ngã, Lưu Tô giật thót mình, quay lại nhìn, thì hóa ra là đứa con của bà Từ, cô vội định thần lại, qua giúp bà Từ thu xếp mọi thứ, ai ngờ ngót mười kiện hành lý với hai đứa bé con, không sao chịu quy về một chỗ, hành lý đủ thì thoắt một cái lại thiếu đứa trẻ con, Lưu Tô tất tưởi chạy đi chạy lại, chẳng buồn ra xem cảnh biển nữa.
Lên bờ, họ liền gọi hai xe taxi chở đến khách sạn ở Vịnh Nước Nông. Chiếc xe chạy ra khỏi khu chợ ồn ào, băng qua đồi núi, đi hơn tiếng đồng hồ, dọc đường chỉ thấy rặt những sườn đất vàng, đất đỏ, ở những chỗ hổng trên sườn đất lộ ra lùm cây rậm rạp, lộ ra bờ biển xanh lam. Gần tới Vịnh Nước Nông, cũng vẫn là những sườn đất và lùm cây như thế, nhưng dần tươi sáng hơn. Rất nhiều người đi chơi núi trở về, đáp xe đi vụt qua xe họ, xe nào cũng chở đầy hoa, gió thổi bạt đi những tiếng cười rộn rạo.
Đến trước cửa khách sạn, song không thấy khách sạn đâu. Họ xuống xe, bước trên những bậc đá rộng rãi, lên tới một khoảng đất trống nhô cao, xung quanh cây cỏ xác xơ, mới thấy ở quãng cao hơn nữa có hai ngôi nhà màu vàng. Ông Từ đã đặt phòng từ trước, những người phục vụ dắt họ men theo con đường đá cuội đi lên, bước vào trong nhà ăn vàng vọt, đi ngang qua dãy hành lang vàng vọt, đi lên tầng hai, rẽ ngoặt sang liền có một cánh cửa thông ra ban công nhỏ, dựng giàn hoa đậu tía, một nửa vách đón lấy nắng chiều. Ngoài ban công có hai người đang đứng trò chuyện, chỉ thấy một người con gái đứng quay lưng vào họ, buông xõa mái tóc dài đen nhánh chấm đến mắt cá chân, trên mắt cá chân là một chiếc vòng hoa đay bằng vàng, để chân trần, phía dưới cũng không thấy rõ có đi dép hay không, chỉ biết phía trên hơi lộ ra một đoạn quần bó ống kiểu Ấn Độ. Người đàn ông bị che khuất bởi phụ nữ kia, bất chợt thốt lên một tiếng: “Ôi! Bà Từ!” Nói xong liền bước tới chào hỏi, rồi gật đầu mỉm cười với Lưu Tô. Lưu Tô trông thấy Phạm Liễu Nguyên, tuy đã sớm lường được việc này, con tim vẫn không tránh khỏi loạn nhịp. Người phụ nữ ngoài ban công trong nháy mắt đã mất hút. Liễu Nguyên đi cùng họ lên lầu. Dọc đường mọi người không ngừng tỏ vẻ ngạc nhiên lẫn vui sướng như thể gặp lại cố nhân nơi đất khách quê người. Anh chàng Phạm Liễu Nguyên này tuy chưa đủ để gọi là đẹp trai, nhưng sự thô ráp tạo nên nét phong độ của anh ta. Vợ chồng ông Từ sai bảo đám phục vụ vận chuyển hành lý, Liễu Nguyên và Lưu Tô bước đi ở phía trước, Lưu Tô mỉm cười hỏi: “Anh Nguyên không phải đi Tân Gia Ba nữa à?” Liễu Nguyên khẽ trả lời: “Tôi ở đây đợi em mà.” Lưu Tô không ngờ anh ta lại thẳng thắn như vậy, liền không tiện hỏi thêm, chỉ sợ nói trắng ra không phải bà Từ mời cô đến Hồng Kông mà do anh ta mời, bản thân cô sẽ chẳng có chỗ nào lui bước, vì vậy đành coi như anh ta nói đùa, chỉ nhoẻn miệng cười một cái.
Liễu Nguyên hỏi thăm, biết phòng cô là phòng 130, bèn đứng lại nói: “Đến rồi!” Người phục vụ rút chìa khóa ra mở cửa, Lưu Tô vừa vào phòng liền đi thẳng đến bên cửa sổ, cả căn phòng giống như một khung tranh vàng sạm, khảm vào trong cửa sổ một bức tranh lớn. Sóng biển cuồn cuộn, bắn thẳng lên cửa sổ phòng Lưu Tô, khiến viền bức rèm nhuốm cả màu xanh lam. Liễu Nguyên nói với người phục vụ: “Đặt hòm ở trước tủ ấy!” Lưu Tô nghe thấy tiếng anh ta nói ở ngay bên tai, bất giác giật mình, quay mặt lại, người phục vụ đã ra khỏi phòng, nhưng cửa phòng chưa đóng. Liễu Nguyên tựa vào cửa sổ, đưa một cánh tay ra chống lên song cửa, che khuất ánh mắt của Lưu Tô, chỉ chăm chăm nhìn cô mỉm cười. Lưu Tô cúi đầu xuống. Liễu Nguyên cười nói: “Em biết không? Sở trường của em là cúi đầu.” Lưu Tô ngẩng đầu lên cười nói: “Gì cơ? Tôi không hiểu.” Liễu Nguyên đáp: “Có người giỏi nói chuyện, có người lại giỏi cười, có người giỏi quản việc nhà, còn em thì giỏi cúi đầu.” Lưu Tô nói: “Tôi chẳng giỏi gì đâu, tôi là người vô dụng lắm.” Liễu Nguyên cười nói: “Người đàn bà vô dụng lại là người đàn bà ghê gớm nhất đấy!” Lưu Tô cười, bước sang một bên nói: “Không nói chuyện với anh nữa, sang phòng bên cạnh xem sao đã!” Liễu Nguyên đáp: “Phòng bên cạnh? Phòng tôi hay phòng bà Từ?” Lưu Tô lại giật mình nói: “Anh ở phòng kế bên ạ?” Liễu Nguyên nói đỡ hộ cô: “Phòng tôi loạn xị bát nháo lắm, không thể để ai trông thấy được.”
Anh ta gõ cửa phòng 131, bà Từ mở cửa để họ vào, rồi nói: “Sang bên tôi uống trà đi, phòng chúng tôi có gian phòng khách con.” Đoạn liền bấm chuông gọi mấy món điểm tâm ăn kèm với trà lên. Ông Từ ở trong phòng ngủ bước ra nói: “Tôi vừa gọi điện cho ông Chu, ông này cứ nhặng lên đòi tiếp đón, mời mọi người chúng ta tới khách sạn Hồng Kông. Hôm nay ấy!” Đoạn nói riêng với Liễu Nguyên: “Có cả chú nữa!” Bà Từ nói: “Ông có nhã hứng thật đấy, say tàu mấy ngày giời, còn không tranh thủ nghỉ ngơi? Bữa tối nay thôi bỏ đi.” Liễu Nguyên cười đáp: “Khách sạn Hồng Kông là vũ trường cổ điển nhất tôi từng thấy. Từ kiến trúc, ánh đèn, cách bố trí, cho đến dàn nhạc đều theo kiểu cũ của Anh quốc, bốn năm chục năm trước là thời thượng lắm đấy, nhưng giờ thì không sốc mấy nữa rồi. Quả thực không có gì đáng xem nữa, trừ phi là mấy thằng Tây quái đản, giữa trời nóng bức, bắt chước theo người phương Bắc quấn vải quanh chân...” Lưu Tô nói: “Vì sao vậy?” Liễu Nguyên trả lời: “Cảm nhận tâm hồn Trung Hoa ấy mà!” Ông Từ cười nói: “Đã đến đây rồi, dù gì cũng phải đi xem xem, chú chịu khó đi theo vậy!” Liễu Nguyên cười đáp: “Em không dám nói chắc đâu, đừng đợi em.” Lưu Tô thấy anh này có vẻ không muốn đi, ông Từ lại không phải là người năng tới vũ trường, hiếm khi nào vui vẻ như thế, dường như thật lòng muốn giới thiệu bạn bè cho cô, cô lại bắt đầu thấy ngờ vực.
Song tối hôm ấy, toán người tới đón tiếp họ trong khách sạn Hồng Kông đều là những ông bà có đôi có cặp, mấy cậu con trai chưa vợ toàn là thanh niên độ đôi mươi. Lưu Tô đang nhảy, Phạm Liễu Nguyên bỗng nhiên xuất hiện, đón cô từ tay một người đàn ông khác, trong ánh đèn màu đỏ lệ chi, cô không nhìn rõ được khuôn mặt tối tăm của anh, chỉ cảm thấy anh trầm mặc một cách lạ thường. Lưu Tô cười nói: “Sao anh không nói gì vậy?” Liễu Nguyên cười đáp: “Những lời có thể nói trước mặt, tôi đều nói hết cả rồi.” Lưu Tô cười phì một tiếng, nói: “Lén lén lút lút, có lời gì phải nói sau lưng người khác sao?” Liễu Nguyên đáp: “Có mấy lời ngốc nghếch, không những phải nói sau lưng người khác, mà còn phải nói sau lưng mình nữa. Bản thân mình nghe thấy cũng cảm thấy ngượng. Ví như muốn nói, tôi yêu em, tôi cả đời này yêu em chẳng hạn.” Lưu Tô ngoảnh mặt đi, khẽ xì một tiếng: “Lại có những lời nhảm nhí vậy à!” Liễu Nguyên đáp: “Không nói thì lại trách tôi không nói gì, nói rồi lại chê tôi nói nhảm!” Lưu Tô cười: “Tôi hỏi anh, vì sao anh không muốn tôi tới vũ trường nhảy?” Liễu Nguyên đáp: “Đàn ông thông thường đều thích dạy cho đàn bà hư đi, sau đó lại thích cảm hóa người đàn bà hư, khiến người ta trở thành đàn bà ngoan. Tôi thì chẳng làm những việc rỗi hơi như thế. Tôi nghĩ đàn bà ngoan cứ thật thà một chút thì tốt.” Lưu Tô liếc nhìn anh ta nói: “Anh tưởng anh không giống với người khác sao? Tôi thấy anh cũng ích kỷ giống họ thôi.” Liễu Nguyên cười nói: “Ích kỷ thế nào nhỉ?” Lưu Tô nghĩ bụng: “Người đàn bà lý tưởng nhất của anh là người đàn bà vừa trong trắng thanh lịch lại vừa cợt nhả. Trong trắng thanh lịch là đối với người ngoài. Cợt nhả là đối với bản thân anh. Nếu tôi là người đàn bà ngoan hẳn, anh chắc chắn sẽ chẳng để ý đến đâu!” Cô nghiêng đầu cười với Liễu Nguyên: “Anh muốn tôi là một người đàn bà ngoan trước mặt người ngoài, và làm một người đàn bà hư hỏng trước mặt anh.” Liễu Nguyên ngẫm nghĩ một lát rồi nói: “Không hiểu!” Lưu Tô giải thích lại: “Anh muốn tôi xấu với người khác, chỉ tốt với mình anh.” Liễu Nguyên cười nói: “Sao lại đảo ngược lại vậy? Càng nói càng khiến người ta lú lẫn đây này!” Anh ta lại trầm ngâm một lúc rồi nói: “Câu em nói không đúng.” Lưu Tô cười đáp: “Ồ! Anh đã hiểu rồi!” Liễu Nguyên nói: “Em tốt cũng được, xấu cũng xong, tôi không muốn em thay đổi. Khó có thể gặp được một người phụ nữ Trung Hoa đích thực như em.” Lưu Tô khẽ thở dài nói: “Tôi chỉ là một người lỗi thời mà thôi.” Liễu Nguyên nói: “Người phụ nữ Trung Hoa đích thực là người phụ nữ đẹp nhất trên đời, vĩnh viễn không bao giờ lỗi thời.” Lưu Tô cười đáp: “Một người kiểu mới như anh...” Liễu Nguyên nói: “Con người kiểu mới mà em nói, chắc là chỉ người theo kiểu Tây. Tôi quả không thể được coi là một người Trung Hoa thực sự, mãi đến mấy năm gần đây tôi mới dần dần được Hoa hóa thôi. Nhưng em biết đấy, người nước ngoài nào bị Hoa hóa, một khi đã bảo thủ, thì còn bảo thủ hơn bất kỳ ông đồ Nho nào.” Lưu Tô cười đáp: “Anh bảo thủ, tôi cũng bảo thủ. Anh đã từng nói, khách sạn Hồng Kông là vũ trường bảo thủ nhất...” Họ cùng bật cười, tiếng nhạc cũng vừa vặn ngừng lại. Liễu Nguyên dìu cô quay lại chỗ ngồi, mỉm cười nói với mọi người: “Bạch tiểu thư hơi đau đầu, tôi xin đưa cô ấy về trước!” Lưu Tô không ngờ anh ta lại có chiêu này, nhất thời không nghĩ ra cách nào đối phó, lại không muốn đắc tội với anh ta, vì mối giao tình còn chưa đủ sâu sắc, chưa đến mức độ có thể cãi nhau được, đành phải để anh ta khoác áo choàng giùm mình, rồi xin lỗi mọi người, cùng nhau ra về.
Họ quay ra liền gặp ngay một tốp các quý ông lịch lãm, vây quanh một người phụ nữ, cảnh tượng trông như muôn sao chầu nguyệt. Lưu Tô thoạt tiên chú ý đến mái tóc dài đen bóng của cô gái kia, tết thành hai dải đuôi sam lớn, quấn cao quanh đầu. Người phụ nữ Ấn Độ đó vẫn mang đậm chất phương Đông, mặc dù lần này cô ta đã ăn vận theo kiểu phương Tây. Dưới lớp áo khoác màu đen bằng lụa mỏng, cô ta mặc một chiếc áo dài bó màu vàng, che kín tay, chỉ để lộ ra những chiếc móng lóng lánh. Cổ áo khoét hình chữ V cực hẹp, kéo thẳng xuống phần eo, đó là kiểu dáng mới nhất ở Ba Lê[2], có tên gọi là “một sợi chỉ”. Da mặt cô ta vàng và trơn bóng, giống như tượng Quan âm Bồ tát được mạ vàng, song trong đôi mắt to và trĩu nặng của cô ta lại ẩn giấu loài quỷ quái. Chiếc mũi thẳng theo kiểu cổ điển, có điều hơi quá nhọn và quá mỏng. Đôi môi nhỏ hồng nhưng dày lên như bị sưng tấy. Liễu Nguyên đứng sững lại, hơi khom lưng chào cô ta. Lưu Tô đứng đó nhìn, cô ta cũng ngang nhiên nhìn lại, đôi mắt kiêu căng kia như đang đứng cách xa mấy nghìn dặm nhìn về. Liễu Nguyên bèn giới thiệu nói: “Đây là Bạch tiểu thư. Còn đây là công chúa Sahetini.” Lưu Tô bất giác tỏ thái độ kính cẩn. Sahetini đưa một bàn tay lại, chạm nhẹ đầu ngón tay vào tay Lưu Tô, rồi hỏi Liễu Nguyên: “Bạch Tiểu thư đây cũng đến từ Thượng Hải à?” Liễu Nguyên gật đầu. Sahetini mỉm cười nói: “Cô ấy không giống người Thượng Hải lắm nhỉ.” Liễu Nguyên cười đáp: “Vậy giống người ở đâu?” Sahetini chống ngón tay trỏ lên má, ngẫm nghĩ một lúc rồi xòe mười đầu ngón tay cong vút lên, ra bộ đã cố gắng hình dung nhưng vẫn không hình dung ra được, đoạn nhún vai cười, bước vào phía trong. Liễu Nguyên đưa Lưu Tô đi tiếp ra ngoài, tuy Lưu Tô không biết tiếng Anh, nhưng nhìn sắc mặt, cô cũng đã hiểu. Cô bèn cười nói: “Tôi vốn là người nhà quê mà.” Liễu Nguyên đáp: “Tôi ban nãy chẳng đã nói với em rồi, em là người Trung Hoa chính cống, vậy đương nhiên là khác với người Thượng Hải trong ấn tượng của cô ta.”
Cả hai người ngồi lên xe, Liễu Nguyên lại nói: “Em đừng có nhìn bộ dạng quý phái của cô ta. Cô ta ra ngoài khoe mẽ rằng mình là con gái ruột của vương công Kelihina Kerampa, chỉ vì vương phi bị thất sủng, được ban cho chết, nên cô ta cũng bị trục xuất khỏi biên giới, cứ lang bạt mãi, không về nước được. Thực ra, việc không thể về nước là có thật, những việc còn lại thì chẳng có ai có thể chứng thực được.” Lưu Tô nói: “Cô ấy đến Thượng Hải lần nào chưa?” Liễu Nguyên đáp: “Người ta cũng có tiếng ở Thượng Hải lắm đấy. Sau theo một ông người Anh đến Hồng Kông. Em thấy cái lão già đứng sau lưng cô ta không? Hiện tại ông này đang nuôi cô ta.” Lưu Tô cười nói: “Đàn ông các anh là vậy đấy. Trước mặt ai cũng chẳng tâng bốc, sau lưng thì nói cô ấy không ra gì. Một ả góa bụa nghèo nàn như tôi, xét về thân phận còn chẳng bằng cô ấy, chẳng biết đối với người ngoài anh sẽ nói gì về tôi nữa!” Liễu Nguyên cười đáp: “Ai dám một hơi nhắc tên hai cô cùng lúc?” Lưu Tô bĩu môi nói: “Chắc là vì tên của cô ấy dài quá. Nói một hơi chẳng hết.” Liễu Nguyên nói: “Em yên tâm. Em là người thế nào, tôi sẽ đối xử với em như thế, chắc chắn là vậy!” Lưu Tô tỏ vẻ yên tâm, tựa người vào cửa xe, thấp giọng: “Thật sao?” Câu nói này của anh ta, dường như không phải đang nói xấu cô, bởi cô dần dần cảm nhận được, khi hai người ở riêng bên nhau, anh luôn nhã nhặn lịch thiệp, ra bộ chính nhân quân tử. Chẳng hiểu vì sao, sau lưng mọi người anh ta điềm đạm đứng đắn là vậy, còn trước mặt mọi người, anh ta lại thích phóng túng buông tuồng. Cô nhất thời không hiểu đây rốt cuộc là tính khí kỳ quái của anh hay phía sau còn có mưu đồ gì.
Tới Vịnh Nước Nông, anh đỡ cô xuống xe, rồi chỉ vào rừng cây rậm rịt bên cạnh đường nói: “Em nhìn cây kia, đó là giống cây chỉ có ở miền Nam. Người Anh gọi nó là ‘cây hoa lửa rừng’.” Lưu Tô đáp: “Hoa nó màu đỏ ạ?” Liễu Nguyên trả lời: “Ừ, màu đỏ!” Trong bóng tối, Lưu Tô không nhìn ra sắc đỏ, nhưng dựa vào trực giác cô biết rằng màu đỏ ấy không thể đỏ hơn được nữa, nó đã đỏ đến nỗi không thể gom giữ lại, từng lùm từng lùm hoa nhỏ, làm tổ trên cây đại thụ chọc trời, cháy bùng lên những tiếng tí tách, thiêu đốt dọc đường, hun đỏ cả một bầu trời chàm tía. Lưu Tô ngửa mặt lên nhìn. Liễu Nguy