← Quay lại trang sách

Tập sách nói về những tủi nhục

dịch giả: hoàng hữu đản

Tập sách nói về những tủi nhục

ierre và Marie Pillat nhìn thật lâu chiếc xe tải lớn chở Ante Petrovici và những người tị nạn khác thuộc các quốc gia đồng minh rời khỏi trại. Hai người bỗng cảm thấy cô đơn trong một xứ sở xa lạ mà ở đó họ không quen biết ai, cũng như chưa bao giờ đặt chân đến. Nỗi sợ hãi xâm chiếm họ. Họ không có tiền, cũng không có chỗ trú ẩn.

- Chúng ta đã tính sai khi rời bỏ cánh rừng. - Pierre thốt lên - Bây giờ thì chúng ta đi đâu và làm gì đây?

Chàng cho tay vào túi áo và tìm thấy hai tờ giấy bạc một trăm đồng Mark. Chàng biết rõ xuất xứ của chúng. Trước khi ra đi, tiến sĩ Ante Petrovici đã nhét chúng vào túi áo chàng. Số tiền này đã giúp chàng lấy lại can đảm. Họ tiến về nhà ga và nghiên cứu bản đồ. Thành phố được biết đến nhiều nhất và gần nhất là thành phố Heidelberg [1]. Và thế là họ leo lên tàu hỏa.

- Heidelberg là một trung tâm văn hóa. - Pillat nói - Anh sẽ tìm được việc làm ở trường đại học, cũng có thể trong một thư viện, hay một nơi nào đó, điều đó không mấy quan trọng.

Họ lại tiếp tục nói về Ante Petrovici. Trông họ tràn trề hy vọng. Vừa đến Heidelberg, họ đã có một lô dự tính về tương lai. Họ dừng chân bên bờ sông Neckar, ở đây người ta đang xây cất một cây cầu.

- Anh sẽ đến đó xin một chân thợ. - Pillat nói - Ngay ngày hôm nay. Chúng ta không nên để mất một phút nào cả. Còn những chuyện khác chúng ta sẽ ráng thu xếp sau.

Chàng để Marie ngồi lại trên một chiếc băng dài, rồi một mình đi xuống xưởng xây cất nằm trên bờ sông. Lúc bấy giờ là buổi chiều.

- Chúng tôi đang cần công nhân. - Ông chủ xưởng nói - Chúng tôi trả tiền công hậu. Ngoài tiền lương công nhân còn được ăn xúp và hút thuốc lá. Anh có thể đến làm ngay sáng mai.

Pillat rất sung sướng. Chàng cho rằng đã gặp được nhiều may mắn.

- Anh chỉ cần mang cho tôi giấy chứng nhận cư trú tại Heidelberg là đủ. Chỉ có thế và tôi sẽ nhận anh vào làm việc.

Pillat cảm ơn ông ta và vội vàng chạy đi báo cho Marie biết tin vui ấy.

- Ta đi thôi em. Chúng ta đi xin giấy chứng nhận cư trú. - Chàng nói - Văn phòng cấp giấy cư trú gần đây thôi.

Marie lại mang túi xách hành lý lên.

Họ phải đợi một lúc trước khi được ông trưởng phòng tiếp.

Ông ta lịch sự mời họ ngồi và họ bỗng cảm thấy lại được thâm nhập vào cuộc sống.

- Anh sẽ có giấy chứng nhận cư trú ngay. - Người trường phòng nói - Nhưng anh phải có giấy xác nhận đã có việc làm.

- Tôi đã thưa chuyện với ông trưởng xưởng xây cất cầu. - Pillat nói - Ông ta cho biết là sẽ nhận tôi vào làm ngay sau khi có giấy chứng nhận cư trú.

- Anh phải có giấy xác nhận đã có việc làm. - Người nhân viên nói.

- Việc làm thì tôi đã tìm được rồi, người ta có thể cho tôi giấy xác nhận. Tôi sẽ mang giấy đó lại cho ông trong vòng mười phút thôi. - Pillat nói.

- Tôi không thể cấp cho anh giấy cư trú nếu anh không có giấy chứng nhận đã có việc làm.

Người nhân viên văn phòng cư trú là một người tị nạn Đức, thuộc vùng bị người Nga chiếm đóng. Ông ta hiểu rõ sự mệt mỏi và nỗi thất vọng của Pillat và Marie.

- Anh chị không thể tìm được việc làm nếu không có chứng chỉ cư trú. - Ông ta nói - Nhưng không có giấy chứng nhận đã có việc làm thì người ta không cấp giấy cư trú, không cấp thẻ lương thực, không cấp chỗ ở, không cấp gì hết.

- Người ta cấm chúng tôi cư ngụ tại đây sao? Tại Heidelberg sao?

- Trên lý thuyết người ta không cấm, nhưng trên thực tế, việc anh chị xin cư ngụ tại đây là việc không thể được. Tại sao anh chị không thử tìm những thành phố khác? Heidelberg là một thành phố quá đông người. Người ta chỉ cho những người cư ngụ tại đây có công việc làm mà thôi. Tóm lại chừng nào anh mang lại cho tôi giấy xác nhận đã có công việc làm, thì tôi mới cấp cho anh giấy chứng nhận cư trú.

- Tôi thử lại xưởng xây cất một lần nữa xem sao. - Pillat nói. Chàng lại xuống bờ sông Neckar sau khi để Marie ngồi lại trên chiếc ghế dài.

Người tổ trưởng của nhóm nhân công xây cầu không có mặt tại văn phòng. Pillat ngồi đợi ông ta trong cái lều bằng gỗ.

Marie mệt mỏi. Khi Pillat đi rồi, nàng ngồi dựa đầu vào lưng ghế, tay phải nắm chặt chiếc xách hành lý để sát bên cô vì sợ bị kẻ gian đánh cắp. Nàng thiu thiu ngủ. Marie bỗng cảm thấy một bàn tay sờ vào vai mình. Nàng run rẩy và muốn đứng lên, nhưng bàn tay giữ chặt lấy cô.

Đó là những viên cảnh binh người Đức, với găng tay bằng da, giày bốt bằng da và súng ngắn trong những chiếc túi bằng da. Một trong những cảnh binh giật lấy chiếc túi xách của Marie và liệng lên một chiếc xe cam nhông. Rồi họ kéo tay Marie, đẩy nàng lên theo. Marie muốn gọi Pierre, nàng nhìn về phía xưởng cầu, nhưng chiếc xe chở cô đã bắt đầu nổ máy.

Marie la lên. Bàn tay mang găng da bịt miệng nàng lại, nàng muốn cắn nó để có thể la, nhưng bàn tay của người cảnh binh cứng như sắt vậy. Trên xe còn có những người phụ nữ khác nữa.

Họ còn trẻ và môi son đỏ choét. Họ nhìn Marie với vẻ tò mò.

Marie cảm thấy sức nặng bàn tay không chỉ trên miệng mà trên cả toàn thân mình. Nàng cảm thấy bàn tay đeo găng đè nặng trên toàn thân mình nhưng nhất là trên hai cái vú.

Chiếc xe dừng lại trước sân của một ngôi nhà. Cảnh binh dẫn những người đàn bà vào nhà trong một phòng trống. Marie thì khóc nức nở.

- Chị đến bệnh viện lần đầu tiên à? - Một cô trong đám hỏi Marie.

- Đây là bệnh viện à? (Marie lau nước mắt). Tại sao người ta đưa tôi đến bệnh viện?

- Nếu chị không bị gì cả, người ta sẽ thả chị về.

Marie ngồi sát vào hai túi xách hành lý. Chúng chứa đựng những gì vợ chồng nàng có được. Chúng có mùi da thịt của nàng và chồng nàng. Trong nhiều tháng qua vợ chồng nàng đã dùng chúng để gối đầu. Giờ đây Marie ôm chặt chúng vào lòng và khóc. Nàng nghĩ đến chồng nàng với vẻ mặt hốt hoảng lo âu khi không tìm thấy nàng trên chiếc ghế dài trên bờ sông.

Nàng muốn van xin người ta cho nàng đi khỏi đây, nhưng không còn ai làm việc cả. Và suốt đêm nàng chỉ còn biết ôm chặt hai chiếc túi xách mà khóc.

Sáng sớm hôm sau, những người đàn bà sắp thành hai hàng và người ta dẫn đi tắm.

- Thôi đừng khóc nữa. - Một người đàn bà đứng cạnh chị nói lớn - Tôi cũng có hai cháu hiện đang ở nhà một mình vậy, mà tôi có khóc đâu. Phải can đảm mới được.

- Tại sao chúng ta lại bị bắt? - Marie hỏi.

- Chúng ta không bị bắt. Đây chỉ là một cuộc bố ráp. Chị chưa bao giờ bị bắt trong một cuộc bố ráp sao?

- Chưa. - Marie nói - Tại sao lại bị bắt trong một cuộc bố ráp?

- Tất cả phụ nữ đều bị bắt. Đó là chuyện bình thường, nhằm đề phòng họ không truyền bệnh sang cho binh sĩ Mỹ. Bất cứ người phụ nữ nào ở ngoài đường cũng có khả năng truyền bệnh cho binh sĩ Mỹ. Tôi bị tóm bốn lần rồi. Còn chị? Chưa bao giờ à? Tại sao?

Marie bỗng cảm thấy gần như có lỗi vì nàng chưa bao giờ bị bắt giữ trong một cuộc bố ráp.

- Tôi không ở thành phố này. - Marie trả lời.

Bây giờ họ đang ở trong gian phòng của tầng lầu một.

- Nếu chị ở lại thành phố này, chị sẽ có dịp trở lại nơi này. Lần tới chị sẽ không khóc nữa.

Sau khi tắm xong, họ được dẫn đến một hành lang. Lần lượt từng người được gọi tên vào phòng khám. Marie nghe gọi đến tên mình. Nàng bước vào một căn phòng, có hai người đàn ông mặc áo blu trắng đang khám cho một người đàn bà nằm trần truồng trên một chiếc bàn trắng.

Những người đàn ông tay mang găng cao su. Họ có vẻ không hài lòng.

- Tại sao cô chưa cởi quần áo ra? - Một trong hai người đàn ông hét lớn. (Ông ta có một giọng nói thô bạo và đanh đá mà Marie chưa bao giờ nghe thấy) Cởi quần áo ra ngay.

Marie muốn bị đánh đập hơn là nghe mệnh lệnh này.

Nàng cảm thấy bàn tay cô y tá đặt lên vai mình. Tiếp theo là một bàn tay khác nữa. Hai cô y tá cởi bỏ áo quần nàng ra vừa mắng mỏ. Họ mắng nàng lớn tiếng. Marie nhắm mắt lại và cố trì người xuống. Nhưng họ kéo nàng đứng lên, đè nàng nằm dài trên bàn. Marie trần truồng, nàng bắt đầu la hét, chống cự hết sức mình. Những bàn tay xa lạ đã đè nàng xuống, làm cho nàng không còn cử động được. Marie khép chặt hai chân và chống trả mãnh liệt. Những người đàn ông thì giận dữ. Nhiều người đàn bà khác chạy lại. Marie phải chống trả lại với vô số bàn tay. Tiếp đến nàng bỗng cảm thấy một làn mây lạnh tỏa xuống mặt nàng. Nàng không còn chống trả nữa. Thân xác nàng đã thuần phục theo ý muốn của những bàn tay xa lạ. Khi nàng rời khỏi bàn khám, nàng có cảm giác như mới hồi tỉnh.

Nàng cố tìm cách che giấu để khỏi trần truồng trước những người đàn ông xa lạ kia. Nhưng khi nàng cố tìm cách che dấu sự trần truồng của mình, thì tay nàng sờ đúng những gai gốc lởm chởm ngay chỗ chùm lông mịn màng và mềm mại như những sợi chỉ tơ. Người ta đã cạo nhẵn nhụi. Thay vào chỗ những sợi lông mượt mà là những mũi nhọn châm chích vào lòng bàn tay. Marie, tuyệt vọng, mặc quần áo vào.

- Cô có thể đi được rồi. - Cô y tá nói.

Nàng cầm lấy hai chiếc túi xách và cúi đầu đi ra cửa.

Nàng cảm thấy hai chiếc túi xách nặng như những tảng đá cối xay. Và mỗi bước nàng đi như có những mũi kim chích. Những cơn khóc nức nở làm thắt nghẹn cổ họng. Nàng có cảm giác như xuyên qua áo quần nàng đang mặc người ta đã nhìn thấy nàng bị cạo nhẵn nhụi. Marie tự cảm thấy mình là người đàn bà bị sỉ nhục nhất trần gian.

Nàng muốn kêu cứu, nhưng chẳng biết kêu ai. Ngay cả việc nghĩ đến chồng nàng, nàng cũng không thể làm nổi nữa.

Nàng đi về phía sông Neckar như một người máy. Nàng muốn trầm mình xuống đó. Những chân lông đâm vào da thịt nàng như những gai nhọn.

- Em đã ở đâu? - Pierre hỏi - Anh tìm em suốt cả đêm. - Em đã đi đâu? - Giọng chàng rất khắc nghiệt.

- Em không thể nói cho anh nghe được, anh Pierre à.

(Nàng bắt đầu khóc và cảm thấy những chân lông bị cạo nhẵn nhụi.) Em muốn chết hơn là nói cho anh nghe điều đó.

Pierre cầm lấy tay nàng.

- Em trở về lại Piatra thôi. - Nàng nói - Em không muốn ở lại đây nữa.

II

Pierre Pillat và Marie rời khỏi Heidelberg. Họ không có quyền ở lại thành phố. Họ đi tàu đến Stuttgart. Ante Petrovici đã tiếp đón họ như những người bạn thân. Họ chỉ mới vừa quen biết nhau trong thời gian một đêm, có những cuộc hội ngộ ngắn ngủi, nhưng lại có giá trị hơn cả một cuộc đời sống bên nhau.

Petrovici mời họ ăn bánh mì, thịt hộp và hút thuốc lá. Tổ chức quốc tế của những người tị nạn thuộc phe Đồng Minh, cấp cho họ lương thực và nhà ở. Mặc dù vậy, Ante Petrovici ngày càng khập khiễng hơn, điều đó nói lên rằng ông ta đau khổ và tâm hồn đang bị xao động mạnh.

- Trong bất cứ thành phố nào của nước Đức, anh chị sẽ không thể nào được cấp giấy phép cư trú khi không có giấy chứng nhận có công ăn việc làm. - Ông ta nói - Và ngược lại, anh chị sẽ không thể nào kiếm được công ăn việc làm khi không có giấy phép cư trú. Đó là một vòng lẩn quẩn. Trên thực tế, anh chị không được phép cư trú tại đây, nhưng anh chị cũng không có phép rời khỏi nơi này. Mỗi thước đất tại biên giới Đức đều có xe tăng canh giữ. Người ta đóng biên giới bằng dây kẽm gai. Anh chị chỉ còn cách là sống trong không khí. Đáng tiếc là con người không thể sống bằng không khí và trong không khí được.

Để được sống còn, phương Tây đã bán đứng phân nửa châu Âu cho người Xô Viết. Nhiều người của những nước bị bán đứng cho người Nga đã trốn chạy sang phương Tây để thoát khỏi cái chết và nỗi kinh hoàng.

- Phương Tây là vận may thứ hai của mỗi người dân thuộc các nước đang bị người Nga chiếm đóng. Những kẻ trốn chạy từ những quốc gia này đi ngang qua nước Đức, và tại đây họ đã bị bắt và bị nhốt vào các trại tập trung. Họ không thể nào ra khỏi đây.

- Anh có nghĩ là không còn lối thoát nào nữa không? - Marie hỏi - Chúng tôi không đòi hỏi điều gì to tát cả. Chúng tôi chỉ muốn làm việc. Chỉ có thế thôi. Tôi biết chắc chắn là chúng tôi không thể nào có lại nhà cửa và cuộc sống xưa kia, nhưng xin hãy để chúng tôi sống cách nào cũng được.

- Tôi không phải là nhà tiên tri. - Ante Petrovici nói - Nhưng tôi cho rằng không còn lối thoát nào khác. Châu Âu không còn nữa. Chỉ còn châu Mỹ và nước Nga, và họ đang chia nhau châu Âu. Cả hai, Liên Xô và Hoa Kỳ đều muốn áp đặt cách sống của họ trên toàn cõi địa cầu. Và để thực hiện điều đó, họ muốn xóa bỏ cá nhân. Liên Xô tiêu diệt hàng triệu con người, nhiều giai cấp xã hội. Nước Mỹ không tự tay tiêu diệt những nạn nhân của mình, mà đem họ biếu cho người Nga để họ bị tiêu diệt. Giống như các giáo sư của trường đại học Coimbre, châu Mỹ tưởng là có thể tránh khỏi thảm họa bằng cách thường xuyên thiêu sống một số người nào đó. Họ đã thiêu sống nhiều tù binh người Nga trước mắt chúng ta chỉ vì muốn tránh một cuộc xung đột ngoại giao với những người Xô Viết. Nước Mỹ đã dâng hiến cho người Nga các nước Lithuani và Esthonie để tránh cuộc xung đột chính trị với những người Xô Viết. Nước Mỹ đã hy sinh nước Ba Lan cùng với nhân dân và gia súc của họ để tránh một sự bất đồng ý kiến với nước Nga. Sau đó nước Mỹ đã hy sinh Rumani và những người sống ở đó. Nước Mỹ đã lần lượt hy sinh Tiệp Khắc rồi Hungary.

Marie đã khóc một cách thầm lặng.

- Sự hiểm nguy đã trở nên quá lớn lao đối với mỗi cá nhân, mỗi giai cấp, mỗi dân tộc cho đến nổi phải tự lừa dối cả chính mình. Thời gian không để một sự trì hoãn nào, không biết đến một sự ngưng đọng nào, không thể có một mưu mô hay một sự ruồng bỏ xảo quyệt nào. Chỉ những người mơ mộng mới có thể tin vào những xảo kế mà thôi.

Lạc quan là một phần nào hèn nhát. Chúng ta được sinh ra trong thời đại này, và chúng ta phải can đảm đi theo con đường đã được vạch sẵn, không còn con đường nào khác. Nhiệm vụ bắt buộc phải tồn tại, ngay cả trong những tình huống xấu nhất, không còn một chút hy vọng nào. Phải kiên trì như người lính La Mã kia mà hài cốt đã được tìm thấy trước cửa thành Pompéi. Anh ta đã chết chỉ vì người ta đã quên đổi phiên gác khi núi Vesuve bắt đầu phun lửa.

Duy nhất chỉ có cái chết vinh quang ấy là người ta không thể cướp đi của con người.

- Các bộ phận chính yếu của cơ thể con người, như tim, phổi đều hoạt động một cách tự nhiên. - Pillat nói - Sự khao khát sống, sự hy vọng cũng hoàn toàn tự nhiên. Chấp nhận cái chết chỉ là một điều dối trá trong văn chương chữ nghĩa mà thôi. Người lính La Mã của nhà văn Spengler đã chờ cho nham thạch chôn vùi thân xác mình chỉ là một hư cấu không mấy thật. Khi những người Nga bất đầu tràn vào đất nước chúng ta như những dòng nham thạch, và khi chúng ta hiểu được rằng họ muốn hủy diệt chúng ta, thì chúng ta đã trốn chạy. Đó là một hành động hết sức tự nhiên của con người trước hiểm họa chết chóc. Chúng ta đã may mắn thoát khỏi những dòng nham thạch nóng bỏng úp chụp xuống chúng ta, thoát khỏi những người Xô Viết, và chúng ta cũng sẽ tìm cách để ra khỏi cái làn lửa này, đó là nước Đức. Nếu không nói đến những gì anh đã suy nghĩ trên cương vị của một con người, thì anh có tìm cách để tự cứu lấy mình, để thoát khỏi nơi đây không? Anh hãy thành thật trả lời đi, anh Ante Petrovici.

- Tôi cũng thế thôi, tôi cũng đang cầu may đây. - Ante Petrovici trả lời.

Ông ta chỉ những bình mực nhỏ, những cục tẩy, những con dấu ở trên bàn.

- Tôi cũng thế, tôi đang tìm cách để thoát khỏi nơi đây, bằng lối thoát duy nhất là đi đâu. Các nước bên kia Đại Tây Dương đã gởi những đoàn đại diện kinh doanh đến nước Đức để tuyển chọn lao động trong số hàng trăm ngàn người tị nạn.

Họ tuyển chọn người cũng như mua súc vật, họ chỉ giữ lại những thứ hàng hóa hảo hạng thôi. Họ thích những người trẻ.

Tôi đã vượt qua giới hạn tuổi trẻ rồi. Tôi phải làm khai sinh giả, và đó là những gì tôi đang làm đây. Tôi bị khuyết tật. Dưới lòng bàn chân phải của tôi bị thiếu vài ly. Tôi thấp bé hơn một người thuộc loại lý tưởng, loại này phải cao ít nhất là một thước sáu. Tôi theo đạo Hồi. Một người thuộc loại lý tưởng phải theo đạo Thiên chúa. Tôi sẽ phải sửa chữa tất cả những thứ đó. Tôi sẽ làm giấy tờ giả. Tôi rất phân vân. Nhưng cái khó thật ra là cái khác kia. Cái khó là tôi sẽ xa nấm mồ châu Âu.

Châu Âu đã chết. Cũng giống như những người trí thức tư sản, tôi tôn thờ những ngôi mộ. Tôi đau đớn khi phải rời xa nó.

Châu Âu bắt đầu chết cùng lúc với sự xây dựng những trại tập trung của Đức quốc xã.

Châu Âu đã chết với từng người tù binh đã bị Đức quốc xã thiêu hủy, nó đã chết phần nào với sự thiêu hủy Lidia, vợ tôi.

Nhưng thật ra Châu Âu đã trút hơi thở cuối cùng tại Torgau. Tại nơi đó người ta sẽ tìm thấy ngôi mộ của Châu Âu. Đó là một thành phố nhỏ bé trên bờ sông Elbe, ở đó quân đội Nga và Mỹ đã gặp gỡ nhau năm 1945. Chính tại nơi đây, trên thi thể của Châu Âu, những người lính Nga và những người lính Mỹ đã ôm hôn nhau, và đã uống rượu Whisky và Vodka. Bữa tiệc tang của Châu Âu đã được thiết đãi bằng những thứ rượu ngoại chứ không phải rượu của Châu Âu, đó là Whisky và Vodka. Cũng giống như anh và vợ anh, các bạn sẽ không thấy thoải mái bất cứ ở đâu ngoài làng Piatra ở Rumani. Tôi cũng thế thôi, tôi chỉ cảm thấy thoải mái ở Châu Âu mà thôi. Chính vì tất cả những lý do đó mà tôi xem cái cơ may mà người ta dành cho tôi ở đâu đó và vì nó tôi đã đấu tranh, đã giả mạo giấy tờ, như một cơ may không kỳ lạ. Sự lưu đày ra khỏi xứ sở của tôi đã là phần đầu của cuộc lưu đày ra khỏi Châu Âu.

Một người đàn ông thanh lịch xách chiếc cặp da bước vào phòng. Ông ta bắt tay Ante Petrovici, lạnh lùng chào Marie và Pierre.

- Tôi vừa được bầu làm cố vấn chính trị về những vấn đề thuộc bán đảo Balkan cho bộ tư lệnh Mỹ tại Châu Âu.

Với tất cả những lời chúc mừng của tôi. - Ante Petrovici nói. Tiếp theo ông giới thiệu người mới đến với Marie và Pillat. - Một trong những người đồng hương của anh chị, ông Aurel Popesco.

- Rất hân hạnh. - Popesco nói - Tôi rất hân hạnh được biết ông bà.

Nói xong Popesco nhanh chóng rời khỏi phòng, nhưng đến ngưỡng cửa ông ta quay lại.

- Hội đồng Canada sẽ đến ngày mai, thưa ngài tiến sĩ. - Ông ta nói - Và việc tuyển mộ những người di dân sẽ bắt đầu vào lúc tám giờ sáng. Nếu ngài muốn đến trình diện, xin hãy thức dậy sớm.

- Aurel Popesco thuộc thành phần của những công dân được ưu đãi - Ante Petrovici nói - Ông ta có thể là nạn nhân phát xít, và do đó ông ta được bầu làm cố vấn cho bộ tư lệnh Mỹ. Ông ta là một trong những thủ lãnh của phong trào phát xít tại Rumani. Chắc chắn anh phải biết ông ta. Ông ta đã phạm nhiều tội ác và có nhiều hành động man rợ, vô nhân đạo, ông ta phải trốn qua Đức. Người Đức đã bắt nhốt ông ta vào ngục Buchenwald cùng với những tên phát xít khác đã trốn khỏi Rumani. Người Mỹ đã giải thoát tất cả tù binh của ngục Buchenwald và cấp cho họ thẻ “nạn nhân phát xít”. Trong chủng loại này có những tội phạm vì quá lạm dụng chủ nghĩa phát xít. Đó là trường hợp của Aurel Popesco.

Ante Petrovici ngừng kể và nói với Pillat.

- Ngày mai anh phải đến trình diện đúng giờ trước hội đồng Canada. - Ông nói - Tôi không thể đến đó, tôi chưa ngụy tạo đầy đủ các giấy tờ cho tôi. Tôi rất tiếc vì không biết bao lâu nữa mới có hội đồng kế tiếp, nhưng anh thì anh phải đến đó. Anh sẽ ngủ lại đây và ngày mai tôi sẽ dẫn anh đến đó.

III

Bảy giờ sáng hôm sau, Pillat và vợ đã có mặt trong hàng người đứng đợi trước hội đồng Canada. Những ứng viên làm thành một khối xám xịt gồm những người đàn ông tuyệt vọng, đủ mọi lứa tuổi, thuộc mọi quốc tịch. Tất cả họ chỉ có chung một mơ ước: trở thành người tiều phu ở Canada.

Đó là những người xưa kia cũng có nhà, có nghề nghiệp, có gia đình như bao nhiêu người khác. Ngày Chiến thắng, quê hương của họ bị những người Xô Viết chiếm đóng. Và họ buộc lòng phải trốn đi, phải bỏ lại tất cả, nhà cửa, gia đình, súc vật.

Bây giờ thì họ đã trở thành một thứ giai cấp vô sản chính hiệu nhất của thế giới. Và những người vô sản như thế đó hiện có hàng trăm triệu trên các nẻo đường. Mắt nhìn xuống đất, họ chờ đợi cơ may được tuyển chọn đi Canada, nhưng thật là khó khăn. Giữa hàng trăm triệu người vô sản đang mơ ước đợi chờ, những người Canada chỉ chọn những người lý tưởng nhất.

Đến chín giờ, đoàn xe của hội đồng Canada xuất hiện.

Những chiếc xe rộng và to như những con bò, vừa di chuyển vừa kéo còi inh ỏi giữa đám người vô vọng đang đợi chờ.

Liền sau đó việc gọi tên những ứng viên bắt đầu. Người ta gọi từng nhóm mười người. Khi bước vào phòng, Pillat ngửi thấy mùi nước hoa, mùi thuốc lá thơm và mùi xà phòng thơm.

Đó là dấu hiệu của sự hoàn hảo của những tên lái buôn này.

Ba tên người Canada nhìn một cách xoi mói từng ứng cử viên từ chân đến đầu như thể người ta quan sát một con ngựa được đem bán vậy. Những người lái buôn sẽ trả tiền vận chuyển cho mỗi người di trú.

- Quốc tịch của ông?

- Tôi là người Rumani. - Pierre Pillat nói.

Cũng giống những hội đồng khác, hội đồng Canada thích những giống dân miền Bắc hơn. Người phương Bắc khỏe mạnh hơn. Họ không nổi loạn và sống lâu hơn.

- Nghề nghiệp của ông? - Tên lái buôn hỏi vừa tiếp tục quan sát Pillat.

- Luật gia kỳ cựu. - Pillat nói.

Chàng cảm thấy điều chàng vừa nói không làm vừa lòng hội đồng.

Mọi người nhìn chàng không hài lòng.

- Người tiếp theo. - Tên lái buôn ngồi giữa hô lớn. Hắn ra dấu cho Pillat đi ra.

- Ông không nhận tôi à? - Pillat hỏi.

- Phần anh đã xong. - Tên Canada trả lời một cách nghiêm khắc, bực tức vì câu hỏi của Pillat.

- Tôi muốn biết xem tôi có được nhận hay không.

- Chúng tôi không nhận ông. - Tên Canada trả lời.

- Các ông thấy tôi có khuyết điểm gì nào?

- Chúng tôi không thâu nhận những người trí thức. Ông có thể đi được rồi. - Tên lái buôn nói.

Từ “trí thức” được thốt lên với vẻ căm thù thô bạo.

- Các ông cho rằng người trí thức không thể đốn cây ở Canada sao? - Pillat hỏi.

Giọng chàng bỗng trở nên khẩn khoản.

- Xin các ông nhân từ và nhận cho tôi cùng đi. Tôi van xin các ông.

- Không. - Tên lái buôn trả lời.

- Các ông trách cứ gì ở người trí thức nào? Chúng tôi cũng có thể làm công việc như những người khác.

- Các ông không thể làm được công việc. - Tên lái buôn nói.

- Trí thức các anh không thể lao động được. Người trí thức không có bắp thịt. Ông có thể đi được rồi. Ông đã bị từ chối rồi đó.

Pillat bước ra. Chàng không còn gì để hỏi nữa. Chàng đã được thuyết phục rồi. Chàng rời khỏi văn phòng hội đồng mà không nhận ra mình đã đi qua những đâu. Chàng đã đi ra bằng lối cửa khác. Marie đợi chàng ở ngoài đường. Nàng đã chạy như bay về phía chàng, mặt hồng lên vì sung sướng. Marie ôm hôn chàng và đu người lên cổ chàng.

- Em được nhận rồi. - Nàng nói - Nhóm của em gồm mười ứng viên và chỉ mình em được nhận.

Marie ôm chặt Pillat trong vòng tay. Kể từ khi trốn thoát khỏi làng Piatra, đây là lần đầu tiên nàng cảm thấy sung sướng thật sự.

Nhưng trong niềm hân hoan sung sướng của chính mình, nàng có cảm giác là vai, mặt, cổ của chồng nàng giá lạnh, tê liệt không còn sức sống.

- Họ không nhận anh à? - Nàng sợ hãi hỏi Pillat.

- Không. - Chàng nói - Họ không nhận trí thức. Trí thức thiếu bắp thịt.

IV

Trong khi Pierre Pillat và Marie rời xa dãy nhà của hội đồng, thì một nhóm mười người khác bước vào văn phòng hội đồng Canada. Trong đó có một người khỏe mạnh, đã luống tuổi. Ông ta bước vào văn phòng, xúc động, nhưng bước đi vững vàng, tin tưởng. Ông ta cúi đầu trước ba người Canada giống như ông ta đã có thói quen cúi đầu trước vị mục sư ở làng ông.

- Ông người nước nào? - Tên lái buôn Canada hỏi.

Người nông dân có đôi mắt đen lưỡng lự một giây rồi nói:

- Tên tôi là Ion Kostaky. Tôi là người Rumani. Tôi được bốn mươi tuổi. Tôi là dân cày ruộng, và ngoài những chi tiết trên tôi không hề biết thêm một tiếng Đức nào nữa.

Kostaky đọc lại bằng tiếng Đức những câu chữ của ông không sai một lỗi như thể ông đọc thơ vậy. Ông nhìn ba người ngồi đối diện với mình để xem họ sẽ quyết định thế nào. Ông đã chờ đợi như chờ đợi ngày phán xét cuối cùng vậy.

Cả ba người nổi lên cười.

- Ông đã học những chữ này ở đâu thế? - Tên ngồi giữa hỏi.

Ion Kostaky muốn đoán nghĩa câu hỏi, nhưng ông đã không đoán nổi. Tuy thế, ông nhận thấy là ba người đang ngồi ở bàn trước mặt ông đang nhìn ông chăm chú, và không có vẻ gì thù hận cả. Ông ta bắt buộc phải trả lời. Ông nuốt nước miếng và đọc lại câu trả lời duy nhất mà ông đã thuộc lòng:

- Tôi tên là Ion Kostaky. Tôi là người Rumani. Tôi được bốn mươi tuổi. Tôi là dân cày ruộng, và ngoài những chi tiết trên tôi không hề biết thêm một tiếng Đức nào nữa.

- Hoan hô! - Những tên lái buôn la lớn. - Hoan hô, tuyệt lắm! (Chúng cười lớn tiếng) Đó chính là một công dân ưu tú tương lai của Canada. Ông đã được chấp nhận rồi đấy.

Ion Kostaky nhìn họ. Ông thấy họ vui mừng nhưng không hiểu gì về những điều họ nói.

- Ông đã là người Canada rồi, ông hiểu không? - Vị chủ tịch nói.

Kostaky nhìn thấy ngón tay của tên lái buôn chỉ vào mình và nghe được tiếng Canada. Ông hiểu là ông đã được nhận rồi.

Trong thâm tâm ông cảm ơn Chúa. Sau đó ông nghiêng mình trước hội đồng, như xưa kia ông đã nghiêng mình trước vị mục sư Thomas Skobai ở Piatra, và tỏ ý muốn ra khỏi văn phòng.

Người thư ký hội đồng nắm vai ông và giải thích:

- Ông rất dễ mến. Ông sẽ ăn và ngủ tại đây. Sau đó ông sẽ đi Canada với các ông đây. Trong lúc chờ đợi hội đồng sẽ mướn ông.

Kostaky được dẫn xuống nhà bếp của hội đồng Canada.

Người ta cho ông ăn và thuốc hút. Ông xem như đã vượt qua mọi khó khăn trở ngại. Nhưng thay vì sung sướng hạnh phúc, mất ông ngập đầy nước mắt.

Ileana, ngôi nhà ở làng Piatra, Marie, con gái của ông, Pierre. Tất cả hiện ra trong trí nhớ ông. Không làng xóm, không gia đình, không nhà cửa, thì cũng không có một niềm vui nào nữa. Kostaky không thể ăn được. Ông nhìn ra ngoài cửa sổ qua màn nước mắt. Ông ước chừng nhìn thấy làng cũ, ngôi nhà của ông, đoàn gia súc của ông, tất cả những người thân yêu của ông, nhưng chỉ có những người xa lạ qua lại trước cửa sổ, chỉ toàn những người xa lạ.

V

Tất cả những người tị nạn rồi sẽ gặp nhau tại Đức bất kể họ khởi hành từ đâu.

Pillat gặp lại Motok. Viên Schaffner ăn bận rất thanh lịch. Hắn có một chiếc đồng hồ vàng, một cặp xách bằng da và hắn hút thuốc lá Mỹ. Cùng với Aurel Popesco, các ông Salomon và Varlaam hắn buôn bán hàng lậu. Thế nhưng hắn cũng muốn ra đi.

Tại Đức, người ta có thể hoặc chết đói hoặc buôn bán chợ đen và sau đó đi tù. Vì thế Motok tới trình diện cùng lúc với Marie, Varlaam, Pierre Pillat và Ante Petrovici trước ủy ban Úc vừa mới đến Stuttgart.

Theo thói quen, tiến sĩ Ante Petrovici lại phán xét về các vấn đề thời sự nóng bỏng.

- Châu Âu là một lục địa bị mất gốc hơn cả. - Ông nói - Châu Âu bán dân mình theo đơn vị thước và ký cho những lục địa khác. Tất cả những ủy ban vừa đến kia đều mua chúng ta theo thước và ký. Trong bản chất con người không gì làm cho các ủy ban đó thích thú cả, ngoại trừ trọng lượng và chiều cao.

Họ được mời bổ sung các mẫu khai lý lịch. Tiếp đó họ được đưa vào một phòng rộng chứa đựng dụng cụ y khoa. Tại đây họ sẽ được cân, đo, khám bệnh. Phụ nữ đứng một bên, đàn ông một bên.

Việc khám xét những người đăng ký di tản bất đầu như trong một bệnh viện.

- Không được để giấy tờ các ông bà xuống đất, có vi trùng đấy. Một cô ý tá người Anh lễ phép nói.

Ante Petrovici giữ giấy tờ của mình giữa hai hàm răng và cởi bỏ quần áo. Tất cả những người dự tuyển bây giờ đều trần truồng trước ba cô y tá tóc vàng hung hơi nâu sẫm và trước những y cụ trắng tinh. Những y cụ đang chứng kiến họ đứng trần truồng chờ đợi, những người tị nạn như thoáng thấy miền đất Úc châu như là miền Đất hứa vậy [2].

- Ông hãy siết chặt, siết chặt hết sức ông đi! - Một cô y tá nói.

Ante Petrovici giữ trong bàn tay phải của mình một cái máy hình chuôi kiếm và siết lại.

Cô y tá cười - Ông chưa bao giờ đo lực của bắp thịt ông à? - Cô ta hỏi Ante Petrovici.

Tiếp theo, cô đưa máy cho Pillat và anh cũng siết mạnh hết sức mình. Đường đến Úc châu phải vượt qua cái máy này.

Sau khi được đánh giá về sức mạnh của bắp thịt, mười người đàn ông trần truồng bị cô y tá dùng một dụng cụ không lớn hơn cái thìa tráng miệng chích vào đầu ngón tay trỏ. Mỗi người được lấy một giọt máu và máu này được ép vào những miếng kính nho nhỏ hình vuông.

Không ai có thể đi qua Úc mà không phải cho một giọt máu.

Ante Petrovici run rẩy, ông cảm thấy sợ hãi. Pillat nhìn những miếng kính có dán tên được đặt ngay hàng trên mặt bàn trắng mang những giọt máu của anh và các bạn đồng hành.

Cô ý tá tiến lại gần, tay cầm một ống chích.

- Không đau đâu! - Cô nói.

Tiếp đó, cô rút máu từ tĩnh mạch tay trái của mỗi người. Máu được cho vào các ống nghiệm có dán tên.

Còn một thử thách nữa. Người ta lịch sự mời người tị nạn thổi vào trong một cái ống cao su nối liền với một thiết bị hình dạng một bình bơm hơi rửa ruột. Máy này đo khả năng hô hấp của phổi.

Sau đó là cuộc thử thách quyết định đối với Ante Petrovici. Mặt ông xanh mét khi ông tới đứng dưới cái thước đo chiều cao. Pillat quan sát Ante Petrovici xem ông ta thóp bụng và nhón chân lên như thế nào.

- Ông hãy đứng bình thường cho! - Cô y tá ra lệnh.

Ante Petrovici thóp bụng và cố nhón chân cao dần lên.

Ông cần kiếm thêm vài phân nên gắng hết sức mình làm cho dài người ra.

Cô y tá đọc to số đo chiều cao của Ante Petrovici. Trông ông hớn hở, phơi phới. Ông đã thắng.

- Tôi chỉ cần hai phân. - Ông rỉ tai Pillat - Chỉ hai phân thôi và tôi đã có được.

Ông ta thật xem hoan hỉ. Người ta cân những kẻ dự tuyển và dẫn từng người một vào sau một bức màn đen, nơi đó đã sẵn máy chụp X-quang. Đó là thiết bị màu đen duy nhất trong cả căn phòng. Pillat, Motok, Ante Petrovici đều đi qua trước máy. Họ cảm thấy găng tay cao su của bác sĩ sờ lên vai họ, kế đó là tấm bảng lạnh ngắt áp vào ngực. Tất cả những động tác đó đều diễn ra trong bóng tối. Hai phút cho mỗi người. Đến lượt trung úy Varlaam. Đó là nhà thể thao duy nhất trong số những người dự tuyển. Thân hình ông rất vạm vỡ. Da ông ngăm ngăm màu đồng.

- Ông nằm bệnh viện bao nhiêu lâu? - Bác sĩ hỏi.

Ông ta xem xét phổi của trung úy Varlaam qua quang tuyến X.

- Tôi chưa bao giờ nằm viện cả! - Varlaam vừa nói vừa rời khỏi bức màn đen.

Bác sĩ khám xét làn da ngực của Varlaam và ngừng tay lại trên một vết sẹo.

- Ông bị thương ở chỗ này. Sao ông lại chối là chưa bao giờ nằm viện? - Bác sĩ hỏi.

- Tôi chưa bao giờ nằm bệnh viện. - Varlaam lại nói - Cái mà ông thấy chỉ là một vết trầy xước thôi. Tôi là phi công. Một hôm, tôi bị trúng một mảnh vỡ nhưng tôi đã không bị thương. Chỉ có áo khoác của tôi bị cháy, còn tôi chỉ bị sây sát. Người ta đã dùng tanh tuya iod (teinture d’iode) để rửa và dùng vải bông băng lại cho tôi. Hôm sau, tôi lại đi làm nhiệm vụ. Căn cứ vào đâu mà ông bảo tôi bị thương?

- Trong phổi ông có một vật thể lạ. - Bác sĩ nói - Đúng ngay chỗ có vết sẹo. Có thể đó là một mảnh đạn rất nhỏ.

- Nếu tôi có một mảnh đạn ở trong lồng ngực, - Varlaam nói, giọng chế giễu - thì tôi phải cảm thấy nó chứ? Tôi nghĩ là bất cứ ai cũng cảm thấy được khi một mảnh vỡ chui vào phổi mình.

- Tôi sẽ chụp hình phổi cho ông và ông sẽ tận mắt nhìn thấy.

Varlaam lại được dẫn vào sau bức màn đen. Người ta chụp hình phổi của ông. Những người tị nạn khác mặc lại áo quần.

- Ông cũng mặc áo quần vào - Bác sĩ bảo Varlaam.

Khi Varlaam mặc xong quần áo thì tấm hình phổi cũng đã rửa xong. Bác sĩ đưa nó ra gần cửa sổ và chăm chú xem.

- Nếu như tôi có một mảnh vỡ ở trong phổi thì tôi đã không làm sao hoàn thành được hàng nghìn phi vụ trên tuyến đường bay của kẻ thù ở bên Nga, và tôi làm sao có thể nhận cả nửa tá huy chương được? - Varlaam bực tức nói.

- Ông hãy tự mình nhìn kỹ đi. - Bác sĩ bảo.

Varlaam cầm lấy tấm phim và đặt nó trước cửa sổ. Đó là tấm hình phổi của viên phi công Varlaam. Hắn nhìn tấm phim và thấy những bóng tối. Điều đó không làm hắn ta thích thú chút nào.

- Ông có nhìn thấy cái chấm đen kia không? Cái chấm to bằng hạt đậu ấy? Đó là vật thể lạ và nó đang nằm trong phổi của ông.

- Nếu thật sự trong phổi tôi có một mụn mảnh vỡ, - Varlaam nói - thì điều đó đối với tôi chẳng quan trọng gì một khi nó không làm tôi khó chịu. Vật lạ kia đã không cản trở tôi thực hiện những phi vụ trên bầu trời địch trong suốt hai năm đêm cũng như ngày. Vật lạ kia đã không cản trở tôi ăn, ngủ và khiêu vũ. Tôi hoàn toàn khỏe mạnh. Một khi mảnh vụn kia không làm phiền gì tôi thì nó chẳng là gì cả, chả có gì quan trọng cả? Tôi đã bay với nó trên hàng nghìn mét độ cao, xuyên qua bao nhiêu hàng rào đại pháo và tôi không cảm thấy mảy may ảnh hưởng gì. Nếu như trước đây, cùng với mảnh vụn kia, tôi đã có thể trở thành ngôi sao sáng của không quân, thì tôi cho rằng bây giờ đây, cùng với nó tôi có thể thành một kẻ chăn cừu, một người nông dân hay một anh quét đường ở Úc. Bởi tôi đoán chắc các ông không dành những công việc nào khác hơn cho người tị nạn!

Chúng tôi chỉ nhận những di dân có phổi hoàn toàn sạch!

- Cầu Chúa cho tất cả mọi người Úc đều có những lá phổi sạch như phổi của tôi? - Varlaam nói.

Anh ta cài lại nút chiếc áo quân phục đã biến thành áo dân sự.

Varlaam rời khỏi phòng khám bệnh không thèm chào ai cả Anh đóng sập cánh cửa và đi ra.

- Đáng lẽ chúng ta có thể cho hắn một dịp may. - Vị y sĩ nói - Việc mổ lấy mảnh đạn không phức tạp gì lắm.

Bác sĩ nhìn tấm hình phổi.

- Nếu hắn ta chịu nghe theo lời khuyên của tôi thì người ta sẽ mổ cho hắn và hắn có thể đến trình diện lại, nhưng với cách thức của hắn ta thì...

Những người tị nạn đã mặc lại quần áo. Họ lại được đưa vào sau tấm màn đen. Một y sĩ khác khám răng cho họ qua quang tuyến X. Việc khám xét này nhanh thôi.

- Ông cần phải chụp hình. - Viên nha sĩ nói với Ante Petrovici - Mong ông không xem đó là điều kỳ cục. Tại Úc chúng tôi có một mức độ sinh hoạt mà ông không biết đến ở Châu Âu. Có thể về phương điện văn hóa, Châu Âu hơn chúng tôi, nhưng về những gì liên quan đến tiêu chuẩn sinh hoạt thì chúng tôi tiến xa hơn các ông. Đó cũng là chuyện bình thường thôi, chúng tôi là một lục địa trẻ mà.

Người nha sĩ vẫn nói chuyện sau bức màn đen đẹp khi ông chụp hình hàm răng của Ante Petrovici.

- Các ngành khoa học xã hội của chúng tôi rất cập nhật chứ không như ở Châu Âu các ông, chẳng hạn chúng tôi đã có một ngành vệ sinh xã hội và một ngành lai giống hiện đại. Chúng tôi đã giải quyết vấn đề chủng tộc, nhưng giải quyết một cách khoa học vì nước Úc chúng tôi có tinh thần khoa học. Nhờ tinh thần khoa học đó, chúng tôi tin chắc rằng trong vài năm nữa, ở tại Úc chúng tôi sẽ có một giống người thật sự siêu việt Chúng tôi thực hiện giống người siêu việt đó qua việc giám sát các cuộc hôn nhân, các cuộc gây giống và việc di trú một cách khoa học, nghĩa là bằng con đường hòa bình và khoa học. Chúng tôi không giải quyết vấn đề chủng tộc như các ông làm ở Châu Âu. Các ông giải quyết bằng sự tàn bạo kiểu Hitler, nghĩa là bằng việc thiêu sống người Do Thái, người Tzigan và các dân tộc thấp kém. Chúng tôi đối xử với các dân tộc thấp kém bằng những phương tiện khoa học, chúng tôi không thiêu sống họ. Vấn đề chủng tộc tồn tại trên phương diện khoa học nhưng chúng tôi không giải quyết nó trong các trại tập trung. Chúng tôi nghiên cứu nó trong các thư viện và phòng làm việc. Chúng tôi đề ra được một lối giải quyết nhân đạo.

Ante Petrovici chỉ muốn bịt tai lại. Từ khi người vợ cũ Lidia của ông chết, ông không còn có thể nghe nổi những cuộc tranh cãi về các dòng giống thượng đẳng và hạ đẳng. Từ ngày mà Milan Paternik nhân danh những nguyên tắc đó, đã giết chết mẹ ruột mình cùng với tám trăm ngàn người Sorbon và Do Thái, thì Ante Petrovici không còn có thể nghe nói về vấn đề chủng tộc nữa, ngay cả khi cách giải quyết vấn đề đó mang tính chất hòa bình.

Chỉ nghe nói đến chữ “nòi giống” là Ante Petrovici đã cảm thấy đau nhói trong lòng rồi.

Nhân danh chữ này, Lidia đã bị thiêu cháy. Thân thể nàng đã không nằm ngủ cạnh ông, những ngón tay nàng đã thiêu rụng trên chiếc vĩ cầm, tất cả, tất cả đều bị thiêu cháy nhân danh chữ này. Ante Petrovici cảm thấy tim bị hẫng, đau nhói khi nghe tiếng “nòi giống”. Chữ này đối với ông đồng nghĩa với lò thiêu, đồng nghĩa với giết người.

Trong cửa miệng của tên người Úc kia, hắn ta muốn nói lai giống người cũng như lai giống súc vật.

Ante Petrovici chỉ muốn trốn khỏi căn phòng. Viên nha sĩ đưa tấm phim ra trước cửa sổ:

- Ông hãy đến xem răng ông đây. - Viên nha sĩ nói vẻ chế giễu - Ông nhìn kỹ đi. Răng của ông đó.

Ante Petrovici lại gần. Ông nhìn hình chụp sọ não ông.

Ông cảm thấy một mùi vị đăng đắng tuôn đầy trong miệng.

Không ai muốn người khác chỉ cho mình sọ não của mình và bảo đó là đầu của mình. Vì rằng trên bức hình có xương đầu của ông, sọ não ông giống y hệt sọ não một người chết.

- Ông nhìn thấy răng ông chứ? - Viên nha sĩ hỏi. Ông ta chiếu rõ hơn tấm phim sọ não của Ante Petrovici. Người ta nhìn thấy trên tấm phim những cái xương màu đen, nhưng có thịt, những cái răng, những quai hàm giống như của người chết.

- Ông thấy đầu ông không? - Nha sĩ lại hỏi nữa, Ante Petrovici tái xanh mặt.

- Ông nhìn thấy đầu ông, phải không? Thế đấy, vậy thì ông không thể vào nước Úc với một cái đầu như thế được.

Ante Petrovici không còn gì để trả lời nữa.

Nhưng sau đó ông tự bảo: tốt hơn nên thử năn nỉ thêm chút nữa xem sao.

- Tôi sẽ chăm sóc răng của tôi. - Ông nói - Mong bác sĩ hiểu cho, bao nhiêu biến cố đã dội xuống đầu chúng tôi, những người Châu Âu.

- Trước mắt thì việc di trú của ông không thể giải quyết được, hoàn toàn không thể được. Trên nguyên tắc, chúng tôi không thể tiếp nhận những người di trú có răng hư được sửa chữa lại; nhưng ông vẫn có thể thử vận may sau khi chữa trị. Chúng tôi không nhận những hàm răng giả. Úc châu không tiếp nhận những di dân có răng giả. Ông hãy nhìn đây, mà ông thì cần phải làm răng giả, ông không thể đi được, không thể được.

- Tôi đã qua được tất cả các cuộc xét nghiệm khác. - Ante Petrovici nói.

Ông thắt chặt chiếc cà vạt làm như ông muốn thắt cổ chết luôn vì nỗi tủi nhục quá lớn, quá sức chịu đựng.

- Việc khám xét răng rất cần thiết. - Viên nha sĩ nói - Rất cần thiết. Tôi không biết tại Châu Âu các ông, việc đó xảy ra như thế nào chứ tại Úc hàm răng đóng vai trò hàng đầu. Hàng đầu, đúng nghĩa của chữ đó!

Ante Petrovici sửng sốt vì những gì đã xảy đến với ông, vì những gì ông nghe được.

- Ngay cả khi tôi là một người có tài năng lớn, hiện nay thì tôi không phải con người như vậy. - Ante Petrovici nói - Nếu như tôi là một Michel Ange hoặc một Goethe, chẳng hạn như thế, thì liệu ông có khước từ tôi cái quốc tịch Úc bởi vì tôi thiếu vài cái răng không? Tôi hỏi ông hoàn toàn do tò mò, chỉ vì tò mò. Bởi vì nếu đúng như thế thì chúng ta rất dễ trở thành lố bịch. Tôi muốn nói là trong mỗi con người, có thể có những đức tính siêu việt ví dụ như phẩm chất đạo đức, phẩm chất trí năng, phẩm chất mỹ thuật... và những phẩm chất này có thể bù đắp vào chỗ thiếu một vài cái răng.

- Không gì có thể cân bằng và thay thế một hàm răng tốt. - Vị nha sĩ nói - Nhiều công trình nghiên cứu khoa học mới đây hết sức chính xác. Khi chúng tôi đảm trách vấn đề di dân, chúng tôi chỉ dựa vào những nguyên tắc khoa học. Ông nói đến những phẩm chất đạo đức ư? Tất cả phải đi qua lỗ miệng. Tất cả mọi thứ đạo đức, ông biết không? Mà đi qua một cái lỗ miệng xấu thì chỉ có những điều xấu. Răng xấu sẽ làm cho tiêu hóa xấu. Tiêu hóa xấu khiến hiệu suất làm việc kém đi, dễ nóng giận. Điều này dẫn tới sự bất bình, sự bất bình dẫn tới những xích mích, đến chỗ mất việc làm chẳng hạn. Mất hợp đồng lao động sẽ dẫn tới thất nghiệp. Thất nghiệp bao hàm sự nghèo đói và sự nổi loạn. Và đó là con đường dẫn đến tội phạm, đến tình trạng vô kỷ luật, vô chính phủ, dẫn đến các âm mưu chính trị. Nếu ông hỏi tại sao thì đây là câu trả lời rạch ròi, quả quyết: vì ông không đủ răng. Một quốc gia mà những công dân có hàm răng xấu là một quốc gia yếu kém, thua thiệt cả về mặt trí thức, tinh thần lẫn đạo đức và kinh tế. Tôi nói với ông tất cả những điều này một cách sơ lược thôi, nhưng vấn đề đã được nghiên cứu kỹ càng rồi.

Một thoáng im lặng. Vị nha sĩ cầm tấm phim sọ não của Ante Petrovici.

Mọi người đều im lặng: cả Motok, Pillat và Petrovici.

- Trước mắt ông không thể đi di cư được. Chúng tôi không nhận ông.

Pillat kéo tay Ante Petrovici. Họ đi ra đường. Marie đã đứng trước cổng. Cô đứng đợi, cố che giấu một nụ cười thỏa mãn. Cô sợ chồng cô không được chấp nhận như chuyện đã xảy ra khi họ xin đi Canada.

- Được tuyển chứ? - Marie hỏi.

Cô sợ câu trả lời. Cô đoán nó sẽ là phủ định.

Pillat gật đầu là anh đã “trúng tuyển”. Marie bay tới ôm anh hôn.

- Em cũng thế. Em được nhận rồi! - Cô nói.

Pillat đứng bất động như một bức tượng. Anh không đáp lại nụ hôn của cô.

- Mong rằng sự thất bại của tôi không làm phiền anh chị! -Ante Petrovici nói - Sung sướng vì sự thành công của mình là lẽ tự nhiên.

VI

Trước khi khởi hành qua Úc châu, Pierre Pillat đi đến Hội Hồng thập tự Frankfort.

- Chúng tôi di trú sang Úc. - Pierre Pillat nói - Vài tuần nữa chúng tôi sẽ xuống tàu. Trước khi đi, chúng tôi muốn tìm xem ở một nước Đức có một người tị nạn Rumani tên là Ion Kostaky. Đó là ông bố vợ tôi. Hội Hồng thập tự có danh sách tất cả những người tị nạn. Nếu ông cụ không đến nước Đức thì hoặc ông cụ bị chết hoặc ông cụ bị người Nga bắt giữ.

Marie Pillat đứng chờ.

- Không hy vọng là ông bà còn gặp lại được cụ Ion Kostaky. - Người nhân viên nói - Tại sao ông bà không tìm cụ sớm hơn? Cụ đã di trú qua Canada cách đây mười lăm hôm.

Người nhân viên đọc tấm phiếu mang tên, nơi sinh, tuổi và nghề nghiệp của Ion Kostaky. Tiếp đó, anh ta hỏi họ có phải đúng người họ kiếm hay không.

- Đúng là bố rồi. - Marie vừa khóc vừa nói.

Họ đi bộ đến nhà ga, nhưng chuyến tàu đi Stuttgart vừa khởi hành.

Chuyến tàu kế tiếp thì khởi hành vào sáng hôm sau. Họ ngồi nghỉ trên một ghế băng, quyết định qua đêm trong phòng đợi. Họ ân hận đã không tìm Ion Kostaky sớm hơn. Phía trên đầu họ, có một tấm áp phích ghi rõ:

“Nhà ga đóng cửa lúc 10 giờ. Hành khách không được nghỉ lại trong phòng đợi hoặc ngoài sân ga”.

Bên cạnh, một áp phích khác viết:

“Bất cứ người nào đi lại trên đường phố sau 11 giờ sẽ bị bắn bỏ không cần cảnh cáo trước”.

Marie và Pillat đứng lên, lưng mang xắc. Khách sạn không có. Nhà cửa bị bom tàn phá hết. Có ai đó chỉ cho họ một chỗ ẩn núp phía đối diện nhà ga, ở đó họ có thể nằm nghỉ. Họ len sâu vào trong các đống gạch đổ nát. Trong hầm rượu có những cái giường bằng ván mà người ta có thể cho thuê ban đêm. Quá mỏi mệt, họ nằm dài ra, đầu gối lên xắc. Marie vừa khóc vừa tự nhủ là chẳng bao giờ cô gặp lại cha cô nữa. Rồi cô nghĩ đến đứa bé mà cô đang mong đợi.

- Em biết không, anh đã tìm được một cái tên cho con chúng ta rồi. - Pierre Pillat nói - Nếu là con gái, ta sẽ gọi nó là Doina Australia. Doina, vì đó là tên của bài ca Rumani nói về sự lưu đày và nỗi uất ức sầu muộn. Còn Australia vì đó là quê hương mới của chúng ta.

Marie thích thú với ý nghĩ là sắp tới họ sẽ ở Úc và con họ sẽ được sinh ra trong một quê hương thật sự chứ không phải trên những chặng đường lưu đày.

Họ ngủ say, tâm tư ngập tràn cái tên của bé Doina Australia. Khi họ tỉnh giấc, ánh nắng chiếu rọi vào hầm rượu xuyên qua ô cửa sổ nhỏ không kính ở bên trên giường họ. Cái áo dài cô đã cởi ra mắc lên đầu giường cho khỏi bị nhăn không còn đấy nữa. Nó đã biến mất. Cả đôi giày cũng biến luôn.

Trong hầm ẩn núp chẳng còn ai, các phòng đều trống. Họ không thể than phiền về chuyện mất quần áo với ai.

Pillat đổ hết đồ trong xắc ra. Anh tìm thấy một đôi giày vải bố của quân đội. Marie mang giày ấy vào. Khi cô nhìn thấy đôi chân nhỏ bé của mình trong đôi giày khổng lồ thì cô bật khóc. Bây giờ cô chỉ còn quần áo lót thôi. Pillat lại đổ xắc của Marie ra. Anh tìm thấy một gói gì mềm mềm. Đó là cái áo dài bằng vải voan trắng. Anh mở nó ra, ngạc nhiên.

- Đó là áo cưới của mẹ. - Marie nói - Em mang nó theo khi chúng ta ra đi. Em nghĩ là...

Cô đã kết hôn theo thủ tục dân sự. Ở xứ cô người ta không tổ chức lễ cưới ở nhà thờ nữa. Marie đem cái áo của mẹ theo với hy vọng một ngày nào đó cô có thể làm phép cưới ở nhà thờ.

- Em mặc áo này đi. - Pillat nói - Em sẽ khâu ngắn lên với cái dây nịt, như thế áo sẽ bớt dài.

Marie không chịu nhưng rồi cô buộc lòng phải mặc áo cô dâu đó vào vì không còn giải pháp nào khác. Thế là với đôi giày bốt của chồng mang ở chân, với áo cưới của mẹ che thân, lưng mang xắc, Marie vừa khóc vừa rời khỏi nơi trú ẩn. Thế nhưng ra ngoài đường, chẳng ai ngoái lại nhìn cô cả, chẳng ai thèm ngạc nhiên một điều gì.

Họ đến đồn công an. Anh cảnh sát nghe họ nói.

- Tôi có thể cấp cho anh chị giấy xác nhận là anh chị có nộp đơn thông báo bị mất trộm. - Viên cảnh sát nói - Với giấy này anh chị có thể đến phòng dịch vụ may mặc và xin phiếu mua một áo dài. Hãy cảm ơn Thượng đế là anh chị chỉ bị lấy cắp quần áo. Lần sau thì đừng có vào một nơi trú ẩn như thế nữa. Trong những hầm rượu gần nhà ga, hằng đêm người ta tìm thấy nhiều kẻ bị giết hại.

Phòng dịch vụ may mặc ở ngay bên cạnh. Người nhân viên đưa ghế mời họ ngồi và chăm chú nghe họ nói. Sau đó anh ta hỏi họ giấy chứng nhận cư trú.

- Chúng tôi có một giấy xác nhận chúng tôi phải đi di dân và một giấy xác nhận chúng tôi bị mất trộm. - Pillat nói.

- Chúng tôi không thể cấp phiếu mua quần áo nếu ông bà không có chứng chỉ cư trú. - Tay nhân viên nói.

- Đây là một trường hợp ngoại lệ. - Pierre Pillat nói - Ông hãy nhìn xem, vợ tôi không thể du lịch với chiếc áo cô dâu và đôi giày lính. Điều đó tùy ông bình xét. Tôi chỉ xin ông chiếu cố đến trường hợp ngoại lệ của vợ tôi, vì ngoài chiếc áo đó, cô ấy không còn gì cả.

- Thế theo luật định thì vợ ông đã trần truồng. - Tay nhân viên nói - Chiếc áo cưới không thể xem như là một vật dụng dùng để mặc. Trước mặt tôi, nghĩa là trước mặt luật pháp, bà đây là người trần truồng, tuyệt đối trần truồng và mặc dù thế, chúng tôi cũng không thể cấp phiếu cho bà mua áo. Chúng tôi cần phải có giấy cư trú của ông bà.

Pillat lại nghĩ đến cái vòng lẩn quẩn là muốn có giấy cư trú thì phải có giấy xác nhận có việc làm, muốn có việc làm cần có chứng nhận cư trú và bây giờ... Mọi sự năn nỉ van xin đều vô hiệu. Một giờ sau, Marie lên tàu đi Stuttgart với chiếc áo cưới, với đôi giày lính và với cặp mắt đỏ kè. Niềm an ủi duy nhất của cô là trên xe lửa không ai để ý nhìn cô. Không ai chú ý đến chiếc áo cưới vì người ta không nhìn lẫn nhau nữa. Không còn gì kỳ lạ nữa. Và đó là điều kỳ lạ nhất trong tất cả mọi điều: cái hiện tượng đó không còn gì là kỳ lạ nữa.

VII

Trong khi Pillat vắng mặt thì một Hội đồng Achentina đến Stuttgart. Tất cả những người đã bị các hội đồng trước đây từ chối đều muốn thử vận may lần nữa. Trong hàng người da mặt xám tro người ta nhìn thấy viên Schaffner Daniel Motok, phi công Varlaam, tiến sĩ Ante Petrovici. Họ đứng cạnh nhau, Ante Petrovici giữ chặt trong tay các giấy tờ giả ông tự mạo ra.

Khi được dẫn vào văn phòng, những người tị nạn nhìn xung quanh đầy ngạc nhiên: Hội đồng Achentina không có cân bàn, không có máy đo lực cơ bắp, không có máy chụp hình não sọ và hình phổi cho những người dự tuyển. Không có một loại máy nào hết.

Hai người đàn ông và một người đàn bà mặc đồ đen, cổ đeo tượng thánh giá lớn bằng vàng, ngồi ở một chiếc bàn hình chữ nhật. Chính người đàn bà chủ tọa. Hình như bà ta gốc người Tây Ban Nha. Da nâu nghiêm nghị, tóc bà chải rẽ ngược lên trên thái dương. Bà mặc một chiếc áo đen cổ đứng.

- Ông làm nghề gì? - Bà mặc áo đen và mang thánh giá vàng hỏi Motok.

- Nhân viên đường sắt. - Motok trả lời.

- Loại nhân viên nào?

- Kiểm soát viên các toa giường. - Motok nói - Tôi biết bốn thứ tiếng. Tôi đã hành nghề mười bốn năm.

- Trong lúc này chúng tôi chỉ nhận những người có nghề chân tay, thợ máy, thợ mộc, thợ luyện kim, thợ xây cất. - Bà chủ tịch nói - Sắp tới đây, chúng tôi sẽ tiếp nhận các nghề khác. Đừng mất hy vọng. Hãy tin vào Chúa. Chúa thử thách loài người, nhưng nhờ Chúa, ông sẽ thắng. Chỉ có Đức Chúa trời mới ban chiến thắng cho loài người.

Motok thấy mắt người đàn bà phủ kín một tia sáng lạnh như thủy tinh. Ông ngẩng đầu lên và bắt gặp đôi mắt của Đức Jesus trên cây Thập giá. Đức Jesus như muốn giải thoát Motok lại có thể muốn để ông ta phát biểu ý kiến. Nhưng bà chủ tịch ra lệnh:

- Người kế tiếp.

Bà ta ra dấu cho Varlaam tiến lại và hỏi nghề nghiệp của anh ta.

- Phi công. Varlaam nói.

- Chúng tôi có thừa phi công rồi. Tất cả phi công các nước chiến bại đều đến tị nạn ở Achentina. Lúc này chúng tôi chỉ thâu nhận những thợ máy không quân. Rất tiếc là ông không phải thợ máy.

Đến lượt Ante Petrovici.

- Tôi là thợ sửa đồng hồ ở Iéna.

Ông đặt mảnh bằng bằng giấy da thuộc do ông Chủ tịch nghiệp đoàn thợ đồng hồ ở Thurigue và mười hai thợ sửa đồng hồ khác ký ở lên bàn. Trên mảnh bằng viết rõ bằng chữ vàng rằng nghiệp đoàn thợ đồng hồ ở Thurigue nhận tiến sĩ luật khoa và toán học Ante Petrovici vào nghiệp đoàn của họ với tư cách là thợ chính sửa đồng hồ. Người đàn bà mỉm cười với Ante Petrovici như một người mẹ.

- Khi t?