← Quay lại trang sách

Buồn Vương Mây Khói

Khi mới mười hai tuổi tôi đã phải sống lang bạt, nay đây mai đó. Tôi thèm khát cái thú sống ở gia đình nhưng không có lấy một ngày nào được biết tới gia đình. Tan tác như mây bèo, những người thân của tôi đều bị cảnh đời hất đi mỗi kẻ một đường, còn tôi, năm này năm khác, tôi chỉ là cái vật mọn ký thác ở khắp các nhà họ mạc.

Thôi thì hết tỉnh rồi quê. Cũng may mắn cho tôi là lại được trở về quê, chứ cái tuổi thơ ngây dại của tôi mà cứ bị đầy đọa mãi ở các thị thành, bỡ ngỡ không được ai gìn giữ, không được ai dậy bảo thì không biết tôi sẽ phạm những tội lỗi gì.

Quê hương là nơi tâm hồn tôi được bình tĩnh lại sau bao nhiêu năm lạc lõng, với một thân hình ốm yếu gầy còm.

Màu xanh hiền hậu của khóm tre, cây đề reo hát bên con sông chảy quanh làng khiến tôi thấy lòng yên ấm lại. Màu gạch đỏ chói của căn nhà ai mới dựng giữa làng dưới những bóng cau bóng chuối khiến lòng tôi vui sáng, gần gụi với bao nhiêu con người, bao nhiêu sự vật lành hiền ở quanh mình.

Bây giờ tạm yên ổn, tôi được thư của thày tôi ở tận xứ Lào gửi về bảo phải đi học chữ Tây, hoặc chữ Nho. Tôi lựa chọn mãi, sau cùng tôi quyết định học chữ Tây mà tôi đang học dở. Thế là, một ngày nắng mới tôi xuống chợ mua giấy bút và hôm sau tôi lên trường huyện học.

Bẵng đi hai năm mới được trở lại với sách đèn, tôi vui sướng như con chim non lần đầu được bay ra khỏi tổ.

Những buổi chiều, tiếng học của tôi làm vui động một chút cái không khí quá yên tĩnh của xóm làng.

Tôi được mọi người để ý đến. Tôi thấy mình đang là một đứa trẻ lưu đãng, gần như vô thừa nhận ở các thị thành, bây giờ trở nên quan trọng giữa đám trẻ chăn trâu cắt cỏ, và đám người còn bỡ ngỡ với cái thứ chữ Tây ngộ nghĩnh.

Người ta muốn có một tờ yết thị dán cổng làng, chép một cuốn sổ hương dịch, cải lương, cũng gọi tôi. Tôi nằm giữa đình làng, trên cái chiếu cạp điều của ông tiên chỉ mà viết những thứ đó. Người ta xúm quanh tôi, khen chữ tôi tốt quá, như tôi vẫn kính phục những ông đồ viết câu đối ở hè phố hàng Bồ, Hà Nội những ngày gần Tết vậy.

Thấy người anh họ tôi bảo bao giờ tôi đỗ được mảnh bằng “sép-phi-ca”, tất làng sẽ nhường cho tôi cái chân thư ký làng. Tôi cũng hy vọng và lấy làm sung sướng mỗi khi nghĩ cái ông thư ký làng trẻ tuổi ấy là mình đây sẽ có một góc chiếu ở đình, có quyền ngồi đánh trống chầu ở ngoài đình, và có quyền ăn nói, bàn cãi với mọi người, từ ông Tiên chỉ trỏ xuống. Thế mà hồi đó cái ông ký danh giá ấy còn đang đánh khăng đánh đáo, còn đang trần truồng tắm ở ao, sông.

Anh Lũy, anh Quỳnh, hai người anh họ có vai vế trong dân, yêu tôi lắm, và khuyên tôi thế này: “Chú ạ, phải tập cho đứng đắn, mai kia còn ra làm việc dân làng, vua quan chứ lị!”.

Tôi nghe lời hai anh tôi. Từ hôm ấy, tôi không chơi đùa với trẻ con. Tôi đi tắm sông cũng mặc quần. Đi ra đình hay đến đám khao, đám tang nào, tôi chít cái khăn lượt dầy mấy mươi vòng to bằng cái rế của anh tôi thải cho; tôi mặc áo dài, đi bít tất, tôi tập ăn trầu, uống rượu, hút thuốc lá, đi ngồi đều lấy dáng điệu như người lớn, bởi vì tôi sắp làm ông thư ký quan trọng của dân chứ có đùa đâu.

- Ờ chú Hải này khá lắm, làm đàn anh phải có dáng, làm lính tráng phải có oai.

Tôi kiêu hãnh vì lời khen của mấy ông anh họ tôi.

❉❉❉

Tháng Mười, một năm được mùa. Vùng quê phong túc lắm, nhiều nơi hội hè vui chơi. Tôi có dịp theo hai anh họ tôi ra khỏi làng, đến một nơi có phong cảnh đẹp và con gái đẹp.

Hai anh làm thợ đúc chuông, đúc tượng giỏi nhất làng và có tiếng khắp vùng tỉnh Bắc. Đã có tài, lại giỏi trai, có duyên, nên làm đám ở đâu là được đàn anh ở đấy yêu mến, nhất là những cô con gái.

Cố nhiên là tôi được theo đi, vì hai anh tôi cho rằng tôi nhanh nhẹn và khi cần đến giấy tờ gì bằng quốc ngữ thì đã có cậu thư ký nhỏ.

Ba anh em tôi rời khỏi làng một buổi sáng tinh sương, rét mướt. Đường xa mà không tiện xe, tiện thuyền, chúng tôi đi bộ mất một đêm một ngày. Cảnh cơm nắm dọc đường, tôi không thấy gì là cực khổ, tôi vui sướng đi lẫn trong đám người trẩy hội tấp nập trên con đường nhỏ giữa cánh đồng bao la.

Đến chùa, chúng tôi được người ta biệt đãi, dọn cho một gian riêng.

Hai anh tôi bắt đầu làm, và trong khi làm thì các cô gái đẹp lẳng lơ đến xúm quanh hai anh mà hát ghẹo. Tôi nhớ mãi cái giọng hát ví véo von của họ, giọng hát ví của gái vùng Bắc Ninh. Hai anh đã khiến họ say mê. Họ tranh nhau yêu “ông phó Cả, ông phó Hai” - không những cả hai đều đẹp trai, mà tổ tôm điếm cũng tài, cờ người cũng giỏi.

Tôi nhớ mãi hôm đánh cờ người. Cô gái nhỏ có cặp má lúm đồng tiền cầm quân tốt bị bỏ quên mãi không dùng đến, cô đã ghen với cô xe, cô pháo, rồi cô khóc vùng vằng lủi ra về.

Lúc tan cờ, cô gái ấy đón anh cả tôi ở chân núi, đánh bạo nắm lấy tay anh tôi, mời nhau ăn một miếng trầu.

Từ hôm ăn miếng trầu của cô gái xinh đẹp ấy, anh cả sinh ra ngơ ngẩn, anh hai chỉ lo ngày chính hội đổ đồng tượng và chuông mà bị hỏng thì tai vạ lớn. Tiền đâu mà đền, còn bị làng đòi vạ nữa.

Những đêm sáng trăng lạnh lẽo trên ngọn núi chùa, tôi tưởng không bao giờ quên được cái đẹp kỳ lạ, cái đẹp thần tiên còn phảng phất trong tâm hồn thơ bé đến ngày nay.

❉❉❉

Ngày nay nhớ đến đêm trăng ấy, tôi lại buồn rầu vì cô gái có đôi má lúm đồng tiền thuở nọ đã theo anh cả tôi về, bây giờ có một đàn con, già nhiều, đau ốm mù cả hai con mắt.

Chao ơi, xuân sắc người đàn bà!

Tôi thì ba mươi tuổi đầu rồi. Đi đây đi đó đã nhiều, giang sơn thu cả vào đôi mắt sáng. Duy chỉ có chị dâu họ tôi, người con gái ngày xưa sống trong một gian nhà lá dưới chân núi Hàm Long đã bao nhiêu năm bỏ cha mẹ đi theo một người đàn ông, để bị mù lòa không còn biết ngọn núi kia ở phương nào, ở hướng nào.

Một lần, đứng cạnh chị dâu họ tôi ở thềm nhà, tôi che tay ngang mắt nhìn vọng ra cái vạch xanh xanh, mờ mờ ở tít chân trời mà lơ đãng nói:

- Chị cả ơi, rặng núi Hàm Long chiều nay không có sương che, trông rõ quá.

Chị tôi lặng đi một lát rồi khẽ hỏi:

- Thế chú có nhận rõ cái nóc lều gianh ở đấy không hả chú? Nói rồi chị tôi khóc trên đầu đàn con nhỏ. Than ôi, tôi thật không ngờ người đàn bà quê mùa ấy lại có thể ngỏ bao nhiêu nỗi niềm đau khổ trong câu hỏi chua xót ấy.

Tôi không trả lời chị. Tôi khóc ở trong lòng, và oán giận anh tôi, từ khi chị mù lòa đã hắt hủi chị mà ra ngoài tỉnh ở với một cô gái khác rồi.

Buồn vương mây khói trời xa…

Tiếng chị tôi ru đứa con trứng nước tắt vội theo tiếng khóc nghẹn ngào.

Cái chân trời mây khói ấy, tôi thấy lạnh lẽo ở trong tâm hồn mãi mãi, mỗi khi ngồi lặng một mình nghĩ đến người chị mù lòa dờ dẫm ra đứng ngoài thềm để trông vời về nẻo cố hương…

(Đăng Tiểu thuyết thứ Bảy, số 387/1941)