Chương 7
Ở đó sẽ chỉ còn một đêm và một ngày rưỡi nữa thôi. Hơn nữa, ở New York thời gian trôi nhanh hơn nhiều - anh nghĩ với tâm trạng tuyệt vời trong lúc ngồi đợi suất cà phê sáng bên chiếc bàn được đặt ngoài sân trời cạnh bể bơi của khách sạn.
Sau New York là Paris, còn ở Paris là cô. Cái mà anh cảm nhận lúc này khi nghĩ về cô là một nỗi buồn nhè nhẹ của nỗi nhớ, giống như sự căng thẳng và nóng lòng của đứa trẻ đang đợi cho bữa tối Giáng sinh kết thúc, để cuối cùng thì nó cũng được mở những gói quà dưới cây Noel kia. Chỉ cần phải làm sao để qua được bữa tối này và sau đó thì …
Hôm nay anh đã làm, không hề cảm thấy lương tâm bị cắn rứt, thậm chí còn với sự hài lòng thực thụ, hai việc, mà trong bất kỳ tình huống nào cũng không thích hợp với "một người làm khoa học" có trách nhiệm.
Thứ nhất, khoảng gần trưa, trước bữa cơm, anh đã chuồn khỏi phòng họp mờ tối nơi đang diễn ra phiên họp của anh mà không để ai biết để chạy sang tòa nhà cạnh trung tâm hội nghị. Anh nhất thiết phải được nghe bài thuyết trình của một nhà hóa-sinh học trẻ tuổi của viện nghiên cứu ở La Jolla gần San Diego. Anh đã gặp phải ý niệm trừu tượng của bài thuyết trình này một cách tình cờ trong khi nghiên cứu các tài liệu của hội nghị khi đang ngồi ăn sáng. Và nó lập tức khiến anh chú ý. Cái mà con người trẻ tuổi này với cái họ nghe rất điện ảnh Janda khẳng định, quả là một phát hiện đáng kinh ngạc. Bởi anh ta trình bày rằng, anh ta và Viện của anh ta đang đi trên con đường tốt nhất đến việc chế tạo ra vắc-xin phòng nghiện ma tay cho con người!
Janda không thể tìm cho mình một địa điểm tốt hơn để thông báo cho thế giới biết về phát minh của mình - anh nghĩ.
Ngoài ra thì những gì nhà khoa học trẻ này nói, quả là đẹp tuyệt vời trong sự giản dị của anh, đến mức anh thấy sởn cả gai ốc khi nghe anh ta trong cái phòng chật không còn một chỗ trống ấy. Mọi người cảm thấy đây thực sự là bài thuyết trình quan trọng nhất tại hội nghị này.
Anh không thể chờ để kể hoặc viết cho cô về điều này được nữa. Cô chia sẻ niềm say mê và nhiệt tình của anh bằng sự thông minh của mình như chưa một ai cho đến lúc này có thể. Ngoài ra, cô còn không xấu hổ vì mình không biết, sự tò mò và đòi hỏi bướng bỉnh của cô muốn hiểu tất cả đã khiến anh - vì buộc phải giải thích - nhìn rất nhiều vấn đề từ góc độ khác.
Cocain là một phân tử quá nhỏ để các bộ lọc của hệ miễn dịch của con người có thể ghi nhận nó và tống khứ như với một vị khách không mời. Không bị vào sổ, nó thâm nhập vào hệ thần kinh mà không gặp trở ngại gì. Hệ miễn dịch "không được thông báo" về cuộc đột nhập nên không cử bất cứ một kháng thể nào có thể chiến đấu với nó. Song nếu "treo" cocain lên những protein đủ lớn - và đây chính là ý tưởng thiên tài của Janda và nhóm của anh ta - thì hệ miễn dịch sẽ nhận biết được vật lai này như là kẻ thù và sẽ dùng kháng thể để tiêu diệt trước khi cocain đến được não. Janda khẳng định rằng hiện tại anh ta mới chỉ thành công việc này trên chuột và buộc hệ miễn dịch của chúng tạo ra kháng thể tiêu diệt cocain được định vào những protein lớn trước khi nó đến được các bộ thu nhận của nơtơron thần kinh trong não. Những kháng thể như vậy được tạo ra như một phản ứng của cơ thể đối với, ví dụ như sự có mặt của vắc-xin. Janda đã tiêm vắc-xin được chế tạo trong Viện của anh ta cho chuột rồi sau đó cho chúng cocain. Cocain không đến được các bộ thu nhận trên các nơtơron thần kinh trong não của các con chuột trong phòng thí nghiệm, và kết quả là chúng không cắn lẫn nhau. Đó là bằng chứng tốt nhất về tác dụng của vácxin, bởi những con chuột được tiêm cocain đều biến thành quái vật. Thực ra thì chả cứ gì chuột. Chó cũng hay bị kích động để đánh nhau bằng cocain.
Janda khẳng định rằng việc chế tạo ra loại vắc-xin như vậy đối với con người chỉ còn là vấn đề thời gian.
Vào thời điểm ấy anh không thể không nghĩ đến Jim. Và cả về mình và cuộc mạo hiểm với cocain. Khi ấy, hơn một chục năm trước đây, ở một khu vực khác của thành phố này, khi đã có cocain trong máu, đôi khi anh phân vân trước cơ chế hoạt động của nó. Cái mà nhà hóa học trẻ kia nghĩ ra, đặc biệt là các bộ thu nhận ở các tế bào thần kinh – các nơtơron thần kinh trong não, thỉnh thoảng cũng xuất hiện trong đầu anh. Những bộ thu nhận ấy ở các nơtơron - giống như là ổ khóa của não. Khi chìa không vừa, thì không gì có thể lọt vào trong được. Trừ khi dù nhỏ như phân tử cocain, là loại có thể đi qua bất cứ lỗ nào một cách dễ dàng. Khi ấy, ở Tulan, anh đã biết rõ cơ chế này. Nhưng chưa bao giờ anh có ý nghĩ là sẽ tăng kích cỡ của chìa khóa lên đến mức không vừa được với ổ khóa. Janda khôn ngoan đã nghĩ ra.
Ngoài ra, khi trong phòng hội nghị, "các bộ thu nhận ở các nơtơron" được trình bày rõ ràng, anh lại nhớ tới câu chuyện vô cùng buồn của nữ nghiên cứu sinh trẻ, Candace Pert ở Đại học Tổng họp Georgetown của Washington. Jim cũng biết chuyện này. Kể từ ngày anh kể cho gã nghe chuyện, bao giờ Jim cũng uống một lượt cho "Candace Pert, người phụ nữ biết rất rõ điều xảy ra phía sau màng nhầy".
Chính Candace Pert, trong những năm tám mươi khi nghiên cứu vế cơ chế hoạt động của morphin, rất có công trong cuộc chiến chống lại sự đau đớn, ngay khi còn là sinh viên đã phát hiện ra rằng, trên bề mặt của các notơron có những điểm, mà hình thù và kích cỡ của chúng phù hợp với phân tử morphin. Như thể chìa với ổ khóa. Morphin vào được tế bào chính là qua các điểm này. Và chính bằng cách này mà cơn đau dịu đi.
Từ đâu mà có vẻ như các nơron có cho riêng mình chìa khóa để đến một morphin nào đấy? Tại sao cơ thể lại chuẩn bị cho mình một ổ khóa, mà sự tồn tại chìa của nó lại không thể biết trước? Hay có thể tồn tại những hợp chất giống với morphin về mặt cấu trúc và hoạt động, được tạo nên bên trong cơ thể? Có. Đương nhiên là có. Cũng như morphin, chúng làm dịu cơn đau, tác động lên tâm trạng, tạo nên cảm giác dễ chịu, đôi khi thậm chí là phởn phơ. Chúng có tên là en-dorphin "nội morphin". Hiểu vấn đề này một cách tính ảnh, có thể nói rằng cực khoái, đó chính là sự nhấn chìm não trong các endorphin. Thực ra thì sự sợ hãi của kẻ tử tù ngay trước lúc thi hành án trên ghế điện cũng y như vậy. Trái với vẻ bên ngoài, trong cả hai trường hợp, thành phần hóa học của các hợp chất trong não là như nhau.
Ít người biết rằng, từ phát hiện của Candace Pert đã bắt đầu một câu chuyện hấp dẫn và liên tục cho đến nay về những phân tử xúc cảm. Thực ra là phát hiện của cô ấy đã cho phép nghĩ rằng, con người, đó là hỗn hợp của các nucle-otide, trí nhớ, khát khao và protein. Nếu không có các bộ thu nhận trên các nơron, chắc chắn sẽ không có thi ca.
Candace Pert, cô gái tóc nâu hấp dẫn của Đại học Tổng hợp Washington đã có ý tưởng về các bộ thu nhận như vậy ngay từ năm 1972. Câu chuyện tiếp theo về phát hiện của cô đó là bằng chứng tốt nhất cho thấy, thế giới khoa học có thể hão huyền, đố kị, tàn nhẫn và đầy rẫy âm mưu như thế nào. Anh biết điều này từ kinh nghiệm bản thân, nên câu chuyện của Candace không làm anh bị sốc.
Ngay trước phát hiện của mình, Pert đã bị sếp của dự án, với chức danh giáo sư, được thông báo đều đặn về công việc của cô, ra lệnh ngừng nghiên cứu vô điều kiện vì ông ta khẳng định rằng "những nghiên cứu đó là không có mục đích và dẫn đến con đường mù quáng". Tuy nhiên, chính vị giáo sư này cùng hai người bạn với chức danh không kém đã được đề cử cho giải Lasker danh giá của Mỹ - con đường đơn giản nhất dẫn đến giải Nobel - vì chính những nghiên cứu về các bộ thu nhận của các nơron. Nghiên cứu của cô! Ủy ban giải Lasker hoàn toàn bỏ qua sự có mặt của cô, thậm chí không hể nhắc đến tên cô.
Như chính Pert nhớ lại, cô có thể cho qua việc này và sống với sự hạ thấp đó trong im lặng, "biết rằng đằng nào thì vẫn là của mình", hoặc phản đối. Cô đã không cho qua việc đó. Cô nhớ quá rõ trường hợp của một phụ nữ khác, đã bị người ta ăn cướp kiến thức, uy tín và công lao. Và cô cũng nhớ quá rõ mọi việc đã kết thúc như thế nào.
Anh cũng biết rất chi tiết trường hợp bi thảm của Rosalind Franklin. Làm sao mà có thể không biết cho được. Bởi đó chính là cơ sở gien-sinh hóa của anh.
Rosalind Franklin, cử nhân của trường Cambridge nổi tiếng, đã sử dụng kỹ thuật tinh thể học siêu âm mà khi đó, vào đầu những năm năm mươi còn rất mới mẻ và phát hiện ra rằng ADN, đó là chuỗi xoắn kép giống như một chiếc thang và rằng hai thành của chiếc thang là phốt phát. Giám đốc viện cô, John Randall, đã trình bày kết quả nghiên cứu và cả những suy nghĩ chưa được công bố của người nữ cộng sự trẻ của mình trong một cuộc hội thảo nhỏ chỉ có ba người tham dự, trong đó có James Watson và Francis Crick. Không lâu sau đó, tháng ba năm 1953, Iames Watson và Francis Crick công bố một bài báo nổi tiếng mô tả chính xác cấu trúc của chuỗi xoắn kép ADN.
Tháng ba năm ấy, ngành gien học hiện đại bắt đầu được khởi xướng. Thế giới lặng đi vì ngỡ ngàng. Nhưng không phải tất cả. Khi Watson và Click trả lời phỏng vấn, kiêu hãnh đi vào lịch sử và giữ sẵn cho mình một chỗ trong bách khoa toàn thư thì Rosalind Franklin đau khổ trong im lặng. Không bao giờ cô phản đối và cũng không bao giờ nói trước công chúng về những gì mà cô đã cảm thấy.
Năm 1958, vốn luôn mạnh khỏe, không có bất cứ một xu thế mắc bệnh về gien nào, Franklin bỗng bị ung thư và qua đời sau mấy tuần.
Khi đó cô mới ba mươi bảy tuổi.
Năm 1962, Watson và Click nhận giải Nobel tại Stockholm.
Những phân tử xúc cảm? Những bộ thu nhận nỗi buồn dạng chuỗi mở đường đến đột biến tế bào ung thư? Theo Pert, và bây giờ thì cả các nhà miễn dịch học, thì nỗi buồn và nỗi đau có thể giết người chẳng khác gì virút.
Vậy là Candace Pert đã không bỏ qua được việc bị người ta ăn cướp mất những gặt hái của mình. Cô đã phản đối. Vị được gắn mác giáo sư đã không được giải Nobel và đã bị rơi vào quên lãng. Còn cô đã trở thành người có thẩm quyền.
Vừa nghe bài thuyết trình của Janda anh vừa nghĩ về chuyện ấy và phân vân, không biết Janda có biết rằng nếu không có Candace Pert thì cũng không có anh ở đây, trong phòng chật kín người này.
Ngoài việc trốn đi nghe bài thuyết trình về vắc-xin chống cocain, trong ngày cuối cùng của hội nghị ở New Orleans anh còn làm một việc nữa tồi tệ hơn nhiều: nói dối là bị ốm để không tham dự buổi dạ hội kết thúc hội nghị. Anh khống muốn lại thêm một lần phải nghe tất cả những bài phát biểu không thay đổi từ nhiều năm nay, rằng ai là người có nhiều công lao và ai đánh giá điều đó hoặc là "cuộc gặp gỡ đã thành công tốt đẹp" và "trước mắt chúng ta là những thách thức mới như thế nào". Hội nghị quốc tế về gien học ở New Orleans, về mặt này cũng chẳng khác gì một đại hội hợp tác xã địa phương ở Làng Mới.
Anh cũng không muốn một buổi tối với sự có mặt của những bà vợ khả kính và nhạt phèo của các vị giáo sư cũng chẳng khác gì các bà vợ của họ, đã từ lâu rỗi chẳng có gì để nói và họ cứ đi hết hội nghị này đến hội nghị khác và bằng cách đó cắt dần những ô phiếu vinh quang và huy hoàng của mình đã từ lâu vàng ố.
Anh muốn chia tay với New Orleans theo cách của mình. Ăn tối ở một nhà hàng nhỏ có tên Evelyn's Place ở chỗ cắt giữa phố Iberville và Charters Street. Đối với người hay lui tới thành phố này thì đây là một của hiếm thực thụ của ẩm thực địa phương. Chỉ có những người đặc biệt quan tâm mới biết. Ngoài ra, toàn bộ thời gian ở đó là Happy Hour. Gọi một tequille, sẽ được ba mà không phải trả cho hai chai còn lại. Điều này tác động tuyệt vời đến không khí của phần nội thất đúng ra là cáu bẩn. Sau lượt đầu tiên bạn sẽ không để ý đến điều đó nữa. Sau lượt thứ hai bạn bắt đầu thấy nó đẹp. Thỉnh thoảng ở Evelyn's Place xảy ra điều mà không xảy ra ở nơi nào khác của New Orleans, Evelyn kéo - chủ yếu là trước Mardi Gras - cô em của mình, là người duy nhất, theo như Evelyn, "rời bỏ gett bởi có não và không thích ẩm thực" đến. Sinh viên của nhạc viện Detroit, học lớp violin, đặc biệt tài năng, đã nhận nhiều giải thưởng trong các cuộc thi ở châu Mỹ. Khi đến cái câu lạc bộ đầy khói của bà chị, cô quên luôn các phòng hòa nhạc và Detroit. Cô tết tóc như một cô gái Rastaman (°) và chơi jazz và blues. Bằng violin! Nghe mà có cảm tưởng như Marvin Gaye hát blues.
Thực ra thì Evelyn, mà địa điểm này thuộc về cô, cũng là một hiện tượng. Một Phụ nữ Da đen đẫy đà với nụ cười của thiên thần chơi bộ gõ "ngoài giờ" trong nhóm nhạc jazz dixieland (thuộc về các bang miền Nam nước Mỹ). "Trong giờ" thì cô phải nấu nướng cho khách. "Phải" là một từ không hay. Bởi Evelyn cho rằng - anh biết điều này vì nghe lỏm được câu chuyện của Jim và Evelyn trong một lần họ cùng đến đây cách nay đã khá lâu - tốt hơn nghệ thuật nấu ăn chỉ còn có "nhạc jazz hay và những cuộc làm tình kéo dài". Ngoài ra, lần nào Evelyn cũng nhắc lại rằng thế giới có ý nghĩa kể từ khi có nhạc jazz, và đã trải qua ba cuộc cách mạng: Kopernik, Einstein và tìm ra gumbos, một loại súp rau cay từ rau có tên okra, được cho vào đậu đỏ cùng với gia vị cajun. Không đâu ở New Orleans nấu được món gumbos và đậu đỏ như ở Evelyn's Place. Tối đến, khi nhà hàng rộn ràng sống động và và quay cuồng trong tiếng cười, thỉnh thoảng có thể thuyết phục Evelyn chơi trống sớm. Khi ấy cô đeo găng tay trắng đến khuỷu, sửa lại trang điểm, ngồi trên ghế xoay cạnh lối vào bếp và đánh trống. Cô chơi cho đến khi có ai đó phải xin cô dừng lại. Khi Evelyn đánh trống, Jim thường hay ra sân phía sau nhà hàng. Gã không khoái jazz. Anh nhớ có lần gã đã nói đùa rằng "jazz là sự trả thù của những người da đen đối với người da trắng vì sự nô lệ". Mặc dâu vậy họ vẫn đến nơi này rất đều đặn.
Từ những ngày ấy, ở đây chẳng có thay đổi gì đặc biệt ngoài việc Evelyn béo hơn chừng mười lăm cân gì đó.
CÔ : Tiếng sột soạt ngoài cửa đã đánh thức cô dậy. Tiếng trẻ nô đùa ngoài vườn lọt qua cửa sổ để mở. Một ngày nắng. Cô run vì lạnh. Cô nhận ra mình đã ngủ khỏa thân, không đắp gì trong khi điều hòa chạy suốt đêm. Chăn rơi trên sàn nhà cạnh cửa sổ. Cô dậy, đi ra cửa. Dưới khe cửa có một phong bì màu ô liu. Cô cúi người xuống nhặt. Cười, ép chiếc phong bì vào người và đi vội về giường. Khi cô vừa lôi ra bản in bức e-mail của anh thì có tiếng điện thoại. Asia. - Như mình biết cậu thì vẫn nằm trên giường phải không? Tất nhiên là cậu không quên hôm này là ngày Renoir? – nó hỏi bằng một giọng rất lạ. Tất nhiên là cô quên. Nhưng không tiết lộ và im lặng nghe Asia.
- Bây giờ thì cậu dậy đi, rồi ra ga Ecole Militaire và đi đến Solferino; cậu chuyển tàu ở Concorde. Khi nào xuống tàu và đi lên trên, cậu sẽ nhìn thấy trước mặt phòng đợi của nhà ga cũ ở đấy có bảo tàng d'Orsay. Cậu nhớ hết chưa? Ga Solferino. Mình đang xếp hàng mua vé ở đây từ năm giờ sáng và đã làm quen với một tay ngrười Venezuela, một cô gái người Birma và bốn người Czech, đứng ngay sau mình. Dân Czech đến đây với một thùng bia. Khoảng bảy giờ sáng họ đã bắt đầu mở chai. Lúc đầu mình không thể nhìn cảnh ấy. Brr… Bia trước bữa sáng. Nhưng khoảng tám giờ, mình đã uống cùng với họ mà chưa ăn sáng. Chắc cậu nhận thấy qua giọng mình chứ? Ôi, Chúa ơi, mới tuyệt làm sao. Renoir ở khắp sảnh đợi trong nhà ga của Paris, còn mình; sau năm chai vào chín giờ sáng. mình muốn giữ mãi trạng thái này. Nhưng cậu đừng có mang theo máy ảnh.. Vì đằng nào thì cũng không được chụp ảnh đâu. Chỉ có điều cậu nhất định phải đến, mình muốn cậu cũng được tận mắt nhìn thấy cảnh này. Tụi mình sẽ có cái để mà nhớ cho đến cuối thế kỷ. Mình đã cố túm Alicja. Đã mấy lần gọi đến phòng nó. Cho đến khi tay thường trực người Ba Lan tiết lộ rằng nó không có ở đấy. Từ hôm qua, sau bữa tối. Bến Solferino, nhớ nhé. Cậu phải đến ngay. Bây giờ thì mình quay lại với mấy ông người Czech đây. - trước khi cúp máy, nó còn nói thêm: - Cậu phải nghe mình. Đừng có dừng lại dưới bất cứ hình thức nào ở quán cà phê Internet cạnh Militarie đấy. Lần cuối cậu bảo ra đấy năm phút, mà ở lại đến hai tiếng. Cậu sẽ viết cho anh ta sau, bất kể đó là ai, khi chúng mình đi xem triển lãm về. Cậu hứa không? Hứa đi! Lại thêm một lần cô nghĩ rằng Asia quả thật độc đáo. Về nguyên tắc thì cô không muốn để Jakub biết Asia. ở một mức độ nào đó họ hợp nhau một cách nguy hiểm. Cô chạy vào phòng tắm. Tắm rất nhanh. Cô mặc một cái quần lửng trắng, bó sát và áo phông đỏ hở rốn. Không mặc nịt vú. Thấy trước một ngày nóng không kém gì hôm qua. Cô nhét vào ví xách tay tóm lại là tất cả số đồ trang điểm. Mình sẽ trang điểm trên tàu điện ngầm - cô nghĩ.
Tay trực lễ tân không thề rời mắt khỏi ngực cô khi cố chạy, tóc vẫn còn ướt, xuống cầu thang đến Restaurant để ăn sáng. Anh ta rời quầy lễ tân, đi theo cô đến Restaurant. Trong một khách sạn nhỏ như ở đây thì người trực lễ tân cũng là chạy bàn. Ít nhất cũng trong giờ ăn sáng.
Anh ta đang cầm bút chì và sổ để chờ cô gọi món. Cô gọi cà phê và bánh croissaint (°) với mật ong. Khi anh ta đi ra, cô để tất cả lại và chạy lên phòng. Lấy cái máy nghe CD xách tay của mình để trên bàn ngủ, tìm thấy trong vali đĩa mới nhất của Van Morrison rồi quay lại bàn ăn. Cà phê đang chờ cô. Bên cạch tách cà phê là số International Herald Tribune mới nhất. Không có tay trực lễ tân. Cô đẩy vội tờ báo ra xa để không nhìn ngay cả các tiêu đề.
Mình không tự phá hỏng tâm trạng bằng những thông tin về thế giới - cô nghĩ. Cô đeo tai nghe. Chọn Have I told lately that I love You, một đoạn Morrison yêu thích của mình.
Không chỉ Asia mời có thể được chuẩn bị về nội tâm để đến với Renoir - cô nghĩ.
Cô cũng thế. Âm nhạc có rồi. Giờ thì lo đến hóa học.
Tay trực lễ tân xuất hiện với croissaint nóng còn đang bốc hơi. Cô tắt nhạc và tháo tai nghe. Cô nhận thấy anh ta vẫn nhìn trộm ngực cô.
- Anh có thể cho thêm một tách cà phê nữa được không? Nếu được, thì anh có thể rót vào đó một ly whisky Ireland được không?
Anh ta cười hỏi: - Hai mươi nhăm, năm mươi hay một trăm mililít? Nếu một trăm thì chị sẽ có cà phê trong whisky chứ không phải là ngược lại.
- Thế còn anh thì nghĩ sao, bao nhiêu thì tốt hơn cho tôi? - Theo tỷ lệ hai mươi nhăm mililít whisky trong cà phê và một trăm champagne trong ly với dâu tây. Champagne là tôi mời dự. Renoir cũng uống champagne. Và thường là trong bữa sáng. Hôm nay ở Orsay chị hãy để ý xem có bao nhiêu chai trên bàn trong bức tranh nổi tiếng Bữa sáng của những người chèo thuyền của ông ta.
- Thế cơ đấy. Anh biết hết về tôi còn gì. Anh đọc và viết e-mail của tôi, anh biết rằng tôi cần Internet còn bây giờ anh biết cả việc một lúc nữa tôi sẽ đi gặp Renoir. Từ đâu vậy, nếu anh có thể nói? - E-mail là tôi có của chị gửi đi hoặc gửi đến cho chị, Internet thì từ mấy tháng nay tôi cần như oxy nên tôi suy ra chị, vì chị hợp với người mẫu, còn Renoir? Tôi biết được từ bạn gái của chị. Trước khi tôi nối máy của chị ấy với phòng chị, chị ấy đã kể cho tôi nghe gần như tất cả về cuộc triển lãm ở d'Orsay, sau đấy chị ấy còn dọa tôi rằng nếu chỉ không nhấc máy thì có thể chị bị xỉu ở trong phòng và tôi phải lập tức đến đấy. Chị ấy thật ngọt ngào khi nói dối. Chỉ có thể nói với chị ấy như vậy.
Nói xong anh ta ra quầy bar. Một lúc sau anh ta mang đến một tách cà phê, một ly với quả dâu tây bơi trong champagne sủi bọt và một đĩa thủy tinh dâu tây rắc bột dừa. Anh ta đặt tất cả trước mặt cô và nói:
- Chị có cả một ngày tuyệt đẹp ở phía trước. Hai hôm trước đây tôi đã nhìn thấy triển lãm này. Renoir là người theo trường phái ấn tượng duy nhất chỉ vẽ vì sự thích thú, vậy chị sẽ đặc biệt thích thú ở d'Orsay. Nếu hôm nay không phải làm việc, tôi sẽ hỏi xem có thể đi cùng dự được không. Nhưng hôm nay tôi sẽ hoàn toàn không ngắm các bức tranh. Trước khi đi, anh ta lại gần chiếc ghế chị đang ngồi, sửa lại những bông cúc trong chiếc bình gốm nhỏ cạnh ly champagne trên bàn chị và nói:
- Hơn nữa, trông chị tuyệt đẹp với mái tóc ướt và không trang điểm.
Thật tốt biết bao khi anh ta nói lên điều đó - cô nghĩ với lòng biết ơn. Bởi cô đang muốn "trông tuyệt đẹp" và cho cả thế giới biết điều đó. Đặc biệt là lúc này, ở đây, ở Paris này trong mấy ngày sắp tới. Việc này đáng giá cả một gia tài, nhưng cô đã đăng ký từ Warszawa, tất nhiên là qua Internet, giờ đến thợ làm tóc ở Paris. Chỉ cách khách sạn của họ vài con phố. Một ngày trước khi anh đến.
Cô ăn hết croissaint. Cà phê rất ngon với vị đăng đắng của whisky. Sau khi uống cạn champagne, cô dùng ngón tay lấy quả dâu tây trong cốc và chậm rãi cho vào miệng. Cô cảm thấy nhờ tách cà phê thứ hai và ly champagne mà cách nhìn nhận thế giới của cô bắt đầu gần với của Asia. Điều này thật tuyệt vời cô nghĩ. Bởi họ sẽ có những kỷ niệm chung từ cuộc triển lãm này cho phần còn lại của thế kỷ sắp kết thúc.
Ôi Chúa ơi, lúc này cô muốn được chạm vào môi anh biết bao. Chỉ chạm thôi - cô nghĩ. - Lại bắt đầu rỏi. Mình uống cái thứ cồn này để làm gì cơ chứ?!
Cô đứng dậy rất nhanh, đeo tai nghe và xoay núm âm lượng của máy nghe. Lúc này cô cần nhạc to và nhất thiết phải là Van Morrison. Đi qua phòng ăn ra cửa, cô giơ tay và không quay đầu lại, vẫy những ngón tay để tạm biệt. Cô cứ cho rằng tay trực lễ tân đang quan sát cô. Đến cửa, cô bất ngờ quay lại. Cô đã có lý! Anh ta nhìn theo cô.
ANH: Sau bữa tối anh bắt đầu lang thang qua các câu lạc bộ, các quán bia và nhà hàng thuộc khu Pháp của New Orleans. Như ngày nào. Nhưng không còn như những ngày xưa nữa. Giờ đây anh phải tìm lại niềm vui và sự vô tư ấy. Thời đó lúc nào anh cũng cảm nhận được chúng.
Như hồi ấy, đi qua đèn neon ở cửa vào một trong số các câu lạc bộ ban đêm, anh dừng lại mở chai bia đã được cơ thể làm ấm lên trong túi quần sau. Cuộc sống đó là khát khao. Những gì còn lại chỉ là chuyện nhỏ - dòng chữ nhấp nháy từ chiếc đèn neon cong cong.
Anh nghĩ rằng thành phố này có thể được định nghĩa chính xác bằng nội dung từ cái đèn neon ấy. Quả là mọi người đến đây để dù là chỉ trong vài ngày thực hiện khát khao của mình. Thậm chí cả khi họ không ý thức được hết điều này.
Những gì còn lại chỉ là chuyện nhỏ - anh nghĩ và cười thầm.
Anh về khách sạn vui vẻ và phấn chấn. Khoảng một giờ sáng anh ra khỏi câu lạc bộ Razoo có máy lạnh trên góc phố Bourbone và Vaness và rơi ngay vào màn đêm ẩm và ngột ngạt của New Orleans. Mặc dầu vào ban đêm, nhưng vẫn nóng khoảng 36 độ với độ ẩm lên đến 93 phần trăm. Phố nhộn nhịp. Đám đông sặc sỡ những du khách hò la bằng tất cả các thứ tiếng có thể, di chuyển như một đám diễu hành trên Bourbone Street, dừng lại bên cửa các câu lạc bộ và nhà hàng có tiếng nhạc lọt ra.
Thế giới thay đổi, nhưng may mắn thay Bourbone Street không thay đổi. Vẫn điên cuồng y như trước - anh nghĩ. Hẳn vì thế mà ở đây bao giờ cũng biết bao là người.
Anh đi qua hai ngã tư, rẽ sang Conti Street và đến Dau-phine Street. Chẳng mấy chốc anh đã đứng trước khách sạn, một tòa nhà hai tầng theo kiểu thuộc địa, có nho leo và được trang trí bằng mấy lá cờ Mỹ lớn được chiếu sáng bóng đèn pha đặt trên sân thượng của ngôi nhà bên kia đường. Những ngôi sao trên cờ nhấp nháy bởi những bóng điện màu xanh. Anh cười một mình, lại thêm một lần nghĩ rằng người Mỹ đôi khi vui nhộn và nhắng nhít một cách ngây thơ trong chủ nghĩa yêu nước của mình.
Đi qua quầy lễ tân trong sảnh lớn có máy lạnh, lấy chìa khóa từ người trực lễ tân đang ngái ngủ, anh đã định lên phòng, nhưng đột nhiên nghe thấy tiếng nhạc từ hiên phía nam của khách sạn. Anh do dự một lúc, không biết có nên đến đó không. Sáng sớm anh bay đi New York. Anh đã hình dung ra nỗi khổ sở khi chuông báo thức reo. Mặc dầu vậy anh vẫn nghĩ rằng hôm nay mình sẽ đi uống lần cuối và nghe loại blues ấy. Chỉ một lúc thôi. Anh quay lại ở giữa chừng cầu thang và đi ra hiên.
Đó là một sân trời điển hình của những gia đình thuộc địa giầu có trong Khu Pháp, có đài phun nước nhỏ bằng đá ở giữa bể bơi hình ô-van được phủ một lớp đầy huệ trắng, là thứ hoa chỉ có thể mọc to đến thế trong khí hậu này. Dưới chân tường nhà là một quầy bar nhỏ, được chiếu sáng chỉ bằng những chiếc đèn mô phỏng những ngọn nến, xung quanh có mấy cái bàn tròn mặt đá trắng và những cái ghế kim loại nhỏ có phần tựa rất vui mắt. Một cây cọ to, tán lá che cho chiếc đèn dùng để chiếu sáng, một sàn nhảy nhỏ ở phía sau đài phun nước. Một chiếc đàn piano trắng ở phía quầy bar. Một thanh niên da đen trong chiếc kimônô đen và chiếc sơ-mi trắng được trang trí hình con ruồi đen đệm đàn cho một phụ nữ da đen đứng tuổi, đẫy đà, mặc chiếc váy óng ánh dài chấm đất. Mặc dù trời tối, chị ta vẫn đeo cặp kính râm to. Chị ta hát blues.
Bên cạnh piano là những chiếc trống của bộ gõ, không có ai ngồi ở đó, nhưng ngay gần đấy là một thanh niên da trắng muốt ngồi trên sopha, ghi- ta để trên đùi và uống drink.
Ngoài hiên, bản blues mẫu mực Bring it home to me đã kết thúc. Im lặng một lúc. Jakub đến chỗ quầy bar, gọi whisky với soda và đá rồi ra ngồi bên chiếc bàn gần piano nhất. Người chơi ghi-ta đột ngột đứng dậy, ra hiệu cho nữ ca sĩ, chị này rút micrô ra khỏi giá. Anh ta bắt đầu chơi. Jakub hiểu ngay, đó là gì.
Anh chậm rãi nhấm nháp whisky, nghe và tự nhiên bắt đầu lắc lư theo nhịp điệu của âm nhạc. Bỗng một cô gái da trắng mặc chiếc chân váy nâu sát đất, áo đen hở bụng đi ra sân khấu. Cô ta đi giầy đen cao gót, tóc đen dài ngang vai. Tay trái cầm một cái cốc thủy tinh to đầy một nửa.
Anh đã để ý thấy cô ta từ trước, lúc gọi đồ uống ở quầy. Bụng và mặt cô ta, da trắng như thạch cao hoàn toàn không được tắm nắng, đôi môi đầy đặn ngăn cách với mặt bởi màu đỏ sẫm của cô ta đã khiến anh chú ý. Cô ta ngồi tư lự, không nói gì ở bàn bên với một thanh niên mặc complê mặc dù trời nóng, tay cầm điện thoại di động. Họ ngồi cùng với một đôi khác. Cô gái thứ hai có mái tóc nâu dài đến vai với những lọn tóc được tết lẫn với những sợi len đủ màu sắc. Cô này mặc quần ngắn, để lộ ra cặp chân dài khác thường. Chiếc áo phông đen bo chật, căng trên bộ ngực của cô ta và kết thúc cách rốn một đoạn xa. Anh bạn trai của cô ta cao, mảnh dẻ, tóc nâu sáng, mặc áo phông thể thao trắng để hở những bắp thịt rất ấn tượng và một hình xăm màu xanh - đỏ bên bắp tay trái. Họ cầm tay nhau, thầm thì điều gì đó vào tai nhau và cứ chốc chốc lại phá lên cười. Nhìn họ có vẻ là người châu Âu và rõ ràng là bộ tứ ấy đi cùng nhau.
Cô gái trên sàn gỗ bắt đầu chậm rãi nhún nhảy. Mắt nhắm và cái cốc lúc nào cũng ở trong tay.
Rock me baby, rock me all night long...
Blues càng lúc càng nhịp nhàng hơn. Bỗng nhiên cô ta đến chỗ Jakub, nhìn vào mắt anh, cười, không hề hỏi xem anh có đồng ý không, đặt cốc của mình cạnh cốc của anh, và những ngón tay cô chạm nhẹ vào cổ tay trái anh. Cô ta trở lại sàn gỗ.
Rock me baby, and I want you to rock me slow, I want you to rock me baby till I want no more...
Mông cô ta nâng lên, hạ xuống, xoay vòng và uốn lượn. Thỉnh thoảng, để làm cho chuyển động của mông mạnh hơn, cô ta đặt tay lên chúng rồi đẩy ra phía trước. Miệng hơi hé và lưỡi khẽ đẩy ra.
Rock me baby, like you roll the wagon whell, I want you to rock me, baby, you don't know how it makes me feel…
Cô ta lại đến gần bàn anh, đứng đối diện anh. Không rời khỏi chỗ cô ta chỉ nhịp nhàng lắc mông. Tay phải đặt lên ngực trái, giống như lính thủy đánh bộ Mỹ khi nghe quốc ca, còn tay trái đặt lên môi. Anh nhìn rất rõ ngón tay đeo nhẫn chầm chậm đưa vào miệng rồi lại đưa ra của cô ta như thế nào.
Anh bỗng cảm thấy xấu hổ và theo bản năng, ánh mắt trốn chạy sang bên cạnh. Anh để ý thấy cố gái tóc vàng ngồi lên đùi cậu bạn trai xăm tay; cả hai lắc người theo nhịp điệu của âm nhạc. Cô ta duỗi cặp chân dài, thả dọc theo chân anh bạn và cọ xát hông anh ta khi nhảy blues cùng anh ta ở tư thế ngồi. Anh ta ốm cô ta ở đoạn bo của cái áo phông ngắn, rìa bàn tay chạm vào bộ ngực không có nịt của cố ta, nhô lên rất rõ dưới lần áo. Chỉ có người đàn ông trong bộ complê xám là không chú ý đến ai khác, chỉ mải nói chuyện.
Want you to rock me baby till I want no more...
Anh say sưa nhìn cô gái đang nhảy. Không nghĩ rằng lại có thể nhảy blues đẹp đến thế. Anh nhìn quanh. Tất cả đều nhìn cô ta. Đàn bà cũng như đàn ông, đều tò mò và ngạc nhiên như nhau.
Thông thường thì đàn bà rất ghét những phụ nữ gây sự chú ý của đàn ông bằng sự gợi tình rẻ tiền và dung tục. Họ cho rằng sự rẻ tiền và dung tục ấy sẽ dẫn tới việc thối phồng sự ganh đua chung đối với tất cả phụ nữ trong các mối quan hệ với đàn ông. Mặt khác, họ lại cực kỳ thống nhất trong sự ngạc nhiên, khi sự gợi tình ấy đạt được mức tinh xảo thực sự. Với cô gái nhảy với trí tưởng tượng như vậy thì không thể không nói đến sự tinh xảo ấy. Thậm chí cả khi phải ghen với cô ta vì sự chú ý, vì sự tưởng tượng mà cô ta tạo ra, dù có thể ngạc nhiên về cô ta mà thôi.
Anh nghĩ rằng những người đàn ông có mặt ngoài hiên không nghĩ đến việc cô ta có khiến họ ngạc nhiên hay không. Anh cho rằng nói chung họ chẳng nghĩ gì hết. Tối đa thì họ cũng chỉ tha hồ mà tưởng tượng. Và chủ yếu là về một chủ đề.
Bỗng nhiên cả anh nữa, cũng nghĩ về tình dục.
Với một ngoại lệ duy nhất - khi "dụ dỗ" cô trên mạng trong quán bar đêm của cái khách sạn ở Warszawa ấy - những buổi trò chuyện với cô chưa bao giờ đề cập trực tiếp đến tình dục. Cô đã có chồng - do đó mà anh không thể nói về đế tài này mà không cảm thấy có lỗi hoặc một sự bất an trong lòng. Anh không muốn rơi vào cái bẫy tầm thường của tam giác hôn nhân. Trên mạng, nơi không phải chịu những cám dỗ của sự gần gũi như mùi nước hoa, một bàn tay ấm áp hay giọng nói run rẩy, thì điều này dễ thực hiện hơn nhiều. Rất dễ để giữ mối quen biết ở mức độ một tình bạn đầy ắp thân thiện với những câu tán tỉnh mập mờ. Cô không cần phải tuyên bố gì hết trong khi vẫn giữ được, ít ra thì cũng về mặt hình thức, thân phận của một người bạn ảo "không làm điều gì xấu". Vế mặt hình thức, anh không có lý do để thất vọng vì không có ngoại lệ, khi kể về những sự kiện trong cuộc sống của mình, cô thường dùng số nhiều. Họ quan hệ với nhau theo một phương thức được kiểm soát sao cho có thể biểu thị sự sẵn sàng đi đến một tuyên bố, nhưng đã không có bất kỳ một tuyên bố nào cả. Vì sự thanh thản của lương tâm.
Nhưng trong mối quan hệ của họ, nhục thể xuất hiện hầu như trong mỗi câu chuyện trên ICQ và hầu như trong mỗi bức e-mail. Trong những đoạn viết về những sự kiện hay tình huống mang ý nghĩa kép, họ lén lồng vào những khát khao và mong ước rất đơn nghĩa của mình. Anh tin chắc rằng những cuộc gặp gỡ trên mạng của họ còn có nhiều những đụng chạm tình cảm hơn là những cuộc gặp gỡ của nhiều đôi gọi là bình thường trong những tối tháng năm trên ghế đá công viên. Họ nói về tình dục nhưng chưa bao giờ gọi theo tên của nó.
Bây giờ ở Paris, tất cả những điều này - cuối cùng - phải thuộc về quá khứ Một mặt, ý nghĩ về cuộc gặp, mà nó phải đến, kích thích như đoạn đầu của một giấc mơ tình ái, mặt khác nó lại, sinh ra cảm giác căng thẳng và bất an. Ở Paris, sau cánh cổng của sân bay, tưỏng tượng là có thể qua đi cùng với hiện thực. Những gì đã có giữa họ, phát triển trên cơ sở của sự mê hoặc bằng lời nói hoặc ý nghĩ được thể hiện qua những con chữ. Do đó mà hẳn nó luôn luôn mãnh liệt dữ dội đến thế là bởi không có cơ hội đề được thỏa mãn một cách thật sự.
Anh cảm nhận sự quyến rũ của cô mà không nhìn thấy cô. Không chỉ một lần anh đã hưng phấn đến mức độ bị cương cứng khi đọc những dòng cô viết. Tình ái đó luôn là tác phẩm của trí tưởng tượng, song với phần lớn mọi người thì là trí tưởng tượng được thôi thúc bởi nhục dục nào đó. Trong trường hợp của anh, phần nhục thể trong cô giống như những bài thơ tình ái của một tập thơ. Thêm vào đó, có một ai đó vẫn luôn viết tập thơ này.
Bao giờ anh cũng thích những bài thơ tình ái. Anh thích cả học thuộc chúng nữa. Từ thời học phổ thông trung học, anh đã nhớ hàng chục bài thơ Ba Lan, cộng thêm vài bài của Rilky. Bằng tiếng Đức! Những đấy là mãi gần đây, khi anh bắt đầu "cảm nhận" được tiếng Đức, thậm chí anh còn mơ bằng tiếng Đức. Trước đây anh cứ tưởng rằng tiếng Đức là để dành cho la ó hơn là cho thơ ca. Đó chắc là một hành trang lịch sử thừa của Ba Lan.
Anh nghĩ vậy khi uống những cốc whisky tiếp theo và nhìn cô gái nhảy trên hiên của Dauphine Hotel ở New Orleans. Anh hơi nhầm lẫn giữa tình ái và tình dục. Đấy chắc là bởi thứ rượu này, bởi cô gái này và bởi âm nhạc này.
- Đúng thế, cơ bản là bởi âm nhạc này! - anh nghĩ.
Từ hơn chục năm nay, âm nhạc, không nhất thiết phải là blues, thường khiến anh liên tưởng đến tình dục. Có một phụ nữ đã dạy anh điều này, lâu lắm rồi.
Thậm chí có khi còn trước cả khi anh đến New Orleans. Anh nhận được học bổng của Bộ cho các nghiên cứu trong khuôn khổ dự án chung của trường Wroclaw của anh với Đại học Tổng hợp Dublin ở Ireland.
Khi anh đến, đang là mùa xuân xám, lạnh và mưa ở Dublin. Anh làm việc trong trung tâm máy tính của khoa Gien học tại khu vực phía đông của trường, năm gần như giữa trung tâm Dublin. Anh ở phòng khách trong khu vực trường nó khiến anh nhớ đến một mê cung gớm guốc của những tòa nhà bằng gạch đỏ nối với nhau. Người ta bảo anh rằng từ phòng anh, có thể đi theo các hành lang để đến phòng thí nghiệm máy tính mà không cần phải ra ngoài. Một lần, vào buổi tối, anh thử làm điều đó, nhưng khi rơi vào phòng giải phẫu hôi mùi naptalin và ẩm ướt với những cái xác trần truồng trên những chiếc bàn kim loại của khoa y, thì anh quyết định sẽ để cho mình được yên thân.
Suốt tháng đầu, anh làm không kịp thở. Anh bị rơi vào trạng thái thôi miên đầy hưng phấn. Trong ba tháng, nhờ có tiền của ONZ, anh. để lại "bảo tàng" của mình ở Ba Lan, nơi mà muốn sử dụng máy photocopy phải viết đơn lên trưởng khoa, và đến với thế giới mà ở đó những chiếc máy photocopy có mặt trong sảnh của nhà ăn của trường. Làm sao mà có thể không hưng phấn cho được?
Về nguyên tấc, anh chỉ di chuyển theo một lộ trình, từ phòng làm việc của anh trong trung tâm máy tính, qua nhà ăn, ở đó anh ăn vội bữa trưa, đến phòng anh, nơi anh đi ngủ vào hai giờ đêm, mệt bã và hưng phấn vì ngây vừa qua, để rồi bảy giờ sáng đã dậy. Mãi sau một tháng, anh mới nhận thấy ngày càng có nhiều hơn những lúc mà anh cảm thấy cô đơn đến khổ sở. Anh cần phải thoát khỏi cái vòng sống khép kín và chỉ có công việc ở Dublin này.
Vào một kỳ nghỉ cuối tuần kéo dài nào đó, anh đi tàu đến bờ biển phía tây-nam của đảo, thành phố nhỏ Limerick, nằm trên một vịnh cách biệt, ăn sâu vào đất liền giống như vịnh Fio của Nauy. Suốt ngày anh lang thang ngoài bờ biển, chỉ dừng lại trong những quán rượu nhỏ Ireland, uống guinness và nghe rởm những câu chuyện của dân địa phương và cố hiểu lấy một chút gì đấy. Thực ra thì anh chẳng hiểu được tí gì và kể cả những cốc guinness tiếp theo cũng không làm thay đổi được tình hình. Dân Ireland không chỉ nói khác. Dân Ireland đơn giản là khác. Hiếu khách, bướng bỉnh, giấu sự nhạy cảm của mình sau những nụ cười. Trong cách nhìn nhận thế giới của mình, họ rất Ba Lan.
Anh dự tính chuyến đi sao cho được ngồi ngắm hoàng hôn trên một điểm nhô ra nhất phía dưới chân Chffs of Moher nổi tiếng. Bức tường đá lởm chởm trên hai trăm mét, lốm đốm những đám cỏ xanh và dốc thẳng xuống dưới. Mặt trời lặn theo nhịp của những con sóng biển đập vào bờ đá. Anh nhớ là khi đó ở đấy trên tảng đá ấy, bỗng nhiên anh thấy buồn vô cùng. Nhìn những đôi ôm nhau tựa vào vách đá, những ông bố bà mẹ dắt tay con, những toán bạn bè uống bia và trao đổi to với nhau những ấn tượng, anh chợt cảm thấy mình thực sự bị bỏ rơi và không cần thiết cho ai. Anh đi tàu về Dublin vào tối khuya. Ngoài anh, trong khoang còn có một phụ nữ đứng tuổi ăn vận lịch sự. Bà ta ngồi ở chỗ cạnh cửa sổ. Trong chiếc váy đen dài chấm đất, giầy buộc dây, cặp kính trễ xuống gần mũi và chiếc mũ che đi búi tóc muối tiêu được cài bằng những cái trâm bạc, trông bà ta như một hành khách đi tàu của thế kỷ mười chín. Nhìn bà ta đoan trang, khó gần và đẹp theo kiểu của mình. Bà ta cười khi anh hỏi liệu có thể ngồi trong khoang của bà được không. Sau mấy phút, anh lấy Playboy đã mua trong quầy báo ở nhà ga Limerick để trong ba-lô ra. Được một lúc, anh thấy mệt vì đọc nên để cuốn tạp chí sang bên cạnh. Anh định ngủ thì bà già hỏi có thể xem qua "Tạp Trí này" được không. Câu hỏi làm anh ngạc nhiên. Mặc dù đánh giá Playboy – anh có một bộ sưu tập không tồi ở tất cả các thứ tiếng được phát hành - là một tạp chí hấp dẫn, được làm có đẳng cấp, nhưng bà già này vẫn không hợp với nó thế nào ấy. Anh đưa cho bà ta không một lời bình luận. Bà già thong thả lật các trang, thỉnh thoảng dừng lại và đọc một vài đoạn.
Im lặng. Anh nhìn qua cửa sổ. Cảm nhận sự qua đi của cái mệt sau một ngày đầy ắp ấn tượng. Anh nghĩ rằng khi về đến Dublin, anh sẽ ngồi trước máy tính với cảm giác thoải mái. Sau nửa tiếng họ đi đến Port Laoise, một địa danh nhỏ nằm ở khoảng giữa Limerick và Dublin. Bà già đứng dậy chuẩn bị xuống. Khi tàu dừng, bà trả anh tờ Playboy và điềm đạm nói: Ngoài ra, khi bà ta xuống tàu, một cảm giác nuối tiếc lạ lùng ùa vào anh... Sẽ không bao giờ còn được gặp bà già ấy nữa. Bà xuất hiện trong cuộc đời anh trong vài khoảnh khắc và không bao giờ còn quay trở lại. Mà anh thì muốn gặp lại bà một lần nữa. Mọi người chuyển động theo những lộ trình đã được vạch sẵn bởi số phận hay định mệnh - tên gọi không quan trọng. Chúng giao cắt với lộ trình của chúng ta trong chớp mắt rồi lại đi tiếp. Còn hơn cả hiếm và chỉ rất ít ở lại lâu hơn và muốn đi trên con đường của chúng ta. Tuy nhiên cũng có những người xuất hiện đủ lâu, để người ta muốn giữ họ lại. Nhưng họ vẫn đi tiếp. Như bà già vừa xuống tàu ban nãy, hay như cô gái xinh đẹp mà anh say sưa ngắm nhìn lúc xếp hàng trong nhà băng. Bao giờ anh cũng buồn khi một điều gì đó như vậy xảy ra. Anh rất tò mò không hiểu những người khác có cảm nhận nỗi buồn như vậy không?
Ở Port Laoise, một người đàn ông thân hình cân đối, trạc tuổi anh tươi cười bước vào khoang. Ngay lập tức anh nhận thấy anh ta nói hơi nặng và sau vài phút trò chuyện anh nhìn anh ta chăm chú hơn. Một cái gì đó chạm vào anh và anh đột ngột mạo hiểm hỏi:
- Anh có nói được tiếng Ba Lan không?
Người này chỉ cười và trả lời ngay:
(°) Tộc người Rastaman ở Trung Mỹ. Phần lớn có tóc xoăn, hút cần sa và rất thân thiện, cởi mở với mọi người.
(°)Bánh sừng bò
- Tất nhiên... đúng rồi... đúng là anh! Đã có lần tôi nhìn thấy anh trong nhà ăn của đại học tổng hợp.
Thì ra anh ta tên là Zbyszek, đã ở đây được một năm, làm tiến sĩ và đi từ Warszawa. Họ chuyển ngay sang gọi ông tôi. Thì ra anh ta làm tin học, viết phần mềm thiết kế bán dẫn công suất lớn. Họ đang chọn trong câu chuyện về máy tính, điện tử và các kế hoạch của mình thì anh bắt buộc phải xuống Dublin.
Tình bạn của họ đã bắt đầu như vậy, và hai tháng sau đã chấm dứt một cách đột ngột và vô nghĩa.
Kể từ cuộc gặp gỡ trên tàu lần ấy, anh ta thường hay đến chỗ anh. Thực ra là họ gặp nhau hàng ngày. Họ quí mến nhau và cùng nhau suốt cả ngày. Một tối, họ đến quán rượu gần phòng thí nghiệm của anh. Đang ngồi thì Zbyszek đứng dậy và hôn chào một cô gái tươi cười. Họ trao đổi với nhau mấy câu bằng tiếng Anh và quay lại chỗ anh. Zbyszek giới thiệu cô ta:
- Cho phép tôi giới thiệu với ông cô bạn của tôi, Jennifer. Jennifer là người Anh và học kinh tế ở đây. - Anh ta cười nói thêm: - Cô ta thích tôi chắc là vì Chopin cũng là người Ba Lan.
Cho tới lúc ấy anh chưa bao giờ gặp người phụ nữ nào có hàng mi dài đến thế. Chúng phải là thật vì không có một loại trang điểm nào có thể kéo dài mi được đến như vậy. Đôi lúc anh cứ tưởng như cô ta nghe mà mắt thì nhắm lại. Lúc đầu trước khi quen với hình ảnh của chúng, anh không thể không tập trung nhìn vào mắt cô ta. Với hàng mi ấy, với mái tóc sẫm gần như đen dài ngang vai ấy, thì đôi mắt xanh thẫm của cô hoàn toàn không phù hợp vời khuôn mặt. Đã thế nhìn chúng lúc nào cũng như hơi thấm nước mắt. Người không quen biết có thể tưởng là cô đang khóc. Khi cô cười đầy thân thiện và những giọt nước mắt kia luôn long lanh trong mắt, trông cô tuyệt đẹp.
Cô ta mặc quần đen bó sát và áo len casmia cổ nhọn khoét sâu. Bộ tai nghe lớn, đương nhiên cũng màu đen của chiếc walkman được cài vào chiếc thắt lưng quần ôm sát vòng hông rộng, bao quanh cổ cô. Người mảnh dẻ, nên với chiều cao khiêm tốn của mình, cô tạo ấn tượng là một người rất mong manh. Thậm chí là dễ vỡ. Do đó mà phần hông rộng và bộ ngực to, nặng một cách không cân đối nhô cao dưới lần áo rất thu hút sự chú ý. Jennifer biết là bộ ngực của cô không để cho cánh đàn ông "được yên". Hầu như bao giờ cô cũng mặc đồ chật.
Cô ta chìa tay cho anh, đưa sát miệng anh. Nhìn vào mắt anh cô thầm thì:
- Anh hôn đi. Em rất ngưỡng mộ nhìn các anh, những người Ba Lan hôn tay phụ nữ khi gặp mặt.
Bàn tay cô thơm mùi hoa nhài pha một chút vani. Thật kích thích: sự thầm thì ấy, mùi thơm ấy. Và bộ mông ấy. Ngoài ra anh rất ngưỡng mộ những bộ ngực to và nặng của những phụ nữ mong manh.
Anh tự giới thiệu. Cô hỏi anh chữ viết tắt tên thứ hai của anh là gì và khi biết đó là "L" thì cô ta nói điếu gì đó mà lúc ấy anh hoàn toàn không hiểu.
- JL, giống như là Joni và Lingam. Chữ viết tắt của anh là hờn dỗi. Điều này hứa hẹn sự sung sướng.
Và khi anh phân vân, cô ta nghĩ gì với cái sự hờn dỗi kia, thì cô ta hỏi liệu có thể đổi lại và nối các chữ viết tắt lại và gọi anh là Eljot. Anh cười ngạc nhiên, nhưng đồng ý vì cho rằng nó rất thuần phác.
Anh đã làm quen với Jennifer người đảo Wight như vậy.
Kể từ lần ấy anh rất hay gặp gỡ với cô. Hầu như bao giờ cô cũng mặc màu đen và hầu như bao giờ cũng đeo tai nghe walkman quanh cổ. Bởi Jennifer, trên tất cả, có lẽ trừ tình dục, yêu âm nhạc và bất cứ lúc nào rảnh rỗi cũng nghe nhạc. Như về sau anh thấy, cô nghe nhạc cả vào những lúc mà bình thường không có cách gì để xác định là "rảnh rỗi" được.
Hơn nữa, Jennifer chỉ nghe nhạc cổ điển. Cô biết tất cả về Bach, cô có thể kể ngày này sang ngày khác về Mozart, vừa ngâm nga những đoạn menuet, concerto hoặc opera của ông ta, cô biết lời của hầu như tất cả các vở nhạc kịch, mà anh thậm chí đến tên của chúng cũng không biết. Cô là người nước ngoài duy nhất anh biết có thể đọc và viết họ của Chopin như người Ba Lan, là "Sz". Cô hỏi anh về Chopin và khi biết là anh không thể nói cho cô nhiều hơn những gì chính cô biết, thì cô thất vọng. Sau một thời gian, anh không thể không nhận thấy càng ngày Jennifer càng hay xuất hiện ở những nơi mà anh lui tới.
Có một cái gì đó rất kích thích trong bản thân cô. Hiểu biết một cách khác thường - tự cô khẳng định là "rất đáng ghét:. Điều này đã đẩy nhiều đàn ông ra xa cô, những người bị cô hấp dẫn bằng hình thức và sự gợi tình đầy khiêu khích, nhưng chỉ sau vài phút nói chuyện, những người ấy biết rằng, họ không đặc biệt có ý muốn vắt óc "đến vậy" để kéo cô ta lên giương. Phần lớn trong số họ thì đàng nào cũng không có một cơ may nào, còn những người có được cơ may thì lại mắc phải sai lầm lớn khi bỏ cuộc, bởi Jennifer là một phần thưởng lớn cho sự vắt óc ấy.
Cô thật bí ẩn. Cô đã gây ấn tượng mạnh đối với anh. Ngay từ giây phút đầu tiên. Cô biết lắng nghe, rất thẳng thắng có trí nhớ về hình ảnh. Có những khi cô đa cảm, nhút nhát và hay xấu hổ để rồi chỉ trong chốc lát đã trở thành thô tục hết cỡ. Trong vòng vài giây cô có thể chuyển từ phân tích các nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán London - là một khách từ Ba Lan "cộng sản và bị đàn áp" bao giờ vấn đề này cũng khiến anh thích thú - sang câu chuyện thầm thì về việc tại sao cô lại khóc mỗi khi nghe Aida của Verdi. Cô cũng đã khóc thật bên bàn ăn trong nhà hàng, khi kể với anh về chuyện này. Anh còn nhớ là những người phục vụ bàn đã nhìn anh căm thù như thế nào vì họ nghi là anh đã xúc phạm cô ghê gớm lắm.
Cô là người khó gần. Anh thích cô, nhưng chưa đến mức để bỏ bê môn gien học của mình và "đầu tư" thời gian để chiếm được cô và kiểm tra xem thực sự cô khó gần đến đâu. Anh chấp nhận để Jeunifer khơi dậy trong anh những xao động và sự quyến rũ được giấu kỹ, chúng khiến anh muốn thử còn anh thì đơn giản là không cưỡng lại điều đó. Cho khoa học và Ba Lan - anh cười trong tâm tưởng.
Hôm ấy là ngày lễ đặt tên của anh. Cho dù không phải lịch nào cũng ghi tên Jakub vào hôm ấy, anh vẫn tổ chức lễ đặt tên của mình đúng vào 30 tháng tư. Như mẹ anh muốn. Vì rơi vào giữa tuần nên anh mời mọi người đến phòng mình vào thứ bảy gần nhất. Đã gần nửa đêm, nhưng anh vẫn làm việc không nghỉ trong phòng làm việc cửa mình. Bỗng anh nghe thấy tiếng gõ cửa rất khẽ.
Jennifer
Hoàn toàn khác. Không đeo tai nghe ở cổ và không mặc màu đen!
Cô mặc quần bó màu tím nhạt và chiếc áo hồng nhạt không cài cúc buông xuống quần. Không mặc nịt vú, điều này thì có thể thấy rõ với bộ ngực của cô qua lớp vải áo. Tóc buộc thành lọn rất nghịch bằng khăn lụa cùng màu với quần. Cặp mắt ướt long lanh được cô nhấn bằng màu tím nhẹ và môi được tô cũng màu ấy. Viền môi được cô vẽ bằng gam màu tím đậm hơn, cho ta cảm giác là miệng cô đặc biệt rộng. Anh nhìn cô như bị bỏ bùa mê, không giấu nổi sự ngạc nhiên.
- Anh có nghĩ là Chopin cũng tổ chức mừng lễ đặt tên không? Em không thể biết được điều này ở bất cứ nơi nào. Em muốn kịp chúc anh trước nửa đêm. Và đã kịp. Bây giờ mới là mười hai giờ kém tám phút.
Cô đến gần anh, đưa những ngón tay lên và lướt môi mình lên miệng anh. Cô ôm anh. Anh quyết định hỏi cô xem hãng nào trộn hương nhài với vani trong loại nước hoa cô dùng mà tuyệt vời đến thế. Cô thơm y hệt như lần đầu tiên anh gặp cô.
Nhìn thấy anh đứng, không biết làm gì với tay, cô lùi lại và nhìn vào mắt anh, đưa cho anh một con hổ nhỏ bằng nhung vàng, trên bụng có thêu dòng chữ bằng tiếng Anh màu đen Get physical. Cô nói:
- Đây là quà cho anh nhân ngày lễ đặt tên. Còn bây giờ thì anh thôi không làm việc nữa. Em mời anh sang bên em. Em hứa là sẽ không kiểm tra anh vế Chopin nữa đâu.
Anh cười, ngạc nhiên và cứ nghĩ mãi, không biết Get physical có chắc chắn có nghĩa là anh được chạm vào cô không. Anh muốn rằng nó đúng là có nghĩa như vậy. Hôm nay trông cô không bình thường. Nữ tính, bí ẩn, rất khác mọi khi. Cái mùi ấy, giọng nói ấy, bộ mông ấy. Và con hổ nhỏ này nữa. Anh quyết định từ bây giờ sẽ bắt đầu học các đặc ngữ trong tiếng Anh. Anh muốn đi ngay với cô, nhưng chợt nhớ là phải đóng chương trình mà anh khởi động lúc cô gõ cửa phòng làm việc của anh và tắt máy tính. Anh hôn lòng bàn tay phải của cô và quay lại bàn làm việc. Khi gõ các lệnh, anh bỗng cảm thấy cô đang đứng sau lưng, ngực chạm vào tóc anh, nghiêng người và bắt đầu thở nhẹ sau tai anh. Anh dừng tay trên bàn phím. Không biết phải làm gì. Tức là anh biết, nhưng không dám quyết định phải bắt đầu như thế nào. Tình huống thật lạ lùng. Anh ngồi bất động, như bị liệt, hai bàn tay đặt trên bàn phím, còn cô đứng sau anh và hôn tóc anh. Rồi cô lùi ra một lúc. Anh không động đậy. Anh nghe thấy tiếng vải sột soạt và sau đó cái áo hồng phủ lên hai bàn tay anh đang nằm im trên bàn phím máy tính. Anh từ từ xoay cái ghế xoay mà anh đang ngồi. Cô dịch ra để lấy chỗ cho anh. Ngực cô ở đúng tầm mắt anh. Cô đứng giữa hai đùi anh vị từ từ đưa sát ngực vào miệng anh. Chúng to hơn là anh vẫn hình dung. Anh bắt đầu khẽ chúm miệng.
Rồi anh đứng dậy và ôm cô sát vào mình. Anh run. Bao giờ anh cũng run trong những khoảnh khắc như thế này. Giống như người ta run vì lạnh. Đôi khi đến mức răng va vào nhau lập cập. Anh hơi xấu hổ vì điều đó nhưng không biết kiềm chế. Anh lùa lưỡi vào miệng cô đã mở rộng. Anh hôn. Đột nhiên cô lùi ra xa, lấy áo khoác lên người, không cài lại cúc cô nắm tay anh và dắt anh ra hành lang.
- Thôi sang phòng em - cô thì thầm.
Cô gần như chạy, kéo anh qua những hành lang của Viện anh đủ được chiếu sáng bởi những đèn chỉ dẫn lối thoát hiểm màu xanh. Chắc chắn là cô nhận thấy anh vẫn run. Rồi cô đi chậm lại, nắm cả hai tay anh kẻo vào giảng đường tối om. Cô vừa hôn vừa đẩy anh cho tới khi cô tựa người vào cửa. Cô quỳ xuống trước mặt anh. Anh để cả hai tay lên đầu cô khi cô làm việc đó. Tựa người vào tường, anh thả người theo những chuyển động của cô, lưng anh lúc ấn vào lúc thả ra cái công tắc điện ở phía sau. Những dãy đèn neon treo trên trần của giảng đường rộng mênh mông lách cách bật tắt. Những lúc đèn sáng, anh nhìn thấy cô quỳ trước anh. Hình ảnh ấy cũng kích thích anh mạnh hơn. Nhưng anh không còn run nữa. Chỉ thấy thật tuyệt vời.
Tuy nhiên chuyện ấy không thể diễn ra lâu được. Anh hoàn toàn không được chuẩn bị...
Jennifer biết rằng rồi việc này sẽ đến. Hai tay cô túm lấy hông anh và không cho phép anh rút lui. Anh rên lên. Anh đưa tay cô lên miệng mình và bắt đầu cắn nhẹ và hôn. Cô vẫn quỳ trước anh. Họ cứ như vậy trong một khoảng thời gian nào đấy. Không nói. Rồi cô đứng dậy, ôm lấy anh, gục đầu lên vai anh và thầm thì:
- Eljot, thế là anh không có lễ đặt tên rồi. Nhưng không sao. Em vẫn muốn anh đến chỗ em. Thậm chí lúc này còn hơn cả hôm qua, trước đây vài phút. Em muốn bây giờ chúng mình sẽ làm một cái gì đó cho em. Chúng mình sẽ làm chứ?
Cô lùi lại cài một cúc áo, nắm tay anh và kéo anh theo mình chạy ra khỏi giảng đường. Anh nhắm mắt chạy theo cô qua mê cung tối om của những hành lang và nghĩ rằng việc anh làm trước tiên, là hút thuốc lá. Hít khói thật sâu, nhắm mắt và nhớ lại, tuyệt vời biết bao. Thiếu thuốc lá "ngay sau" chuyện đó thật chẳng khác gì "chưa hoàn thành". Ngoài ra điếu thuốc này sẽ là điếu đặc biệt, bởi nó còn là điếu thuốc "ngay trước khi". Một lúc sau họ đã đứng trước cửa phòng cô ở phía đông của khu vực trường. Họ không bật đèn. Anh không còn muốn hút thuốc nữa. Anh chỉ muốn được cho vào càng nhanh càng tốt.
Họ thiếp đi, mệt rã rời khi bình minh ló dạng.
Hôm ấy mãi gần trưa anh mới đến phòng thí ngthiệm. Cô thư ký reo lên vì mừng khi nhìn thấy anh.
- Chúng tôi tìm anh đã mấy tiếng - cô ta nói. - Thậm chí chúng tôi đã định báo cảnh sát. Kể từ ngày anh từ Ba Lan sang, bao giờ anh cũng có mặt ở đây trước bảy giờ sáng. Tôi sẽ gọi ngay cho giáo sư, báo rằng anh đã có mặt. Chúng tôi lo cho anh quá. Không có gì xảy ra cho anh, thế là tốt rồi - cô ta nói thêm, rõ ràng là như vừa trút được gánh nặng.
Anh cảm thấy hơi ngượng vì đã làm cho mọi chuyện rối tung lên như vậy. Nhưng anh đã không thể biết trước được kịch bản của đêm qua. Hơn nữa - anh nghĩ, vừa cười thầm- đã chẳng xảy ra đấy thô