← Quay lại trang sách

Những Hình Bóng Cũ

Truyện viết một ngày trừ tịch

Năm đang tàn. Chợ Đồng Xuân đã có bao nhiêu hoa tươi bày bán. Bấy nhiêu hương sắc theo muôn màu áo, theo muôn bàn tay ngà ngọc mang đi khắp Hà thành.

Tôi bỗng chạnh lòng nghĩ tới cái chợ ở quê tôi. Chợ dựng giữa cánh đồng, bên một con sông đào nhỏ hẹp, có cái cầu bằng đá, người ta gọi là chợ Cầu Nôm. Hai ngày chợ có một phiên, và lệ thường mặt trời gần xế đỉnh đầu mới họp.

Ngày nay, đã đến hơn mười năm tôi không có dịp nào tới chợ Cầu Nôm nữa. Nhưng hình ảnh những túp lều xám mốc nối liền nhau, những cây đề cổ thụ bóng rợp trải rộng trên mặt cỏ xanh, những tiếng nói ồn ào huyên náo, vang rộn lên như sóng bể hiện giờ vẫn khiến tôi nghĩ đến, nhớ đến mỗi lần tôi đi qua một cái chợ nào nơi thành thị, hoặc ở một chốn thôn quê xa lạ.

Tôi nhớ nhất phiên chợ ngày 23 tháng Chạp. Hồi ấy tôi độ mười hai, mười ba tuổi. Mẹ tôi bảo tôi xuống ao rửa mặt, rồi lúc lên tôi đã thấy bà mở cái hòm da cũ kỹ - cái hòm da của người con gái đem theo về nhà chồng tự ngày xửa ngày xưa - bà bày ra giường chiếc khăn xếp, cái quần lụa xanh, chiếc khánh bạc, đôi giầy láng lót da trâu, chiếc áo vóc màu huyền, thêu nhằng nhịt những bông hoa to bằng cái bát. Chiếc áo ấy của ông ngoại tôi, mẹ tôi mang nó ở Huế ra rồi làm nhỏ lại cho tôi mặc.

Hôm nay, lần đầu, tôi được xỏ tay vào chiếc áo quý này. Vì từ hôm mẹ hóa phép cho tấm áo vóc thu bé lại vừa với cái mình bé gày lẳng khẳng của tôi, bà cất vào hòm ngay, thỉnh thoảng mới bỏ ra phơi nắng. Bữa nào phơi áo tôi lại có cái sung sướng được bà cắt ngồi dưới bóng cây canh giữ cho cẩn thận, kẻo sợ những thằng ăn mày, những thằng câu gà, bả chó lẻn vào lấy mất. Bao nhiêu lần, tôi chỉ được ngắm nghía chiếc áo đẹp của mình một cách khát thèm như thế mà thôi. Vậy mà sao buổi sáng hôm nay bà lại bỏ nó ra, và giục tôi mặc vội. Tôi hồi hộp cho đến lúc mẹ tôi đội khăn xong, dắt tôi ra cửa, ở đấy người u già đã đứng chờ với đôi quang thúng. Thì ra chỉ có xuống chợ Nôm mà tôi được mặc sang trọng như cậu Ấm thế này ư!

Mẹ tôi, không như mọi lần đi chợ chỉ mặc xềnh xoàng, bữa nay lại đội khăn nhiễu tam giang, mặc áo bông the, và đội nón lá dứa thêu chỉ ngũ sắc – chiếc nón Huế, chiếc nón của người con gái đem theo về nhà chồng tự ngày xửa ngày xưa.

Từ làng tôi xuống chợ, phải đi chừng ba cây số, theo dọc con sông. Thực là cực nhọc! đôi tất vải màu hoa đào ở chân tôi cứ trơn tuồn tuột trong cặp giầy mới, mỗi bước, giầy lại bắn đi rơi cả xuống ruộng, mà nếu bước mạnh nó sẽ rơi tõm xuống sông là khác nữa. Mẹ tôi phải dừng lại tháo tất cho tôi. Thế này đi dễ dàng hơn, nhưng lại khổ hơn, vì da giầy cứng quá, khía vào chân tôi như cắt. Tôi nhăn nhó, song cũng cố đi, chẳng lẽ bắt u già phải cõng, người ta cười chết. Tôi nhận thấy mọi người đang ngắm nghía tôi: cái thằng bé con sang trọng như cậu Ấm.

Đến chợ, việc cần hơn việc mua bán là mẹ tôi bảo u già ngồi dưới một gốc đề coi quang thúng, rồi dắt tôi tới chỗ các cô đồng dí họp.

Chỗ này đông nhất chợ. Trai gái xúm xít ghẹo nhau, và trêu các cô dí trẻ. Họ đặt trầu cau, đặt tiền để lỡm cô đồng: họ đọc tên, đọc tuổi một người có mặt ở đấy cho cô dí khấn. Thế rồi, một phút thôi, cô dí suýt xoa, vong hồn cái người... đó đã tự cõi âm về nhập vào cô. Cô rền rĩ hát:

Hồn rằng hồn thác ban ngày...

Hễ nghe thấy tiếng sì sào tỏ ra không chịu, cô liền chữa:

... Thương cha nhớ mẹ, hồn rày thác đêm.

Tiếng cười phá lên. Bọn trai gái tinh nghịch cúi xuống nhặt đòi lại món tiền chinh trên đĩa của cô đồng dí, rồi kéo nhau đi trêu cô khác.

Nhưng mẹ tôi thấy vậy rồi bà vẫn tin cô dí, tin quả có hồn về dưới mặt trời chói lọi đang đứng giữa đỉnh đầu! Bà triệu hồn ông ngoại tôi về. Một phút lâm râm khấn vái xong, cô đồng đã khá già này cất tiếng hát, giọng nỉ non, buồn rứt xương, rứt thịt. Tôi khẽ hỏi mẹ tôi: “Mả ông ở mãi tận Huế, sao ông bay ra mau thế? Mà ông nói tiếng Huế cơ mà?” Bà vội bịt ngay mồm tôi, vì bà đang kính cẩn nghe vong hồn ông tôi nói về những việc âm dương, cứ như chính ông tôi đã sống lại, ngồi ngay đấy.

- Ông dặn con sau này cố học mà làm quan. Nhà ta có ngôi mộ bà nội đang kết, sẽ phát về con...

Mẹ tôi nói câu ấy bằng một giọng vui mừng và tin tưởng trong lúc trở về, chúng tôi đi theo dọc bờ sông.

Từ hôm đó, tôi càng được mẹ tôi yêu quý bội phần. Những chiếc quần áo đũi ruộm hoa hiên, vỏ sò mẹ tôi đem phát cả cho trẻ con hàng xóm, rồi nhờ người ra tỉnh mua vải trúc bâu cát bá về may cho tôi mặc. Bà sốt sắng mua giấy bút, dắt tôi lên trường huyện học vỡ lòng.

Tôi không bao giờ quên được những buổi tinh sương, mẹ tôi dậy thổi cơm cho tôi để đến trường. Nhất là những buổi sáng mùa đông, nằm trùm chăn, tôi lắng nghe tiếng guốc của bà sẽ động trên nền sân đất rắn, tôi lắng nghe tiếng gạo sát vào lòng rá bên vại nước cạnh gốc cau.

Dậy ăn cơm, tôi thấy sách vở bút mực của tôi đã xếp sẵn cả rồi. Bà đưa tôi đến tận cửa trường, và đón tôi về ngày bốn lượt, không ngày nào thiếu. Những buổi tối đèn hết cả dầu, mẹ sợ tôi không học được phải xách chai sang tận làng bên mua, đi qua mấy cánh đồng, qua một cái miếu cây cỏ mọc um tùm gọi là miếu “Hai Cô”, người ta bảo thiêng lắm. Lần nào mẹ tôi cũng đứng lại khấn vái một lúc lâu, tôi chắc bà kêu cầu cho tôi học mau tấn tới... để sau này làm quan, như lời vong hồn ông ngoại tôi báo trước!

Học để làm quan! than ôi! cái hi vọng quá to tát ấy của mẹ tôi có viên mãn được bao giờ.

Mẹ tôi từ trần năm tôi mười bốn tuổi, mang theo cả cái hi vọng đứa con mình sẽ làm quan.

Ngày nay, giá mẹ tôi còn sống thì thật là đau đớn biết bao nhiêu. Cái đứa con bà hằng mong ước sẽ làm quan ấy vẫn chưa làm gì cả, nếu bà không muốn nhận rằng chính thật ra nó cũng có một nghề, cái nghề viết văn nhọc mệt và bạc bẽo, cái nghề hỡi ơi, không biết sống bây giờ rồi chết bao giờ.

... Khi ngọn đèn đã sáng, đôi mắt hiền dịu của mẹ tôi cũng sáng lên nhìn vào bàn tay tôi vụng dại tô những nét chì trên trang sách.

Muốn tôi không buồn ngủ để học nhiều, bà thường hay kiếm cho tôi một thức gì ăn. Thức tôi hay ăn nhất là khoai lang nướng. Những củ khoai lang vàng ngọt nóng bỏng tay, mẹ tôi bóc sẵn bày trên đĩa. Những hạt ngô rang khéo quá, nở trắng như những đóa hoa nhài đổ đầy chiếc rổ mây. Mẹ tôi ngồi hàng giờ dưới bếp rang từng mẻ một, mang lên bảo tôi ăn cho ròn, nóng. Tôi quên sao được tiếng đôi đũa tre quẹt quẹt vào mảnh nồi đất vỡ lót một lần cát mỏng..., cái tiếng đều đặn khô khan lẫn với tiếng củi nổ lách tách, tựa hồ xé vỡ cả cái im lặng đang đông đặc lại trong trời khuya vắng.

Ngày nay, những buổi tối mùa đông, có biết bao chiếc bóng lúi húi đi dưới vòm cây, dưới hàng hiên, trong ngõ tối... những chiếc bóng ấy rao bán ngô rang. Tôi nhớ ngay đến đứa trẻ ngồi khoác chăn lên mình bên chiếc đèn con, tập đọc, và tập viết... Tôi nhớ ngay đến người đàn bà ngồi trong xó bếp tối tăm, cái bóng to rộng in lên tấm vách ám tro khói, đang cầm đôi đũa quẹt đi quẹt lại trong chiếc mảnh nồi...

Người đàn bà đó đã chết từ lâu. Đứa trẻ ấy giờ đây “đã mang lấy nghiệp vào thân”, ấy là cái nghiệp viết hết truyện này sang truyện khác, viết không còn có thì giờ mà tính sổ để xem hôm nay năm sắp tàn mình đã viết được bao nhiêu truyện rồi.

Những hạt ngô, rang khéo quá, nở trắng như những đóa hoa nhài! Than ôi, tôi có còn nếm lại cái vị thơm bùi của những hạt ngô rang khéo quá ấy nữa đâu, như ngày xưa ngồi tập đọc và tập viết. Bây giờ, những đêm ngồi bên cây đèn điện trong gian phòng ấm áp, tập giấy trắng đặt trên bàn, tôi viết từng trang... Nhưng đâu còn có những hạt ngô nở trắng như những bông hoa nhài, nó đã thay bằng chiếc đĩa sắt chất cao tàn thuốc lá, vỏ hạt dưa. Đó là thói quen khi tôi thức đêm viết truyện, cũng như ngày xưa cái thói quen tối nào muốn học, mẹ tôi phải cung cho khoai nướng, ngô rang.

Tôi nhớ mẹ tôi cứ ngồi chọn từng hạt ngon đưa tận miệng tôi. Tôi lại nhớ, một đêm gần đây, một cô gái Huế nằm trên một chiếc bồng ở sông Hương, cắn từng hạt dưa đưa vào tận miệng tôi giữa lúc tôi lơ mơ say thuốc phiện.

Biết đến bao giờ quên đi!

Nắng đầy cả sân, vườn. Ấy là lúc mẹ tôi yêu nắng và tiếc nắng, nếu bỏ phí không phơi dưa, củ cải, phơi quần áo hay gội tóc. Nhất là gội tóc. Cách ba ngày bà lại phải gội một lần, sự sạch sẽ ấy đã bị đàn bà hàng xóm cho là dởm. Bởi người ta thấy mẹ tôi gội được mớ tóc thật là vất vả. Làn tóc dầy và dài chấm gót, thả đầy một chậu thau đồng lớn; lúc chải bà phải đứng lên giường, thả tóc xuống mới không bị vướng.

Ít ra cũng dùng năm sáu quả chanh, và bao giờ mẹ tôi cũng gội bằng thứ nước trầm. Thì ra cái thói vương giả, đài các của mẹ tôi, đến ngày sa cơ mà cũng vẫn còn.

Tôi chỉ săn đón lúc bà chải tóc để lượm những sợi bị đứt. Ngày ngày, tôi ham lượm tóc như con gà ham lượm thóc rớt trên thửa ruộng vừa mới gặt xong. Tóc mẹ tôi rụng nhiều, lòng tôi mừng lắm!

Những buổi trưa, tôi đem sách ra ngồi ở ngoài thềm. Đó chính là lúc tôi dỏng cả hai tai để ngóng cái tiếng dép lẹp kẹp đi qua ngõ, tiếng rao lanh lảnh của mụ đồng nát: “Ai tóc rối đổi kẹo ra?” Cái tiếng ấy mà cất lên thì dù đang học, đang ăn cơm, tôi cũng chạy đến các lỗ vách, các khe phên, kẽ liếp moi móc ra những mớ tóc tôi nhặt được của mẹ tôi. Đem tóc ấy ra đổi lấy que kẹo mạch nha hồng hồng dẻo quánh, ăn ngon lịm người, đến nỗi tôi thành nghiện, hôm nào mưa gió hàng kẹo không tới thì tôi thèm rỏ rãi. Một dạo, mẹ tôi ốm, tóc rụng rất nhiều tôi tha hồ nhặt, tha hồ ăn kẹo. Khi khỏi ốm, mớ tóc dầy, dài và óng chuốt của mẹ tôi đã mỏng đi, ngắn đi và khô xác. Nhưng cũng từ đấy, tóc mẹ tôi không rụng nữa. Tôi phải đi nhặt của những người đàn bà, con gái trong làng. Rình để nhặt, khốn nạn như con mèo rình ăn vụng. Vậy mà quá yêu tôi, quá chiều tôi, bà không hề đánh mắng. Một lần mẹ tôi ngồi sưởi nắng và chải đầu dưới gốc cây na. Tôi ngồi cạnh thầm mong sao cho tóc mẹ tôi đứt rõ nhiều, song chẳng có sợi nào bị đứt. Tôi mếu máo. Thấy thế, mẹ tôi lại phải chải thêm. Mỗi bận những chiếc răng lược nhọn sắc cào sát da đầu, mẹ tôi nhăn mặt suýt soa, hai mắt lấp lánh ngước nhìn tôi. Hí hửng được nhiều tóc rụng, tôi có để ý gì đến đôi mắt ướt ấy đâu!

Mọt lần, không bao giờ tôi quên. Một buổi trưa, mẹ tôi đang khâu vá thì kêu nhức đầu, nằm xuống nghỉ. Tôi đang ngồi vẽ nhảm, bỗng ngoài ngõ tiếng mụ đàn bà đổi kẹo cất lên. Tôi sục tìm các lỗ, các khe vẫn giấu tóc, chẳng còn một sợi nào, mà cơn thèm kẹo đã đưa nước bọt lên đầy cả miệng.

Tôi đứng sững nhìn mớ tóc dài của mẹ tôi sổ ra buông lòa xòa xuống đất.

Một ý táo bạo nảy ra, tôi nhìn chiếc kéo may trong cái thúng ở đầu giường. Tôi cúi xuống nghe mẹ tôi đã ngủ. Nhè nhẹ tay, tôi rón cầm chiếc kéo. Ồ, chiếc kéo mới mua ở chợ Nôm phiên trước, hẳn là sắc lắm đây! Tôi run sợ toan để nó vào trong thúng, nhưng mụ hàng kẹo đã đến ngoài cổng nhà tôi, nước bọt vẫn tràn đầy trong miệng, ý táo bạo nọ lại nảy ra. Tôi liều. Một nạm tóc rơi xuống đất. Mẹ tôi khẽ cựa. Tôi vội lùi lại nấp sau cái cột, tim nhẩy rực lên. Mẹ tôi lại ngủ, tôi vơ nhanh nắm tóc chạy vụt ra ngoài ngõ.

Đổi xong rồi, tôi cầm que kẹo vào nhà. Mẹ tôi đã dậy, tay cầm chiếc lược, nước mắt lặng lẽ rơi xuống má.

Tôi đứng sững ngoài thềm, que kẹo rơi khỏi tay. Tôi gục mặt vào lòng bà thổn thức.

Cây mùa thu lá trút đầy trời. Lòng tôi yếu, thầm mong gió heo đừng về mạnh, đừng lột trần tất cả những thân cây. Tôi mong không gió, tôi cầu cây xanh hoa nở cả bốn mùa. Vậy mà ngày xưa... Tôi đã mong cho làn tóc mượt dài của mẹ tôi trút xuống nhiều như lá mùa thu. Tôi đã mong lượm nhặt những sợi tơ óng đẹp ấy như con gà đồng nhặt thóc, như đứa trẻ nhà nghèo nhặt lá rụng giữa cơn giông.

“Thiếu nữ ơi, giữ sao cho tóc khỏi rụng nhiều”. Tôi cầu như thế cho những giai nhân không quen biết gặp ở đường đời có làn da xanh, có quầng mắt tối, có nụ cười nhạt héo. Tôi không muốn mắt họ mờ đi vì lệ, tóc họ mỏng đi như ngành tơ liễu úa...

Vậy mà ngày xưa tôi đã cầm chiếc kéo sắc để cắt đứt cả một nạm tóc dài của người đàn bà thân yêu nhất đời tôi!

Nhưng trước hay sau sự tiêu diệt cũng đến đối với con người, dù là một nàng công chúa, một nàng tiên nữ. Mớ tóc đẹp của mẹ tôi, dẫu tôi chẳng xén bớt đi, nó cũng tan thấm vào lòng đất. Những mẩu xương của mẹ tôi đã được moi lên để đặt vào cái tiểu sành. Tôi nâng niu cái đầu lâu dập vỡ nhẵn nhụi trên tay, kính cẩn nhúng vào chiếc chậu thau đựng nước trầm thơm ngát, thứ nước ngày xưa mẹ tôi vẫn dùng gội mớ tóc dài. Vậy mà tôi vẫn ngờ là một giấc chiêm bao.

(Đăng Tiểu thuyết thứ Bảy, số 298/1940)