Hoàng đế bán hành và-Ông tổ nghề in là ai?-&-Trạng Bùng, ông tổ nghề dệt Việt Nam
Ngày xưa, nơi miền thôn dã kia có anh nông dân nghèo, nghèo đến nỗi cha già bị bệnh không tiền chạy thuốc. Hôm người cha chết, anh nông dân vác xác cha ra đồng để chôn, rủi vấp té làm xác cha rơi xuống nước cuốn mất tăm. Anh ta tìm mãi không gặp, đành buồn bã trở về nhà.
Đêm đó, anh nằm ngủ, bỗng có một con rồng xanh hiện đến van xin anh hãy đưa xác cha anh đi chôn nơi khác vì hiện cái xác đó vướng vào hàm rồng làm đau đớn vô cùng.
Anh nông dân liền hỏi rồng xanh rằng hiện xác của cha anh ở đâu. Rồng xanh bảo cho anh biết cái xác đó vướng vào khe đá ở ngoài cửa sông, hãy vớt lên vì nơi đó là hàm rồng.
Nói rồi, rồng xanh biến mất.
Ngày sau anh nông dân nhớ lời dặn, đến khe đá ở cửa sông tìm xác cha vớt lên đem đi chôn ở gò cao. Đêm đến, rồng xanh hiện đến vui vẻ cám ơn anh nông dân, rồi tặng anh một lọ thuốc trường sinh, dặn anh hãy cất kỹ và muốn sống lâu thì đem ra dùng.
Anh nông dân liền đem lọ thuốc giấu kín trong buồng không cho ai biết. Ít lâu sau anh lấy vợ. Một hôm có chuyện ra đồng, anh về chậm. Chị vợ ở nhà lục lọi trong buồng chợt bắt gặp lọ thuốc trường sinh. Mở ra xem thì hương bay ngào ngạt, dính vào tay chỗ nào thì chỗ đó trở nên đẹp đẽ khác thường.
Chị vợ liền đem cả lọ thuốc ra sau hè đổ vào nước tắm rửa, người vụt trở nên đẹp như tiên. Anh nông dân về trông thấy thế thì hết sức ngạc nhiên, gạn hỏi. Chị vợ bèn thuật lại đầu đuôi câu chuyện, anh chồng lấy lọ thuốc trường sinh ra xem quả thấy không còn một giọt.
Việc đã lỡ rồi, lại thấy vợ xinh đẹp như tiên nga, anh chồng đã không giận vợ, còn yêu thương vợ hơn trước.
Lúc bấy giờ, dân làng thấy vợ anh nông dân bỗng trở nên xinh đẹp như tiên thì trầm trồ bàn tán, chẳng bao lâu chuyện này loan truyền đi khắp nơi.
Lúc bấy giờ có ông vua háo sắc, nghe đồn về sắc đẹp của vợ anh nông dân, liền cho đòi vào cung, bắt làm cung nữ. Vợ chồng đang tình mặn nghĩa nồng, bỗng bị rẽ thúy chia uyên, họ đành phải quẹt nước mắt chịu cảnh nhớ thương. Nhất là anh nông dân chẳng biết làm sao để giành lại vợ.
Một hôm anh ra sau hè, chỗ vợ anh đã tắm rửa bằng lọ thuốc trường sinh hôm nọ, thấy khóm hành trồng cạnh đó bỗng to lớn khác thường. Anh bèn nhổ hết khóm hành gánh lên kinh vừa bán vừa rao:
Lá bằng đòn gánh,
Cú bằng bình vôi,
Ai mua hành tôi,
Thì thương tôi với...
Hôm đó người vợ ở trong cung, nghe người bán hành rao lên những lời kỳ lạ, nhận ra tiếng của chồng mình, chị liền mừng rỡ cất tiếng cười.
Vị hoàng đế háo sắc từ hôm bắt được người đẹp vào cung, đã tìm đủ mọi cách để làm cho nàng cười, nhưng lúc nào nàng cũng buồn xo, ngày đêm khóc lóc. Bây giờ, thấy nàng vừa nghe người rao hành thì bật cười liền cho quân hầu gọi anh bán hành vào cung rồi bí mật trao quần áo, gánh gánh hành vừa đi vừa cất tiếng rao để người đẹp cười với mình.
Anh nông dân đã thay đổi quần áo đóng vai vua bèn hạ lịnh bắt ngay người bán hành (do ông vua háo sắc giả dạng) đem chém đầu.
Ông vua thất kinh nói thế nào cũng chẳng ai tin nên bị chết chém. Còn anh nông dân được lên làm vua hưởng cảnh giàu sang với người vợ đẹp.
Ông tổ nghề in là ai?Đời vua Lê Thái Tông (1434-1442) ở nước ta có ông Lương Nhữ Học người làng Lục Hồng, tỉnh Hải Dương vốn ham chuộng thơ văn và thích sao lục các văn thơ đời trước. Thuở bây giờ ở nước ta không có nghề in. Người ta thường viết vào trúc vào tre hoặc vào giấy bản. Một áng văn thơ dù hay muốn truyền đi tất phải chép bằng tay thành nhiều bản.
Ông Lương Nhữ Học nghe nói ở bên Tàu có nghề in, nhưng không biết người Tàu làm cách nào để in. Bấy giờ, ông mới tâu với vua Lê cho mình qua bên Tàu tìm học cách in. Người Tàu có tính hay giấu nghề, nên ông Lương Nhữ Học không dễ gì thâu thập cái hay của họ. Ông biết một nơi kia có những thợ in làm việc, ông bèn thuê một căn nhà ở kế bên rồi đục lỗ ở tường, rình xem họ làm việc từng ngày.
Thuở đó, người ta chưa phát minh ra máy in, mọi việc ấn loát đều phải làm bằng tay. Ông Lương Nhữ Học thấy người Tàu khắc chữ vào những bản gỗ rồi thoa mực lên và đem in vào giấy, muốn in nhiều hay ít gì cũng được. Khi đã rõ bí quyết này rồi, ông liền trở về nước dạy dân chúng ở làng Liễu Tràng cưa bào từng bản gỗ rồi dùng mũi dao bén khắc chữ lên gỗ, đoạn đem in thì thấy kết quả tốt đẹp.
Từ đó, việc in bằng bản gỗ bắt đầu xuất hiện và dần dần lan rộng trong dân gian. Người ta gọi đó là thủ ấn phẩm hay thủ ấn họa.
Trạng Bùng, ông tổ nghề dệt Việt NamỞ nước ta vào thời Hậu Lê có một danh sĩ lỗi lạc là ông Phùng Khắc Khoan, người thời bấy giờ gọi là “Trạng Bùng”. Khi vua Lê Thế Tông vừa lên ngôi, con cháu nhà Mạc chạy sang Yên Kinh kêu ca với vua nhà Minh rằng họ Trịnh cướp ngôi của nhà Mạc chớ không phải con cháu nhà Lê phục nghiệp.
Để cho vua nhà Minh biết rõ thực hư, vua Thế Tông liền sai Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan làm chánh sứ, ông Nguyễn Nhâm Thiện làm phó sứ đem ấn tín và lễ vật sang Yên Kinh cầu phong.
Trong chuyến sang Tàu này, lúc qua Ba Thục, Trạng Bùng thấy người Tàu dệt ra những tấm lụa láng bóng trông rất đẹp. Ông liền quan sát cách thức họ kéo tơ, xe chỉ, dệt thành lụa và hình dáng của chiếc khung cửi như thế nào, ông ghi chép kỹ.
Đến sau đi sứ trở về, Trạng Bùng bèn đem những điều mắt thấy tai nghe ra thực hành.
Trước hết ông dạy dân Nam cách trồng dâu nuôi tằm, dần dần đến việc ưởm tơ, xe chỉ và dệt thành những tấm lụa. Từ đó, nghề dệt bắt đầu truyền bá đi khắp nơi trong nước. Dần dần có nhiều làng, dân chúng chỉ sống thuần bằng nghề trồng dâu nuôi tằm và dệt lụa.
Riêng về Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, đã giỏi về văn chương thơ phú, ông còn được dân nước ta coi là ông tổ của nghề dệt.