Chương 7 - Cái Gông Vàng.
Thượng Hải ba mươi năm về trước, một đêm sáng trăng... Có lẽ chúng ta không kịp trông thấy vầng trăng của ba mươi năm trước. Người trẻ tuổi hẳn nghĩ vầng trăng của ba mươi năm trước là một quầng sáng ướt đẫm màu cam, to cỡ đồng xu, cũ kỹ và mơ hồ như giọt lệ rớt trên trang giấy viết thư Đóa Vân Hiên. Còn vầng trăng ba mươi năm trước trong ký ức của người già thì tươi vui, to, tròn và trắng sáng hơn vầng trăng hiện tại; thế nhưng sau chặng đường gian khổ ba mươi năm nhìn lại, ánh trăng dẫu có lung linh hơn thế nữa, cũng khó tránh khỏi mang chút thê lương.
Ánh trăng soi lên gối của Phượng Tiêu, cô a hoàn theo hầu mợ ba mới được gả vào Khương công quán. Phượng Tiêu mở mắt nhìn, chỉ thấy cánh tay xanh xao của mình gác trên tấm mền bông Cao Ly ngả cũ, thầm nghĩ: “Là ánh trăng đây sao?” Phượng Tiêu trải nệm trên sàn nằm ngủ dưới khung cửa sổ. Hai năm ấy chính quyền thay đổi xoành xoạch, nhà họ Khương công chuyển đến Thượng Hải tránh nạn binh đao, nhà không đủ ở, thành thử đám người làm phải nằm chung ngổn ngang trong gian nhà dưới này.
Phượng Tiêu giật mình nghe thấy đằng sau cái giường lớn có tiếng sột soạt, đoán chừng có người dậy đi vệ sinh, quay mình lại, quả nhiên thấy bức rèm được vén lên, một bóng đen loẹt quẹt bước ra, dường như là Tiểu Song hầu hạ mợ hai. Phượng Tiêu liền khe khẽ gọi “chị Tiểu Song”. Tiểu Song cười khì khì bước lại, đá nhẹ vào tấm nệm dưới đất, nói: “Chị đánh thức em à?” Hai tay Tiểu Song đút vào trong lớp áo kép lụa cũ màu lá sen, phía dưới xỏ một chiếc quần màu lục bóng. Phượng Tiêu thò tay ra giật giật gấu quần của Tiểu Song, cười nói: “Quần áo sặc sỡ kiểu này, giờ còn mấy ai mặc nữa. Người Hạ Giang đều chuộng màu nhã nhặn cơ mà.” Tiểu Song cười đáp: “Em không biết đấy thôi! Nhà mình sao bì được với các nhà bên? Bà nhà mình cổ lỗ quá, ngay cả các mợ, các cô còn chẳng tự chủ được, nữa là bọn a hoàn chúng mình? Cho gì thì mặc nấy, trông ai cũng như nông dân!” Tiểu Song lom khom ngồi bệt xuống tấm nệm, nhặt một chiếc áo khoác con ở ngay cạnh chân Phượng Tiêu lên, hỏi: “Tiểu thư nhà em đi lấy chồng, cho thêm hả?” Phượng Tiêu lắc đầu đáp: “Quần áo cả ba mùa, chỉ có hai bộ chị thấy ở ngoài kia là mới may, còn lại thì toàn lấy quần áo cũ của bề trên vá lại để mặc thôi!” Tiểu Song nói: “Cưới xin lần này, vào đúng lúc đảng cách mạng làm loạn, tiểu thư nhà em cũng thiệt thòi quá!” Phượng Tiêu thở dài: “Chị đừng nhắc nữa! Cứ cho là tiết kiệm một chút đi, nhưng gì thì gì cũng phải có giới hạn! Khóng thể quá sơ sài được. Mợ nhà em, ngoài miệng chẳng nói gì đâu, nhưng trong lòng chẳng lẽ lại không ấm ức?” Tiểu Song nói: “Chẳng trách mợ ba cứ không vui. Của hồi môn bên nhà em cũng còn tàm tạm, chứ tình hình bên chị, phải nói là thê thảm. Đến ngay cả cái năm cưới mợ hai nhà ta, cũng còn thảm hơn bận này!” Phượng Tiêu ngây người ra rồi nói: “Sao hả chị? Mợ hai nhà chị...”
Tiểu Song bỏ giày ra, bước qua người Phượng Tiêu, đi chân đất tới trước cửa sổ, cười nói: “Em dậy mà xem trăng này!” Phượng Tiêu nhổm người dậy, khẽ giọng hỏi: “Em muốn hỏi chị từ lâu rồi, mợ hai nhà chị...” Tiểu Song cúi xuống nhặt cái áo ngắn khoác cho Phượng Tiêu, bảo: “Cẩn thận nhiễm lạnh đấy!” Phượng Tiêu vừa cài cúc áo, vừa cười nói: “Không được! Chị phải nói cho em biết đấy!” Tiểu Song cười đáp: “Chị nói năng bộp chộp, kiểu này chuốc vạ rồi!” Phượng Tiêu trả lời: “Chị em mình đều là người một nhà, làm gì mà phải giữ ý giữ tứ như thế?” Tiểu Song rằng: “Chị nói em nghe, nhưng em không được kể cho tiểu thư nhà em biết đâu đấy! Nhà mợ hai chúng ta bán dầu mè.” Phượng Tiêu ồ lên một tiếng: “Bán dầu mè! Sao lại thế nhỉ? Như mợ cả nhà chị, cũng là tiểu thư con nhà công hầu, mợ nhà em tuy không so được với mợ cả, nhưng cũng không phải con nhà thấp kém...” Tiểu Song đáp: “Chuyện này đương nhiên có cái cớ của nó. Cậu hai nhà ta, em cũng gặp rồi đấy, là người tàn tật. Con gái nhà quan ai bằng lòng gả bán cho? Bà cũng hết cách, định bố trí cho cậu một hầu thiếp, mối mai tìm được cô họ Tào này, sinh vào tháng Bảy, nên gọi là Thất Xảo.” Phượng Tiêu đáp: “Ồ, là hầu thiếp à?” Tiểu Song nói tiếp: “Vốn là hầu thiếp, nhưng sau bà lại nghĩ, nếu không định lấy vợ cho cậu hai nữa, nhà cậu hai sẽ chẳng có con dâu gánh vác việc nhà, kể cũng không ổn, thà rằng cưới quách về làm vợ chính thức, cho cô ta một lòng một dạ phục vụ cậu.” Phượng Tiêu vin tay lên bậu cửa sổ, trầm ngâm: “Thảo nào! Tuy em mới đến, nhưng cũng cảm thấy ngờ ngợ.” Tiểu Song đáp: “Thì chẳng trách có câu, nòi nào giống ấy. Em còn chưa nghe cách nói năng của mợ ấy đấy! Trước mặt mấy tiểu thư, mợ ta chẳng kiêng dè gì cả. May mà nhà mình xưa nay kín cổng cao tường, mấy tiểu thư chẳng hiểu gì hết. Dù không hiểu, nhưng vẫn ngượng chín cả mặt!” Phượng Tiêu sặc cười: “Thật hả chị? Kiểu ăn nói chợ búa ấy chẳng hiểu mợ ấy học được từ đâu nhỉ? Ngay bọn a hoàn chúng mình...” Tiểu Song khoanh tay, nói: “Thì trông quán dầu mè mãi, đứng quầy quen đi rồi, đương nhiên là nghe nhiều biết nhiều thôi, chúng mình làm sao bì với người ta được?” Phượng Tiêu đáp: “Chị theo hầu mợ ấy gả về đây cơ mà?” Tiểu Song cười nhạt đáp: “Mợ ấy mà xứng! Chị vốn theo hầu bà lớn, cậu hai suốt ngày uống thuốc, làm gì cũng phải có người bên cạnh, trong phòng có mấy đứa a hoàn mà vẫn không đủ, thành thử chị bị điều sang. Sao thế? Em lạnh à?” Phượng Tiêu lắc đầu. Tiểu Song nói: “Trông em kìa, co ro rụt cả cổ rồi, yếu ớt quá!” Nói chưa dứt câu, Phượng Tiêu đã hắt xì hơi, Tiểu Song vội đẩy vai Phượng Tiêu nói: “Vào ngủ đi! Ngủ tiếp đi! Rúc vào chăn cho ấm!” Phượng Tiêu quỳ gối cởi áo khoác, cười đáp: “Chưa phải mùa đông, mà sao lạnh thế nhỉ?” Tiểu Song nói: “Em đừng tưởng cửa sổ đóng mà coi thường, gió luồn qua mấy cái khe này này!”
Hai người ai về chỗ nấy nằm ngủ, Phượng Tiêu lại khẽ tiếng hỏi: “Về đây cũng được bốn năm năm rồi nhỉ?” Tiểu Song đáp: “Ai cơ?” Phượng Tiêu trả lời: “Còn ai vào đây nữa?” Tiểu Song nói: “À, mợ ấy hả, thì cũng năm năm rồi đấy!” Phượng Tiêu nói tiếp: “Cũng sinh con đẻ cái đấy chứ, nào có chuyện gì để bàn ra tán vào đâu?” Tiểu Song đáp: “Ôi giời! Chuyện bàn ra tán vào nhiều lắm! Năm kia bà lớn dẫn cả nhà lên núi Phố Đà thắp hương, mợ ấy ở cữ không đi được, đành để mợ ở nhà trông nhà. Ông anh của mợ ấy cũng năng đến thăm em quá cơ, thế là nhà mình không dưng mất đồ.” Phượng Tiêu ngạc nhiên nói: “Có tra ra được ngọn ngành không?” Tiểu Song đáp: “Tra ra được gì đây? Cả nhà đều rất khó xử! Mấy món trang sức ấy dù gì thì sau này cũng thuộc về cậu cả, cậu hai, cậu ba. Cậu cả và mợ cả đều ngại cậu hai, chẳng muốn nói gì. Bản thân cậu ba ở ngoài tiêu tiền như nước, nợ nần quỹ chung đâu có ít, thành thử cũng chẳng mở miệng nổi.”
Hai người nằm nói chuyện cách nhau cỡ một trượng. Tuy đã cố gắng hạ giọng xuống hết mức, nhưng vẫn có dăm câu ba tiếng nói hơi to, làm vú Triệu đang nằm trên giường lớn thức giấc, vú Triệu gọi: “Tiểu Song!” Tiểu Song không dám ứng tiếng. Vú Triệu bảo: “Tiểu Song! Mày mà còn nói bừa, để người ta nghe thấy, thì ngày mai banh xác, nghe con!” Tiểu Song vẫn không ho he. Vú Triệu lại nói: “Mày đừng có tưởng vẫn ở trong thâm cung đại viện như trước, mà luyên thuyên thế nào cũng được nhé! Cái chỗ toàn tai mắt thế này, có chuyện gì giấu được ai đâu? Cẩn thận không ăn đòn con ạ!” Căn buồng bất chợt lặng thinh. Vú Triệu bị mù, trong gối có nhét lá hoa cúc, nghe nói có thể làm mát mắt. Vú nhấc đầu, cắm lại chiếc trâm bạc giắt ngang trên búi tóc, hơi xoay người sang bên, lá cúc kêu lạo xạo. Vú Triệu trở mình, kéo theo tiếng răng rắc phát ra từ khớp xương khắp người, vú lại thở dài một tiếng: “Chúng mày thì biết cái gì!” Tiểu Song và Phượng Tiêu vẫn không dám tiếp lời. Một lúc lâu sau không có người mở miệng, ai nấy đều mơ màng thiếp đi.
Trời sắp sáng. Mảnh trăng hạ huyền mỏng tang, thấp xuống một chút, thấp xuống một chút, rồi to hơn một chút, tựa như chiếc chậu rửa mặt bằng đồng dần dần chìm xuống. Trời ngả màu xanh mai cua lạnh ngắt, dưới gầm trời chỉ còn mảng tối của mấy căn nhà lúp xúp, vì vậy phóng mắt có thể nhìn ra rất xa. Sắc ban mai nơi đường chân trời cứ một lớp xanh, một lớp vàng, rồi một lớp đỏ, giống như quả dưa hấu được bổ ra, và vầng dương sắp ló mặt. Dần dần trên đường có tiếng xe con với xe kéo lăn bánh lộc cộc, tiếng vó xe ngựa nện kêu lóc cóc. Người gánh tào phớ cất tiếng rao ê a, chỉ nghe thấy tiếng cuối kéo dài thượt: “Phớ... đơi! Phớ... đơi!” Đi xa hơn chút nữa, chỉ còn nghe thấy: “Ớ... ơi!...Ớ... ơi!”
Trong phòng, bọn a hoàn, vú em cũng đã trở dậy, nhao nhao mở cửa phòng, rửa mặt mũi, gấp chăn nệm, cuốn màn, chải đầu. Phượng Tiêu hầu mợ ba Lan Tiên vận quần áo, Lan Tiên sà tới trước gương ngắm nghía một hồi, rút từ nách áo ra một chiếc khăn tay thêu hoa bằng lụa Hồ châu, lau phấn lên cánh mũi, nói với cậu ba còn đang nằm trên giường phía sau lưng: “Em ra thỉnh an bà trước đã. Đợi anh, thế nào cũng nhỡ việc.” Đang nói, mợ cả Đại Trân bước đến, đứng ở ngưỡng cửa cười nói: “Em ba! Mình cùng đi đi!” Lan Tiên vội ra đón mợ cả: “Em đang lo, chỉ sợ trễ, hóa ra chị dâu cả còn chưa đi. Không rõ chị hai thì thế nào?” Đại Trân cười: “Thím ấy thì còn phải rề rà một lúc nữa!” Lan Tiên nói: “Nựng anh hai uống thuốc ạ?” Đại Trân nhìn quanh, thấy không có ai, bèn cười nói: “Uống thuốc chỉ là thứ yếu thôi...” Mợ cả đặt ngón cái lên môi, ba ngón giữa gập lại, ngón út chĩa lên, khẽ hít hà hai tiếng. Lan Tiên ngạc nhiên: “Hai người đều hút cái ấy à?” Đại Trân gật đầu đáp: “Chú hai rành rành ra rồi, chứ còn thím hai thì giấu bà, bọn mình ở giữa đâm ra lại khó xử, việc gì cũng phải giấu giếm hộ thím ấy. Mà thực ra bà nhà mình có việc gì mà không biết? Bà cứ cố ý lờ đi, vẫn sai khiến thím ấy như thường, bắt phải làm những việc lặt vặt, chẳng qua là không muốn cho thím ấy hút thỏa thê mà thôi. Kể cũng thật là, còn trẻ như thế, có tâm sự nặng nề gì đâu mà phải hút cái thứ ấy giải sầu cơ chứ?”
Đại Trân, và Lan Tiên dắt tay nhau cùng bước lên lầu, phía sau mỗi người là một đứa a hoàn theo sát, đi vào gian phòng khách nho nhỏ sát vách phòng ngủ của bà lớn. A hoàn Lựu Hỷ của bà lớn ra tiếp đón, khẽ nói: “Bà chưa dậy đâu!” Đại Trân ngước đầu lên nhìn đồng hồ, cười: “Hôm nay bà dậy muộn quá.” Lựu Hỷ đáp: “Hai hôm trước bà bảo ngoài đường ồn quá, ngủ không yên giấc. Giờ chắc là bà quen rồi, hôm nay ngủ bù.” Chiếc bàn tròn nhỏ trăm tuổi bằng gỗ tử du phủ một tấm vải đỏ, nhị tiểu thư Khương Vân Trạch ngồi bên cạnh, đang cầm chiếc kìm nhỏ kẹp vỡ những quả hồ đào, thấy thế bỏ xuống, đứng dậy đón tiếp. Đại Trân đặt tay lên vai Vân Trạch, cười nói: “Đúng là em Vân nhà mình hiếu thảo thật, tối qua nhân lúc vui, bà bảo muốn ăn kẹo hồ đào, vậy mà em nhớ luôn.” Lan Tiên và Đại Trân bèn ngồi xuống quanh bàn, giúp Vân Trạch bóc vỏ hồ đào. Vân Trạch mỏi tay, đặt kìm xuống, Lan Tiên đón lấy chiếc kìm. Đại Trân nói: “Cẩn thận cái móng tay lá lan kìa! Nuôi dài thế này mà để gãy thì tiếc lắm!” Vân Trạch đáp: “Để em bảo bọn gia nhân lấy móng tay vàng đeo vào vậy.” Lan Tiên cười, rằng: “Cái thứ này cách rách quá, chẳng thà bảo bọn nó đem xuống dưới bếp bóc cho xong.”
Mọi người đang khúc khích nói cười, Lựu Hỷ vén rèm thông báo: “Mợ hai đến rồi ạ!” Lan Tiên, Vân Trạch đứng dậy nhường chỗ, Thất Xảo chưa vội ngồi xuống, một tay chống cửa, một tay chống nạnh, trong ống tay áo hẹp thõng xuống một chiếc khăn lụa nhàu màu tím nhạt, trên mình vận áo màu đỏ tươi viền xanh cùng chiếc quần Như Ý ống nhỏ màu tím nhạt ánh lam, khuôn mặt xương xương, môi đỏ, răng đều, mắt hình tam giác, nét mày cong cong. Chị ta nhìn xung quanh, cười nói: “Mọi người đông đủ rồi à! Hôm nay chắc tôi lại trễ rồi! Làm sao tôi không đến trễ cho được, phòng thì tối om om, chải cái đầu cũng phải lần mò! Ai bảo cái cửa sổ phòng tôi quay ngay ra sân sau cơ chứ? Đương không lại sắp riêng cái phòng ấy cho tôi, dù gì thì cái vị kia nhà tôi cũng chẳng sống được bao lâu nữa, mẹ con tôi đang đợi làm mẹ góa con côi đây... không bắt nạt mẹ con tôi thì bắt nạt ai?” Đại Trân dửng dưng không thèm đáp, Lan Tiên thì cười nói: “Chị hai quen sống căn nhà ở Bắc Kinh rồi, chẳng trách chê nơi này bí bách là phải!” Vân Trạch nói: “Hồi anh cả đi tìm nhà, vốn định tìm căn rộng rãi một chút, nhưng mà ở Thượng Hải, được căn nhà như thế này, cũng sáng sủa chán rồi.” Lan Tiên nói: “Đúng đấy! Nhà mình quả thực đông người quá, cũng hơi chật một chút thật…” Thất Xảo vén ống tay áo lên, nhét khăn tay vào trong chiếc vòng phỉ thúy, liếc Lan Tiên một cái, cười nói: “Thì ra thím ba cũng chê đông người cơ đấy. Ngay như anh chị đây còn hiềm nỗi người đông, chú thím lấy nhau còn chưa đầy một tháng, đương nhiên càng chê đông rồi!” Lan Tiên nghe câu này, còn chưa thấy làm sao thì Đại Trân đã đỏ mặt trước, đáp: “Đùa gì thì đùa, cũng phải có chừng mực, thím ba về nhà mình còn chân ướt chân ráo, cô định để thím ấy nghĩ chúng ta là loại người gì đây?” Thất Xảo kéo một góc khăn tay lên che môi, nói: “Biết các chị là tiểu thư con nhà gia giáo rồi, các chị cứ thử đổi vị trí cho tôi thử xem, sợ là một đêm thôi chị cũng chẳng ngủ quen ấy chứ.” Đại Trân phì một tiếng nói: “Tôi không thèm nói với nhà thím nữa, càng nói nhà thím càng cong cớn.” Thất Xảo liền phăm phăm tiến lên kéo lấy tay áo Đại Trân nói: “Tôi dám thề độc đấy, trong vòng năm năm tôi dám thề độc đấy! Chị dám thề không? Dám thề không?” Đại Trân cũng bật cười ha hả, khẽ buông một câu: “Thế sao thím vẫn có hai đứa?” Thất Xảo đáp: “Thật đấy! Đến tôi cũng chẳng hiểu sao lại đẻ ra hai đứa! Càng nghĩ càng không hiểu!” Đại Trân xua tay: “Thôi đủ rồi! Đủ rồi! Nói bớt vài câu đi! Dù thím coi thím ba như người nhà thím, nói năng không cần ý tứ, nhưng hẵng còn em Vân đứng đây, lát nữa em Vân mà mách tội thím trước mặt bà, thì thím cứ dờ hồn!”
Vân Trạch đã tránh xa từ nãy, đang chắp tay sau lưng đứng ở ban công, chúm môi ghẹo con hoàng yến. Ngôi nhà của họ Khương đang ở tuy mang phong cách Tây kiểu mới nhất thời kỳ đầu, cây trụ lớn có đắp gạch ngói màu đỏ hồng đỡ lấy vòm cửa đồ sộ, nhưng ban công trên lầu lại được lát gỗ. Sau dãy lan can làm bằng gỗ hoàng dương, có đặt mấy chiếc mẹt lớn, phơi măng khô. Ánh nắng cũ kỹ tràn ngập không gian như những hạt bụi vàng, thứ bụi vàng khiến ngươi ta hơi cay sống mũi, tràn vào mắt khiến mọi thứ nhòe nhoẹt. Người bán rong trên đường lắc trống bỏi từ xa, “cách tùng... cách tùng...”, trong tiếng trống mông lung có vô số ký ức của trẻ thơ đang lần lần già cỗi. Xe con rè rè phóng qua, thi thoảng cũng có vài tiếng còi xe hơi bim bim vang lên.
Bản thân Thất Xảo cũng biết người trong nhà này đều không coi mình ra gì, vì vậy có ý tỏ ra thân thiết với người mới đến. Thất Xảo dựa vào lưng ghế Lan Tiên ngồi, hỏi han bắt chuyện, hết cầm tay trái lại nâng tay phải của Lan Tiên, khen nức nở móng tay của cô một hồi rồi nói: “Năm ngoái tôi cũng nuôi móng ở ngón cái, còn dài hơn móng của thím cỡ nửa tấc, nhưng ngắt hoa nên gãy rồi.” Lan Tiên đã sớm hiểu rõ con người của Thất Xảo và địa vị của cô ta trong nhà họ Khương, chỉ nhoẻn miệng cười trừ, cũng không đáp lời. Thất Xảo chưng hửng, xoay sang ban công, nhấc đuôi tóc của Vân Trạch lên lắc lắc, giả lả bắt chuyện: “Ôi chao! Mái tóc của em sao lại mỏng thế này? Năm ngoái tóc còn dày bóng, chắc rụng đi nhiều đấy nhỉ?” Vân Trạch tránh người qua một bên che đuôi tóc: “Tôi có rụng một sợi tóc cũng chẳng cần chị bận tâm!” Thất Xảo vẫn mê mải ngắm cô bé, rồi gọi: “Chị dâu đến mà xem này, em Vân quả thực gầy đi nhiều quá, hay là em có tâm sự gì?” Vân Trạch hất tay Thất Xảo ra, kêu đánh bộp một tiếng, nổi giận: “Chị hôm nay điên thật rồi! Ngày thường vẫn chưa đủ đáng ghét sao?” Thất Xảo đút hai bàn tay vào trong ống tay áo, cười khì khì nói: “Tiểu thư nóng tính thế!” Đại Trân thò đầu ra gọi: “Vân ơi! Bà dậy rồi!” Mọi người vội vuốt vạt áo, chỉnh lại búi tóc, vén rèm đi vào trong phòng kế bên thỉnh an, hầu bà ăn bữa sáng. Bọn người ở bưng mâm từ phòng khách vào, đứa a hoàn trong phòng đỡ lấy bát đĩa, rồi tất cả người ở lui ra ngoài chầu chực như cũ. Trong buồng im phăng phắc, họa hoằn lắm mới có người cất lên một câu, chỉ nghe thấy tiếng lách cách nho nhỏ phát ra từ đầu đũa bạc. Bà lớn theo Phật, sau bữa ăn theo lệ thường phải tụng kinh hai tiếng, ai nấy lui cả ra ngoài, Vân Trạch nói thầm với Đại Trân: “Chị hai không mau về hút thuốc cho sướng đi, lại còn ở trong đó làm gì không biết?” Đại Trân đáp: “Chắc là có chuyện riêng muốn nói.” Vân Trạch bật cười: “Bà còn lâu mới nghe nổi lời của chị ấy.” Đại Trân cười nhạt đáp: “Cũng chưa chắc. Tâm lý của người già hay dao động lắm, cả ngày nghe tỉ tê bên tai, trong mười câu cũng tin một đôi câu, chưa biết thế nào.”
Lan Tiên ngồi bóc hồ đào, Đại Trân và Vân Trạch thuận bước ra ban công, tuy không cố tình nghe lỏm câu chuyện trong phòng chính, song bà đã có tuổi, tai hơi điếc, giọng nói có phần khá cao, nên dù vô tình hay hữu ý thì nhiều câu cũng lọt vào tai người đứng ngoài ban công. Vân Trạch giận tái mặt, thoạt tiên là bóp chặt nắm tay, sau rồi vung mạnh hai tay, vùng chạy về phía đầu kia của hành lang. Chạy được hai bước thì dừng lại, cúi về trước, bưng mặt khóc tu tu. Đại Trân chạy lên dìu em, khuyên nhủ: “Em nín đi! Mau nín đi! Đừng chấp cái loại người ấy làm gì! Có ai để lọt tai lời nó nói đâu!” Vân Trạch vùng ra, chạy thẳng về phòng mình. Đại Trân quay trở lại phòng khách, đập tay nói: “Lần này thì gây vạ lớn rồi!” Lan Tiên vội hỏi: “Sao thế chị?” Đại Trân đáp: “Thím hai nói với bà là gái lớn phải gả chồng, bảo bà viết thư cho nhà họ Bành, bảo họ sớm cưới em Vân qua đó đi. Thím xem, thế là cái kiểu gì?” Lan Tiên cũng ngớ người ra một lúc, nói: “Nhà gái mà nói ra như thế có khác gì tự vả vào mặt?” Đại Trân đáp: “Nhà họ Khương mất thể diện cũng chỉ là việc nhất thời, chứ em Vân mà gả qua đó, thím bảo nhà người ta coi em mình ra gì nữa? Cả đời này em ấy còn ngóc đầu thế nào dược!” Lan Tiên nói: “Bà là người sáng suốt, chưa chắc đã nghĩ như cái người kia đâu.” Đại Trân nói: “Ban đầu thì bà đương nhiên không thích nghe, bảo là con cháu trong nhà này, nhất định không có bụng ấy đâu. Thím ấy liền nói là: ‘Ôi dào! Con gái thời nay làm sao có thể đem ra so với cái thời ngày xưa của bà được? Thời thế thay đổi rồi, nếu không thì sao gọi là thiên hạ đại loạn cơ chứ?’ Thím biết đấy, người già chỉ thích nghe kiểu đó thôi, thím ấy nói đến mức bà cũng thấy hơi nghi hoặc.” Lan Tiên thở dài: “Trông cũng đứng đắn mà sao nghĩ ra toàn những chuyện đơm đặt thế cơ chứ?” Đại Trân chống hai cùi tay lên bàn, giơ ngón út miết lông mày, ngồi trầm ngâm một lúc, cười mỉa, rồi nói: “Thím ấy cứ làm như thím ấy quan tâm đến em Vân lắm ấy! Thím ấy mà quan tâm đến tôi như thế, tôi cũng chẳng chịu nổi!” Lan Tiên kéo tay Đại Trân: “Chị nghe xem... chắc không phải em Vân chứ?” Phòng phía sau đường như có người đang gào khóc thảm thiết, đạp rầm rầm vào thành giường bằng đồng, trong tiếng ồn ào nhộn nhạo hình như có người đang khuyên nhủ ở bên đó, nhưng khuyên mãi không được. Đại Trân đứng dậy nói: “Để chị ra xem sao. Chớ thấy cô tiểu thư này ngày thường hiền lành, một khi bị dồn ép quá, cũng không phải vừa đâu.”
Đại Trân vừa đi ra, Khương Quý Trạch, cậu ba nhà họ Khương dọc đường ngáp ngắn ngáp dài bước vào. Quý Trạch là gã trai tráng kiện, hơi béo, sau gáy buông thõng cái đuôi sam lớn bóng mượt tết lỏng lẻo theo kiểu chập ba, khuôn mặt hết sức đầy đặn, hai má hồng hào, hơi sệ xuống một chút, lông mi mượt mà, trong đôi mắt đen đẫm nước lộ ra vài nét chán chường, vận một chiếc áo dài chẽn tay màu cỏ úa, bên ngoài là một cái áo không tay khuy ngọc màu tím hồng, hỏi Lan Tiên rằng: “Ai xì xầm với bà trong ấy thế em?” Lan Tiêu đáp: “Chị dâu hai đấy!” Quý Trạch bĩu môi lắc đầu. Lan Tiên cười: “Anh cũng sợ chị ấy hả?” Quý Trạch chẳng nói chẳng rằng, kéo một chiếc ghế ra, xoay lưng ghế tựa vào thành bàn, vén cao vạt áo rồi ngồi ngược lên ghế, cằm gác lên mép lưng ghé, tay bốc nhân hồ đào ăn tì tì. Lan Tiên lườm Quý Trạch một cái rồi nói: “Người ta ngồi bóc cả buổi, là để dâng cho anh xơi đấy?” Đang nói thì Thất Xảo vén rèm bước ra, nhác thấy Quý Trạch liền bất giác đi lại, vòng qua sau lưng ghế của Lan Tiên, hai tay đặt lên cổ cô, hất hàm cười, nói: “Có được tân nương tài sắc hơn người này, chú ba còn chưa cảm ơn tôi đâu đấy! Nếu không phải tôi giục mọi người sớm hoàn thành việc này cho chú, cứ lần chần, đợi đánh nhau xong, có mà tám năm, mười năm không chừng! Lúc ấy chú lại chẳng rối rít cả lên!” Việc đáng tiếc lớn nhất trong đời Lan Tiên là hôm cưới lại rơi đúng vào thời kỳ biến động, thành thử hôn lễ tổ chức qua loa, mọi việc đều không chu toàn, thế nên vừa nghe thấy mấy lời chối tai này, khuôn mặt trái xoan của cô liền xị xuống. Quý Trạch liếc nhìn Lan Tiên, khẽ cười, nói: “Chị hai này! Xưa nay đúng là làm ơn mắc oán, chẳng ai hiểu cho lòng chị cả!” Thất Xảo nói: “Không hiểu cho cũng được! Tôi cũng quen rồi. Tôi vào cái nhà họ Khương này, những việc khác tôi không nói, riêng việc tôi trông nom anh hai chú bao năm nay, tất tưởi hầu hạ anh chú, kể cũng đã là người có công rồi... Đã có ai hiểu cho tôi đâu? Đã có ai rủ chút lòng thương cho tôi đâu?” Quý Trạch cười đáp: “Chị hễ mở miệng ra là y rằng cằn nhà cằn nhằn!” Thất Xảo thở một hơi dài thườn thượt, mân mê bộ xà tích vàng và chìa khóa đính trên vạt áo của Lan Tiên. Một lúc lâu, chợt nói: “Dù sao thì cả tháng nay chú cũng chưa ra ngoài gây sự. May có nàng dâu mới giữ được chân chú, chứ người xung quanh quỳ xuống van lơn cũng có giữ được chú đâu!” Quý Trạch cười đáp: “Thật sao? Chị đã giữ tôi bao giờ đâu, làm sao biết không giữ được?” Quý Trạch vừa cười, vừa đá mắt về phía Lan Tiên. Thất Xảo cười gập cả bụng, nói: “Thím ba này, thím phải trông chồng cẩn thận đấy! Chứ thằng khỉ này, tôi tận mắt trông nom nó lớn, giờ nó lại bắt bẻ cả tôi đấy!”
Thất Xảo ngoài miệng nói cười rôm rả, nhưng trong lòng phát nẫu cả ruột gan, luôn tay day miết, đấm vỗ Lan Tiên, chỉ mong có thể giày vò cô nàng tơi tả mới cam. Lan Tiên tuy rất nền nã, song cũng không nhịn được nữa, phát cáu lên, bóp hồ đào quá tay, khiến cái móng tay dài hơn hai tấc gãy tận gốc. Thất Xảo kêu ối lên một tiếng gọi: “Mau lấy kéo lại đây sửa cho mợ ba! Tôi nhớ trong phòng này có cái kéo con đấy.” Đoạn lại gọi: “Tiểu Song! Lựu Hỷ! Mau lại đây!” Lan Tiên đứng dậy nói: “Chị hai khỏi phải mất công, em tự về phòng mình gọt lấy.” Rồi nhoài người đi ra. Thất Xảo ngồi ngay xuống chiếc ghế của Lan Tiên, tay chống vào má, nhướn cao lông mày, liếc nhìn Quý Trạch nói: “Thím ấy giận tôi đấy à?” Quý Trạch cười đáp: Cô ấy giận chị làm gì?” Thất Xảo nói: “Tôi đang định hỏi thế... lẽ nào tôi nói sai câu gì chăng? Giữ chú ở nhà là xấu ư? Thím ấy lại bằng lòng để chú ra ngoài chơi sao?” Quý Trạch cười nói: “Cái nhà này từ anh cả, chị dâu cả trở đi, đều đồng lòng muốn quản giáo tôi, chẳng qua là sợ tôi tiêu lạm tiền quỹ chung thôi.” Thất Xảo đáp: “A Di Đà Phật! Tôi không dám chắc người khác có cái tâm ấy không, nhưng tôi thì chắc chắn không nghĩ thế. Dù chú thua trắng tay, phải cầm nhà bán đất, tôi mà chỉ hơi cau mày, thì tôi không phải chị dâu chú. Ai bảo chúng ta là cốt nhục một nhà? Tôi chẳng qua lo cho thân chú thôi.” Quý Trạch cười khì một tiếng đáp: “Tôi tự lo cho thân tôi, khỏi cần chị phải lo.” Thất Xảo nói với giọng run run: “Con người ta, sức khỏe là quan trọng nhất. Chú nom bộ dạng anh hai chú, còn ra dáng người không? Có thể coi anh ấy là người không?” Quý Trạch nghiêm mặt lại nói: “Anh hai không thể so với tôi được, anh ấy sinh ra đã thế, đâu phải tự hủy hoại mình. Anh ấy là người đáng thương, tất cả đều trông cậy vào chị săn sóc anh ấy thôi.” Thất Xảo đứng thẳng dậy, hai tay vịn vào bàn, mi mắt trễ xuống, nửa khuôn mặt phía dưới run lên như thể trong miệng đang ngậm một ngụm dầu sáp nóng bỏng, thẽ thọt nói hai câu: “Chú đi sang ngồi cạnh anh chú thử đi! Đi sang ngồi cạnh anh chú thử đi!” Thất Xảo thử ngồi xuống bên cạnh Quý Trạch, chỉ ké ở một góc ghế, đoạn đặt tay lên đùi anh ta, nói: “Chú đã chạm vào da thịt anh ấy chưa? Nó nhẽo và bì bì giống như chân người ta lúc bị tê, sờ lên trên thì cảm giác nó...” Mặt Quý Trạch biến sắc, song anh ta vẫn cười khẩy một cái, khom lưng xuống, thò tay miết vào chân Thất Xảo: “Phải xem xem chân chị giờ có tê không đã!” Thất Xảo đáp: “Giời ơi! Chú chưa sờ vào da thịt anh ấy, chú không biết cơ thể của người khỏe mạnh tốt đẹp đến nhường nào đâu...” Thất Xảo tuột khỏi ghế, quỳ xuống đất, mặt đè vào ống tay áo, không nghe thấy tiếng cô ta khóc, chỉ thấy viên kim cương lấp lánh ở đầu chiếc trâm cài trên búi tóc rung rung đầy kích động. Bên trong búi tóc có buộc một sợi tơ hồng, phản chiếu trong ánh sáng đỏ nhạt của viên đá kim cương. Cái bóng cô ả cứ khuỵu dần, khuỵu dần, rồi mọp hẳn xuống. Cô ả không giống đang khóc, mà đơn giản giống như đang nôn thốc nôn tháo.
Quý Trạch thoạt tiên ngẩn người ra, sau đó liền đứng dậy nói: “Tôi đi là được chứ gì. Chị không sợ ai, nhưng tôi thì sợ. Cũng phải giữ cho anh hai tôi một chút thể diện chứ!” Thất Xảo vịn ghế đứng dậy, thút thít nói: “Tôi đi!” Cô ả rút chiếc khăn trong ống tay áo ra thấm thấm lên mặt, rồi chợt nhoẻn miệng cười, nói: “Như vậy là chú bảo vệ anh hai chú!” Quý Trạch cười nhạt: “Tôi không bảo vệ anh ấy thì ai bảo vệ anh ấy?” Thất Xảo đi ra ngoài cửa, hắng giọng nói: “Chú thì tốt đẹp nỗi gì? Chẳng cần giả vờ trong trắng trước mặt tôi đâu! Tạm chưa nói đến việc chú phóng đãng thế nào ở bên ngoài, chỉ riêng trong cái phòng này... đến hạt cát cũng chẳng qua được mắt chị đây đâu! Đừng nói tôi là chị dâu chú, kể cả tôi là vú nuôi chú, có khi chú cũng chẳng ngần ngại.” Quý Trạch cười đáp: “Tôi vốn buông tuồng, tránh sao được bị chị bới móc!” Thất Xảo toan ra khỏi phòng, song lại áp lưng lên cánh cửa, khẽ giọng nói: “Tôi thật không hiểu, tôi có chỗ nào không bằng người ta? Có chỗ nào không ổn...” Quý Trạch cười: “Chị hai à, chị có chỗ nào không ổn vậy?” Thất Xảo cười một tiếng, nói: “Chẳng lẽ tôi ở với người tàn tật thì ám cái hơi tàn tật, đến động chạm cũng không dám sao?” Cô ả mở to mắt nhìn trân trối về phía trước, đôi khuyên tai nhỏ bằng vàng đúc trên vành tai giống như hai cái đinh đồng đính cô lên cánh cửa, tiêu bản của một con bướm nằm trong hộp kính, trông kiều diễm nhưng rất thê thảm.
Quý Trạch ngắm nhìn Thất Xảo, lòng hơi xao xuyến. Nhưng như vậy không được, cho dù là chơi bời, Quý Trạch luôn giữ nguyên tắc không động chạm vào người trong nhà, bởi một khi sự rạo rực nhất thời qua đi, thì sau đó có muốn trốn cũng không được, muốn bỏ cũng không xong, cả ngày cứ sờ sờ trước mắt, sẽ chỉ là một gánh nặng đèo bòng. Huống hồ, cái miệng của Thất Xảo lại ton hót như thế, tính khí lại bộp chộp như thế, làm sao mà giấu giếm được ai? Huống hồ, mối quan hệ của cô nàng này với mọi người không tốt, trong nhà từ trên xuống dưới chẳng ai muốn dây dưa với cô ta, có lẽ cô ta cũng mặc xác tất thảy, dẫu có gây ra chuyện rùm beng cũng bỏ mặc ngoài tai. Nhưng Quý Trạch thì lại trẻ trung phơi phới, đâu cần gì phải mạo hiểm như vậy, anh ta dõng dạc nói: “Chị hai ạ, tuy tôi sinh sau đẻ muộn, nhưng quyết không phải là đứa tùy tiện vô lối.”
Dường như có tiếng bước chân. Quý Trạch lập tức vén vạt áo, lẻn ngay vào buồng bà, trước khi đi còn vốc một nắm lớn nhân hồ đào. Thần trí Thất Xảo vẫn hơi mơ màng, mãi đến khi có người đẩy cửa, mới hoàn hồn lại, đành tương kế tựu kế nấp vào sau cánh cửa, thấy Đại Trân bước vào phòng, liền nhón chân ra vỗ vào sau lưng Đại Trân một cái. Đại Trân miễn cưỡng cười, nói: “Thím hứng chí thế!” Rồi ngó lên mặt bàn nói: “Ơ? Hồ đào còn mỗi ngần này thôi à, ăn gần hết rồi còn gì. Chắc lại là chú ba chứ còn ai vào đây nữa!” Thất Xảo dựa vào bàn, lặng đứng nhìn ra ban công. Đại Trân ngồi xuống, làu bàu: “Người ta vất vả bóc cả sáng, chú ấy lại ngồi ăn sẵn!” Thất Xảo siết một mảnh vỏ hồ đào sắc nhọn trong tay, hằn học cào lên tấm khăn trải bàn màu đỏ, hết cào trái, lại cào phải, tấm vải xồ lông lên như sắp rách. Cô ả nghiến răng nói: “Tiền với chả nong, cứ bảo chúng ta phải chi tiêu dè sẻn, nhưng mình dè sẻn, thì người ta cầm tiền ra ngoài vung tay quá trán! Tôi là tôi ức lắm!” Đại Trân liếc nhìn Thất Xảo, hờ hững nói: “Thì cũng hết cách rồi đấy thôi. Người đông nên nó thế, trước mặt mình thì người ta không đi, nhưng sau lưng mình thì chắc gì đã không đi, quản được việc này, nhưng làm sao mà quản dược việc khác.” Thất Xảo cảm thấy trong lời của Đại Trân có ý xỏ xiên, định dẩu mỏ móc lại, Tiểu Song vào phòng, rón rén bước tới trước mặt Thất Xảo, thì thào: “Mợ ơi! Cậu cả nhà mợ đến chơi!” Thất Xảo mắng: “Cậu cả nhà tao đến chơi, đâu phải việc gì mờ ám mà mày nói lí nha lí nhí như con kiến thế hả? Bộ trong cổ mày mọc mụn à?” Tiểu Song giật lùi lại một bước, không dám lên tiếng nữa. Đại Trân nói: “Cậu cả nhà mợ hai hóa ra cũng đã chuyển đến Thượng Hải rồi à. Họ hàng chúng ta đến đây đông đủ đấy nhỉ!” Thất Xảo cất bước ra khỏi phòng nói: “Không cho ông ấy đến Thượng Hải sao? Các vùng khác đánh nhau loạn xị, mạng người nghèo đều như cỏ rác!” Thất Xảo đứng giữa bậc cửa, hỏi Tiểu Song: “Đã báo bà chưa?” Tiểu Song đáp: “Chưa ạ!” Thất Xảo ngẫm nghĩ một lát, rốt cuộc cũng không dám vào phòng bà thưa chuyện, đành phải lẳng lặng xuống dưới nhà.
Đại Trân hỏi Tiểu Song: “Cậu cả nhà mợ hai đến một mình à?” Tiểu Song trả lời: “Cả bà vợ nữa, tay còn xách bốn chiếc cặp lồng gỗ.” Đại Trân cười khẩy: “Họ tốn kém quá cơ!” Tiểu Song đáp: “Mợ cả xót họ làm gì. Mang một lô xích xông đến, rồi lại khuân một lô xích xông về ấy mà. Khỏi nói nào vàng, nào bạc, cái tròn, cái dẹt mà làm gì, ngay đến mấy thứ đồng nát dép hỏng nhà mình cũng còn tốt chán!” Đại Trân cười nói: “Đừng có ăn nói thất đức như thế! Ngươi lui xuống đi! Người bên ngoại nhà mợ ấy đến đây cũng khó khăn, hầu hạ không chu đáo, lại nhặng xị lên đấy!”
Tiểu Song đuổi theo ra bên ngoài, Thất Xảo đang đứng ở đầu cầu thang vặn hỏi Lựu Hỷ xem bà có biết việc này không. Lựu Hỷ đáp: “Bà đang tụng kinh, cậu ba vịn cửa sổ ngắm cảnh, bảo là ngoài cửa lớn có khách. Bà hỏi là ai, cậu ba quan sát kỹ, rồi bảo không biết có phải là cậu cả nhà họ Tào không, bà không truy hỏi thêm nữa.” Thất Xảo nghe thấy vậy, đùng đùng nổi giận, giậm chân xuống đất liên hồi, lầm bầm chửi: “Chẳng lẽ mụ cứ giả vờ không biết là xong à! Đến vua còn có họ hàng nghèo nữa là! Giờ thì ra vành ra vẻ thế, sao ngày xưa còn mang sính lễ đến cưới tôi về đây làm gì? Dù gì thì cũng có dây mơ rễ má, đừng nói là hôm nay mụ giả chết, cho dù mụ chết thật ra đấy, người ta cũng không thể không đến lạy ba lạy trước quan tài mụ và mụ cũng không thể từ chối người ta được!” Cô ả vừa nói, vừa đi xuống dưới nhà.
Căn buồng của cô ả, vừa bước vào là có một đống tủ tre sơn vàng chắn cửa, chỉ chừa ra một lối đi cỡ mấy bước chân. Cô ả vén rèm lên, thấy bà chị dâu đang ngồi xổm dỡ từng ngăn cặp lồng xuống, kiểm tra lại thức ăn đựng trong mỗi ngăn xem có bị sánh ra ngoài không. Anh trai của cô ả là Tào Đại Niên chắp tay sau lưng, cúi xuống nhìn. Thất Xảo không nén được nỗi chua xót, tựa vào tủ tre, nép mặt lên lớp vải xanh đen bọc ngoài tủ, nước mắt cứ thế rơi lã chã. Bà chị dâu cuống cuồng đứng thẳng dậy, nhào về phía trước, hai tay nắm chặt lấy một tay cô ả, miệng liên hồi gọi “cô Xảo”. Tào Đại Niên bất giác cũng giơ ống tay áo thấm lên mắt. Thất Xảo đưa tay còn lại ra tháo nút thắt trên lớp vải bọc ngoài tủ, hết tháo rồi lại thắt, có điều không cất được nên lời.
Bà chị dâu quay lại đá mắt cho chồng, bảo: “Anh nói gì đi chứ! Ở nhà suốt ngày lèm bà lèm bèm, giờ gặp mặt em gái, sao cứ như ngậm hột thị thế kia!” Thất Xảo giọng run run: “Cũng chẳng trách anh ấy không nói được lời nào... anh ấy đâu còn mặt mũi nào đến gặp tôi!” Đoạn, cô ả nói với anh mình: “Tôi cứ nghĩ cả đời này anh không định bước vào cái cửa nhà này nữa! Anh hại tôi thảm lắm rồi! Anh phủi áo một cái là bỏ đi được, nhưng tôi đâu có bỏ đi được. Anh cũng chẳng thèm đoái hoài xem em gái anh sống chết thế nào.” Tào Đại Niên nói: “Cô nói kiểu gì vậy? Người ngoài nói vậy còn được, nhưng sao cô cũng nói thế! Cô không giấu giếm cho anh cô, cái mặt cô cũng rạng rỡ lắm đấy!” Thất Xảo lên giọng: “Tôi không nói, nhưng tôi không cấm được người khác nói. Chính vì anh, tôi tức phát điên cả người. Hôm nay anh lại còn định nói chẹn họng tôi phải không!” Bà chị dâu vội nói: “Là lỗi của anh ấy! Là lỗi của anh ấy! Cô phải chịu ấm ức quá rồi. Mà cô ấm ức đâu phải có mỗi chuyện này, thôi tốt xấu gì thì cũng nhịn đi vậy, thế nào cũng có ngày nở mày nở mặt.” Câu nói “cô ấm ức đâu phải có mỗi chuyện này” của bà chị dâu đã xoáy sâu vào tâm khảm cô ả. Thất Xảo khóc rống lên ai oán, bà chị dâu cuống quýt, xua tay lia lịa: “Đừng làm ầm lên, kẻo đánh thức chú, cô ơi!” Trên chiếc giường lớn làm bằng gỗ tử nam nơi góc phòng tối tăm, tấm màn the vẫn rủ xuống trong thinh lặng. Chị dâu Thất Xảo lại nói: “Chú vẫn đang ngủ hả cô? Đánh thức chú, chắc chú giận đấy!” Thất Xảo cao giọng: “Thằng cha ấy mà biết tức giận, thì đã mừng!” Chị dâu cô ả sợ hãi, vội bịt miệng cô ả lại: “Chớ chớ bà cô ơi! Người bệnh nghe được, trong lòng khó chịu lắm đấy!” Thất Xảo nói: “Thằng cha ấy khó chịu, còn tôi thì dễ chịu lắm đấy?” Bà chị dâu nói tiếp: “Chú ấy vẫn bị cái bệnh loãng xương đấy à!” Thất Xảo trả lời: “Thế còn chưa đủ sao, còn định mắc thêm bệnh gì nữa? Cái nhà này đều kiêng không dám nói đến từ ‘bệnh lao’, nhưng nói thẳng toẹt ra, không phải bệnh lao xương thì là bệnh gì?” Bà chị dâu nói: “Cả ngày nằm đấy, có lúc nào ngồi dậy được một lát không cô?” Thất Xảo cười khanh khách: “Ngồi dậy, xương cột sống nó mà sụm cho, thì thằng cha ấy chẳng cao bằng thằng con ba tuổi của tôi.” Bà chị dâu nhất thời không nghĩ ra câu gì khuyên nhủ, cả ba người đều đứng ngây ra một lúc. Thất Xảo giẫm mạnh chân xuống đất, nói: “Thôi anh chị về đi! Về đi! Anh chị đến đây, chỉ khiến tôi thêm hổ nhục vì những chuyện trước kia. Tôi không chịu nổi sự giày vò này đâu! Anh chị mau về đi cho tôi nhờ!”
Tào Đại Niên nói: “Cô nghe anh nói một câu! Cho dù bây giờ lòng cô bứt rứt thế nào, có nhà ngoại đến thăm, ít nhiều cũng đỡ đi, cũng là ngày cô nở mày nở mặt, chứ cái nhà họ Khương này là danh gia vọng tộc, bề trên thì hễ động một tí là vu oan giá họa cho người khác, còn bọn bằng vai phải lứa thì đứa nào cũng như hùm như hổ, có ai dễ động vào đâu? Anh nghĩ cho cô, tính ra cô cũng cần có người trợ thủ. Sau này, còn nhiều lúc còn phải cần đến anh và cháu!” Thất Xảo phì ra một tiếng, nói: “Tôi mà cần đến anh giúp thì tôi xúi quẩy quá rồi! Tôi rõ cái loại anh quá đi chứ, đấu lại người ta, thì anh đến gặp tôi tính công đòi nợ, đấu không lại người ta, thì anh ngả luôn về bên ấy. Gặp phải quan nha thì mất cả hồn vía, co đầu rụt cổ, bỏ mặc tôi sống chết.” Đại Niên đỏ cả mặt, cười nhạt: “Đợi đến lúc tiền vào tay cô để cô phải lo chia cho anh cô thì giờ hẵng còn sớm chán!” Thất Xảo đáp: “Anh đã biết tiền còn chưa vào tay tôi, sao cứ nhằng nhẵng đến chỗ tôi làm gì?” Đại Niên dằn dỗi: “Không quản đường sá xa xôi đến đây thăm cô, hóa ra là anh chị sai! Về! Chúng ta về! Nói thật nhé, anh có dùng một hai đồng của cô, cũng là đáng thôi, ngày xưa anh mà tham tiền hám của, anh đã đòi nhà họ Khương thêm mấy trăm lạng bạc, bán đứt cô về làm con hầu cho nhà họ rồi.” Thất Xảo nói: “Thì bây giờ làm vợ cả cũng có khác gì con hầu đâu? Anh thả con săn sắt, bắt con cá rô chứ gì!” Đại Niên định vặc lại, vợ liền ngăn, nói: “Anh nói bớt một câu đi! Sau này còn có ngày gặp mặt nhau nữa đấy! Về sau, khi nào bà cô này nhớ đến anh, lúc ấy mới biết mình có mỗi ông anh ruột thôi!” Đại Niên hối thúc vợ sắp xếp lại cặp lồng, xách lên định ra về. Thất Xảo nói: “Tôi thèm vào! Đợi lúc tôi có tiền rồi, tôi chẳng lo là anh không đến, tôi chỉ sợ có đuổi anh cũng chẳng đi thôi.” Tuy mồm nói cứng, nhưng không thể nén nổi tiếng khóc tấm tức, tiếng nào rõ tiếng ấy, một bầu uất nghẹn cả buổi sáng nhân dịp này phát tiết hết ra ngoài.
Bà chị dâu thấy cô ả rõ ràng còn chút lưu luyến, bèn cố sống cố chết khuyên chồng, một mặt vừa ôm vừa dìu cô em ngồi xuống cái ghế hoa lê, phân trần hết nhẽ, Thất Xảo dần dần nín khóc. Anh trai em gái, chị dâu em chồng hàn huyên mấy chuyện nhà. Tình hình miền Bắc coi như đã tạm lắng, cửa hàng dầu mè của nhà họ Tào vẫn kinh doanh như trước. Vợ chồng Đại Niên đến Thượng Hải lần này là vì anh con rể chưa cưới chính thức đang làm quản gia cho nhà người ta, vào thời kỳ Quang Phục thì vừa khéo ở ngay Hồ Bắc, sau đó lại cùng ông chủ loanh quanh một hồi rồi tới Thượng Hải, bởi thế Đại Niên phải đích thân đưa con gái đến đây để thành hôn, nhân tiện qua thăm Thất Xảo. Đại Niên hỏi thăm nhà họ Khương từ trên xuống dưới, rồi lại muốn tham kiến bà lớn, Thất Xảo đáp: “Không gặp cũng chẳng sao, em đang phát bực lên với mụ ấy đây.” Vợ chồng Đại Niên nghe vậy đều ngạc nhiên, Thất Xảo nói tiếp: “Sao không bực cơ chứ? Cả cái nhà này, đứa nào cũng đạp lên đầu em, em mà dễ bắt nạt, em đã bị chúng nó giẫm chết từ lâu rồi, dẫu là như thế, nhưng em vẫn điên hết cả người!” Chị dâu cô nói: “Cô Xảo dạo này có còn hút không, thuốc phiện vừa mát gan lại vừa dẫn khí, chẳng loại thuốc nào bằng. Nhưng cô phải tự giữ sức khỏe đấy, anh chị không ở bên, biết lấy ai quan tâm săn sóc?”
Thất Xảo dốc hòm lấy ra mấy vuông vải loại mới tặng cho chị dâu, kèm theo một chiếc vòng vàng nặng bốn lạng, một đôi trâm cài đầu có hình sen lẩn trong mây, một ruột chăn bông, các cháu gái mỗi đứa được một chiếc móc ráy tai bằng vàng, các cháu trai thì hoặc là một thoi vàng, hoặc là một chiếc mũ ấm bằng da chồn, ngoài ra còn tặng cho anh trai một chiếc đồng hồ quả quýt Cảnh Thái Lam hình con ve vàng, anh chị cô ả nhận quà, cứ cảm ơn rối rít. Thất Xảo nói: “Anh chị đến không đúng lúc, nếu vào lúc chuẩn bị chuyển đi ở Bắc Kinh, những thứ không cầm theo được phải chia ra làm mấy hòm đem cho bọn bảo mẫu a hoàn, bọn ấy đâm ra lại vớ bở.” Nói ra khiến hai vợ chồng ông anh cứ xuýt xoa. Trước lúc ra về, bà chị dâu nói: “Anh chị bận làm xong việc của cháu, rồi sẽ quay lại thăm cô!” Thất Xảo cười đáp: “Không quay lại cũng được, em chẳng tiếp nổi đâu!”
Vợ chồng Đại Niên ra khỏi cửa nhà họ Khương, bà vợ bèn nói: “Cái cô nhà mình sao cứ như biến thành người khác thế không biết? Lúc chưa lấy chồng chẳng qua chỉ hơi cứng đầu một tẹo, nói năng lèm bèm một chút, sau đó đến thăm cô ấy thì tuy có nóng nảy hơn ngày xưa, nhưng cũng vẫn còn có chừng mực, chứ chẳng điên điên dở dở như hôm nay, ăn nói không ra đâu vào đâu, chẳng có chỗ nào nghe thuận tai.”
Thất Xảo đứng ở trong phòng, khoanh tay nhìn hai đứa a hoàn Tiểu Song và Tường Vân khiêng hòm đặt về chỗ cũ, chồng từng cái lên nhau. Câu chuyện ngày xưa lại ùa về: Trước mắt là cửa hàng dầu mè thơm phức trên con phố rải đá răm, tủ quầy đen bóng, trong thùng tương mè cắm một cái muôi gỗ, trên chum dầu treo mấy chiếc thìa sắt to, nhỏ. Cái phễu được cắm vào chiếc bình của người mua dầu, một muôi lớn và hai thìa nhỏ là vừa đầy một bình cân rưỡi. Người quen thì tính một cân bốn lạng. Thi thoảng cô ả cũng ra đường đi chợ, quần vải thô màu lam hạ, may kép một lớp lụa hoa bóng. Sau một dãy móc câu đồng san sát treo những tảng thịt lợn, cô ả trông thấy Triêu Lộc đứng bán thịt trong quầy. Triêu Lộc gọi nịnh cô ả là Tào Đại cô nương. Thi thoảng hắn gọi là chị Xảo, cô ả liền đập lòng bàn tay lên các sống móc, vô số móc câu không văng về phía trước như móc vào mắt của Triêu Lộc, Triêu Lộc gỡ một tảng mỡ lợn to cỡ một thước trên móc xuống, thảy mạnh lên mặt phản thịt, một luồng gió âm ấm phả lên mặt cô, thứ mùi xác chết tanh tưởi... Cô ả cau đôi mày. Người chồng của cô ả đang nằm ngủ trên giường cũng là một tảng thịt không còn sự sống...
Gió lọt qua song cửa, tấm gương dài chạm trổ hoa văn liên hoàn bị thổi đung đưa, va lách cách vào tường. Hai tay Thất Xảo giữ lấy tấm gương. Trong gió, bức rèm trúc và bộ bình phong sơn thủy vàng lục ánh qua gương vẫn rung rinh như cũ, nhìn hồi lâu, liền có cảm giác như say sóng. Khi định thần nhìn lại, sắc xanh của rèm trúc đã nhạt màu, thay cho bức bình phong sơn thủy vàng lục là tấm ảnh thờ của người chồng quá cố, người trong gương cũng đã già đi chục tuổi.
Năm ngoái cô ả đội tang chồng, năm nay mẹ chồng lại mất. Giờ thì chính thức phải đưa ông chú Chín đứng ra chia nhà cho họ, hôm nay là ngày hội tụ mọi thứ ảo tưởng kể từ sau khi cô ả được gả đến nhà họ Khương. Bấy nhiêu năm nay, cô ả đeo đẳng một thứ gông bằng vàng, có điều đến mép vàng cô ả cũng chưa từng cắn tới được, nhưng từ nay về sau thì khác rồi. Thất Xảo vận áo lụa vân trắng, váy đen, song khuôn mặt lại như được đánh phấn, từ khóe mắt hoen đỏ tới gò má nóng bừng. Thất Xảo đưa tay vuốt mặt, khuôn mặt nóng giãy, nhưng người lại lạnh run. Cô ả gọi Tường Vân mang tới một cốc trà. (Tiểu Song đã đi lấy chồng từ lâu, Tường Vân cũng được gả cho một tên người ở). Hớp trà đưa vào miệng, trôi xuống lồng ngực một cách nặng nhọc, quả tim đập thình thịch trong nước trà nóng. Thất Xảo ngồi quay lưng vào tấm gương, hỏi Tường Vân: “Ông Chín cả chiều đến giờ, vẫn ngồi trong phòng lớn kiểm kê cùng Mã sư gia phỏng?” Tường Vân “dạ” một tiếng. Thất Xảo lại nói: “Cậu mợ cả với cậu mợ ba đều không ở đấy?” Tường Vân lại “dạ” một tiếng. Thất Xảo nói: “Còn vào phòng những ai nữa?” Tường Vân đáp: “Còn loanh quanh trong thư phòng của các anh nữa ạ.” Thất Xảo nói: “May mà đống sách của anh Bạch nhà ta không ngại để họ kiểm tra... Năm nay thằng bé này cũng thiệt thòi, bố và bà nội lần lượt qua đời, nó mà còn có tâm trí đọc sách, thì nó không phải là người!” Cô ả uống nốt chén trà, dặn Tường Vân xuống xem xem trong phòng lớn người nhà mợ cả, mợ ba đã đến đủ chưa, kẻo mình đến sớm, tỏ ra sốt sắng quá người ta lại chê cười. Phòng mợ cả cũng vừa khéo sai một đứa a hoàn ra thăm dò, gặp ngay phải Tường Vân.
Cuối cùng Thất Xảo chậm rãi bước xuống dưới lầu. Trong gian phòng lớn đặt tạm một chiếc bàn ăn rộng làm bằng gỗ mun, bên trên là một mặt kính, ông Chín ngồi riêng ở một phía, trước mặt ngổn ngang một đống sổ sách bìa vải xanh, nhãn phớt đỏ, và một chiếc bát uống trà sọc dưa. Xung quanh, ngoài Mã sư gia ra, còn đặc biệt mời thêm một người “họ hàng công tâm”, gần với tính chất của một vị bồi thẩm viên. Mỗi nhà chỉ phái một người đàn ông ra làm đại diện, nhà cả có cậu lớn, nhà thứ cậu hai mất thì mợ hai đứng ra, nhà út thì là cậu ba. Quý Trạch biết là cái ngày tổng kiểm kê này chẳng có ích lợi gì với anh ta, vì thế anh ta đến muộn nhất. Song dù sao thì cũng đã đến rồi, anh ta hoàn toàn không muốn để lộ ra vẻ mặt sốt sắng hay ảo não gì. Trên mặt vẫn là nụ cười đỏ hồng, béo tốt. Trong ánh mắt vẫn là vẻ bất cần đầy phóng túng.
Ông Chín đằng hắng lên một tiếng, thông báo vắn tắt một lượt về tình hình kinh tế của nhà họ Khương, đoạn lại lật sổ sách ra đọc những nhà cửa đất đai trọng yếu hiện có cùng thu nhập hằng năm. Thất Xảo đan chéo hai tay đặt trước bụng, người ngả về phía trước, cố gắng tự mình giải thích từng câu nói của ông Chín, đối chiếu với từng mục trước nay cô ả điều tra được. Nhà ở Thanh Đảo, nhà ở Thiên Tân, đất ở ngoại thành Bắc Kinh, nhà ở Thượng Hải... trong sổ công nợ, khoản nợ của cậu ba kếch xù, sau khi trừ đi một phần thừa kế, anh ta vẫn còn nợ sáu vạn, thế mà nhà mợ cả và nhà mợ hai cũng đành phải chịu, bởi anh ta đã trắng tay. Căn biệt thự kiểu Tây, thứ duy nhất anh ta còn, là mua cho bà dì, cũng đã được đem ra cầm cố. Kỳ dư cũng chỉ còn đồ trang sức hồi môn của bà lớn khi được gả về đây, được chia đều cho ba anh em, phần của Quý Trạch cũng chẳng tiện sung công, bởi đó là chút đồ kỷ niệm mẹ để lại. Thất Xảo đột nhiên kêu lên: “Ông Chín ơi! Chúng con thiệt thòi quá!”
Trong gian phòng lớn vốn im phăng phắc, giờ lại có tiếng xì xào, cứa vào lỗ tai, giống như tiếng lạo xạo sắt gỉ của máy lồng tiếng phim sau khi hỏng. Ông Chín mở tròn mắt nhìn Thất Xảo nói: “Sao? Ngay mấy món trang sức mẹ nó để lại cũng không nỡ cho nó hử?” Thất Xảo đáp: “Huynh đệ tương thân, nợ nần sòng phẳng, anh cả và chị dâu cả đành rằng không lên tiếng, nhưng con thì không thể không vác cái mặt dày này ra nói vài câu được. Con không so được với anh chị cả... Ông chồng quá cố nhà con giá như có tài cán ra làm quan độ hai nhiệm kỳ, của nả dư dả một tí thì con cũng vui vẻ thoải mái thôi, kể cả có xóa hết các khoản nợ của chú ấy hồi trước cũng được. Nhưng ông chồng tội nghiệp nhà con hom hem bệnh tật cả đời, nào có một đồng một cắc nộp quỹ, giờ thì bỏ lại mẹ góa con côi chúng con, trông vào một hai cái đồng tiền tuất sống qua ngày. Con nửa đường đứt gánh, Trường Bạch lại chưa đầy mười bốn, con đường phía sau còn nhọc nhằn lắm ông ạ!” Nói đoạn thì nước mắt ngắn nước mắt dài. Ông Chín nói: “Vậy theo nhà chị thì phải làm sao hử?” Thất Xảo nức nở nói: “Con đâu được phép đưa ra ý kiến gì? Chỉ mong ông Chín cầm cân nảy mực giúp chúng con thôi!” Quý Trạch mặt lạnh như tiền, không lên tiếng, tất cả mọi người trong phòng đều cảm thấy không tiện mở lời. Ông Chín không nén được cơn bực dọc trong lòng, “hừ” một tiếng rồi nói: “Ta phân xử giúp nhà chị đây, chỉ sợ nhà chị không thích nghe! Nhà thứ có ruộng đất nhưng chẳng có người quản lý, nhà ba có người nhưng lại không có đất, ta định kêu anh ba sang quản hộ nhà chị, nhà chị trả cho người ta ít nhiều, chỉ sợ nhà chị không cần chú ấy thôi!” Thất Xảo cười nhạt nói: “Con theo cái ý của ông, chỉ e ông quá cố của con không nghe thôi! Người đâu! Tường Vân đâu! Mau tìm anh Bạch đến đây! Trường Bạch ơi, bố con số khổ lắm! Mới sinh ra đã bệnh tật đầy người rồi, cái đời ông ấy đã ngày nào được sống sung sướng thoải mái đâu, chết đi còn bỏ lại chút máu mủ này, nhưng người ta nào có coi con ra gì, lại còn bày ra trăm mưu ngàn chước tước đoạt của cải của con! Trường Bạch ơi, ai bảo bố con chuốc cho lắm bệnh vào người làm gì, lúc sống thì người ta bắt nạt mình, đến lúc chết rồi thì người ta bắt nạt vợ góa con côi nhà mình! Mẹ thì chẳng hề gì vì mẹ còn sống được mấy năm đâu? Cùng lắm mẹ đến trước linh cữu của bà nói cho rõ ràng mạch lạc, rồi liều cái mạng này là xong. Nhưng Trường Bạch con ơi, con còn nhỏ tuổi, dẫu có ăn đói mặc rách cũng phải sống con nhé!” Ông Chín cáu tiết, đập bàn nói: “Ông mặc kệ! Chúng bay van lơn nài nỉ ông đến đây, chứ ông thích chuốc phiền phức lắm đấy phỏng?” Nói đoạn liền đứng phắt dậy, đá tung chiếc ghế đang ngồi, cũng chẳng đợi ai đến đìu đỡ, ông đã biến mất tăm mất dạng như một luồng gió, mọi người ngơ ngác nhìn nhau, ai nấy lẳng lặng chuồn đi cả. Duy có Mã sư gia còn bận thu gom sổ sách, ra chậm hơn một bước, thấy mọi người trong phòng đã đi sạch, chỉ còn lại mỗi mình mợ hai đang ngồi đấm ngực khóc rống lên, thấy mình cứ thế chuồn đi, coi như không có việc gì xảy ra thì e là không tế nhị cho lắm, đành phải bước lên phía trước, chắp tay khom người nói: “Bà hai! Bà hai!... Bà hai!” Thất Xảo cứ thế lấy ống tay áo che mặt, Mã sư gia lại không tiện gỡ tay cô ra ra, luống cuống gỡ chiếc mũ da xuống quạt cho ráo mồ hôi.
Sự căng thẳng này kéo dài mấy hôm, rốt cuộc người ra vẫn âm thầm chia của theo kế hoạch đã định. Mẹ góa con côi đâm ra vẫn bị bắt nạt.
Thất Xảo dắt con trai Trường Bạch và con gái Trường An ra ngoài thuê một căn nhà ở, rất ít qua lại với người nhà họ Khương. Sau đó mấy tháng, Khương Quý Trạch bỗng nhiên tìm đến nhà. Khi nghe bà người ở thông báo, Thất Xảo có tật giật mình, nghĩ bụng hôm chia nhà đã đắc tội với gã ấy, không biết gã đang định giở trò gì. Nhưng kẻ cắp gặp bà già, làm sao phải sợ hắn cơ chứ? Thất Xảo vận chiếc áo lụa xanh ngày thường vẫn mặc, lại thắt vào chiếc váy lụa đen có dây sắt, bước từ trên lầu xuống. Trái ngược hẳn với sự phỏng đoán của cô, Quý Trạch đứng dậy niềm nở hỏi thăm chị dâu, lại hỏi cháu Bạch đang ở trong thư phòng phải không, chứng phát ban của cháu An đã đỡ chưa. Trong lòng Thất Xảo lại ngờ rằng gã đến vay tiền, càng cảnh giác, bèn ngồi xuống cười nói: “Chú ba dạo này lại phát tài rồi phỏng?” Quý Trạch cũng cười: “Trông tôi giống kẻ vô tư lự hơn.” Thất Xảo cười đáp: “Người có phúc tự nhiên thấy thong thả thôi! Mà chú từ xưa đến nay có bao giờ vướng bận điều gì đâu.” Quý Trạch cười nói: “Đợi tôi bán nhà xong, tôi còn không vướng bận nữa.” Thất Xảo nói: “Cái căn chú đem ra cầm cố ấy đúng không? Chú định bán?” Quý Trạch đáp: “Hồi xưa lúc mới xây, cũng phải bỏ công bỏ sức một chút, những chỗ bài trí toàn là kiểu mình yêu thích cả, đương nhiên chẳng nỡ bán đi. Về sau chị cũng biết đấy, mảnh đất ấy rất được giá, năm kia cho chuyển thành dãy nhà trọ, đi thu tiền thuê từng nhà một, làm việc với cái bọn nhà nghèo, tôi thật sự thấy phiền toái lắm, đâm ra định bán đứt nó đi cho rảnh nợ.” Thất Xảo nghĩ thầm trong bụng: “Chỉ được cái to mồm! Tôi chẳng biết thừa cái trò vặt của chú, lại còn giả vờ ra vẻ đại gia trước mặt tôi nữa chứ!”
Tuy Quý Trạch không than nghèo kể khổ với Thất Xảo, song hễ nhắc tới tiền bạc, cô ả cứ cảm thấy có gì đó nguy hiểm, bèn lảng sang chuyện khác: “Cô ba khỏe không? Bệnh đau lưng còn tái phát không?” Quý Trạch cười đáp; “Tôi cũng lâu lắm rồi không gặp cô ấy.” Thất Xảo nói: “Nói vậy là sao? Cô chú cãi nhau à?” Quý Trạch cười nói: “Lâu nay chúng tôi cũng chẳng cãi nhau lần nào. Bất đắc dĩ gặp nhau nói vài câu cũng là hiếm khi lắm rồi, chẳng rỗi hơi mà đi cãi nhau.” Thất Xảo n