RÉT TỰ TRONG LÒNG
“S ài Gòn mùa xuân còn thoáng lá vàng bay? Có mùa thu nào đang ở lại...” (Trịnh Công Sơn). Vào những chiều cuối năm khi lá vàng nô giỡn trên mặt đường, gió rét lùa trong tóc, bỗng nhiên tôi lại có một niềm vui nho nhỏ: “Sắp Tết rồi”. Lạ chưa, khi ấy trong gió rét chập chờn vẫn còn sót lại những nắng vàng tơ lụa. Nắng mơn trớn. Vỗ về. Và thiên hạ tung tăng xuống phố. Khác mọi ngày, họ choàng thêm trên vai chiếc áo ấm, dù mỏng. Mỏng, dày không quan trọng vì chỉ cốt để làm duyên. Sài Gòn quanh năm nắng ấm, nắng chói chang, nếu không, làm gì có dịp chưng diện? Nhờ vậy, Sài Gòn lãng mạn, đa dạng hơn, có nhiều sắc màu chuyển động trên mặt đường của một thành phố công nghiệp.
Thật lạ lùng, khi thời tiết Sài Gòn lãng đãng một chút gió, một chút rét để tạo ra không gian phiêu bồng như nhịp Đường thi, y như rằng, nơi nào đó trên dải đất hình chữ S này đang phải gánh chịu một tiết trời khắc nghiệt.
Ở ngoài Trung đã ngập lụt, bão bùng giông gió, Sài Gòn chỉ lơ phơ lất phất vài giọt mưa như giọt lệ nũng nịu của thiếu nữ mới chớm dậy thì. Lúc Hà Nội rét đến độ “bà già chết cóng”, Sài Gòn cũng rét nhưng chỉ khiến ta vụt nhớ đến câu thơ tình tứ của Hồ Dzếnh: “ Trời không nắng cũng không mưa/ Chỉ hiu hiu rét cho vừa nhớ nhung”. Gợi nhớ đến không gian tơ lụa của Hà Nội vào thu. Run rẩy lá biếc. Hắt hiu nắng nhạt. Tê tái bóng chiều. Từ nhiều năm qua, những ngày cuối năm, người Sài Gòn hào hứng chờ đón cái rét thơ mộng ấy.
Nhưng rồi, có những sáng thức dậy, tôi bần thần khi chạm vào da thịt là cái lạnh đến ngỡ ngàng. Không mơn man, không ve vuốt mà như cắt da cắt thịt. Mới vừa thời tiết oi bức. Máy lạnh mở hết công suất. Vẫn nóng. Nắng hanh khô tưởng chừng như vạt nắng ấy, nếu cầm trên tay, sẽ có thể bóp vụn. Rồi đột nhiên, trời đổ mưa. Thác lũ từ trời cao trút xuống. Mưa trắng trời. Những con đường vẫn nghìn nghịt người và xe. Đường phố hóa thành sông lênh láng nước.
Tội nghiệp cho người nghèo - những người lao động chân tay, kiếm sống tất tả trong cái lạnh. Tôi đã thấy ở ngả đường Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Quý Đôn... vẫn những người công nhân đêm đêm quét rác. Chậm rãi. Nhẫn nại. Vẫn chiếc áo mỏng quen thuộc mỗi ngày. Trên góc đường Trương Định, ông cụ cụt hai chân bán vé số, từ nhiều năm nay ngồi trên xe lăn, nay co ro trùm thêm cái áo mưa như chống lại cái lạnh đang vồ vập tới, che gió lạnh được phần nào hay phần đó. Cuộc mưu sinh đã trở nên khó khăn hơn. Rồi những người lâu nay chỗ ngả lưng hằng đêm trong góc chợ, mái hiên đường phố sẽ chống chọi với lạnh ra sao?
Sự đời cũng trái khoáy, bất hạnh của người này đôi khi lại tạo ra niềm vui kẻ khác.
Mới đây thôi, khi Sa Pa tuyết trắng xóa như ở châu Âu, lập tức thiên hạ đổ xô lên đó nhìn, ngắm, chụp ảnh, tận hưởng cái lạnh “ngàn năm có một” vừa hả hê, vừa sung sướng. Một cậu nhóc viết thư gửi mẹ: “ Họ trong những trang phục không thể ấm hơn, cười nói rôm rả, hạnh phúc bất tận khi chứng kiến những bông tuyết vô tình đang phủ trắng lên căn nhà của mẹ; họ chụp ảnh và họ thỏa mãn. Nhưng chừng ấy là chưa đủ đâu mẹ ạ, họ muốn nhiều hơn thế, thậm chí họ muốn tuyết phủ quanh năm trên chuồng bò của mẹ cơ; họ muốn biến ngôi làng của mẹ thành “thiên đường tuyết”, thành nơi mà họ có thể thoải mái đi đến - xem - cười và chụp ảnh ”.
Đọc mà buốt.
Với cái lạnh thấu xương đó, người dân nghèo sợ chết khiếp, bởi thời tiết khắc nghiệt đã cướp đi trâu, bò vốn là tài sản quý giá nhất. Thế nhưng sự đón nhận lại tréo ngoe, cách biệt, vẫn còn có người thầm mong trời lạnh hơn nữa, dài ngày hơn nữa để có thể chưng diện thêm nhiều bộ áo ấm lộng lẫy. Vui mừng đón nhận sự thay đổi đột ngột của thời tiết, chẳng có gì đáng trách. Chỉ tự hỏi lòng mình. Mỗi ngày đi trên đường phố, tự nhiên buồn buồn. Đêm đêm tiếng rao hột vịt lộn, mì gõ... vốn quen thuộc lâu nay đã nghe thấy khác. Giọng rao nhỏ hơn, hiu hắt hơn, run rẩy hơn trong gió lạnh.
Sực nhớ, mùa đông năm 1056, rét lắm, vua Lý Thánh Tôn bảo cận thần: “ Trẫm ở thâm cung, đốt than, mặc hồ cừu mà còn rét khổ đến thế này, nghĩ đến tù nhân ở trong ngục thất, bị gió rét thế nào. Vậy phải nên cung cấp cho họ đủ chăn chiếu và đồ ăn uống ”. Lòng nhân ấy, không xa lạ với cốt cách của người Việt. Kể cũng lạ, khi đứng trước một “tai ương” chung, dường như con người ta lại tỏ ra thân thiện hơn trước. Bằng chứng, dọc đường đi đã có người tắt máy xe, phải hì hục đẩy bộ, đâu đó có tiếng kêu lớn: “Đẩy xe vào đây”. Mừng húm, đẩy xe vào mái hiên, nơi có nhiều người đang trú mưa. Lập tức người thợ già thao tác nhanh, “có nghề” đã chỉnh sửa cho tiếng máy lại nổ vang giòn. “Bao nhiêu tiền vậy chú?”. Câu hỏi ngần ngừ. Cảnh giác. Mưa vẫn như trút. Bỗng nghe tiếng cười, có những giọt nước mưa lăn qua giọng nói vui vẻ: “Sá gì ba chuyện lẻ tẻ. Cứ đi đi. Hôm nào có sửa gì đi ngang qua đây trả cũng được”. Mà đâu phải riêng tôi, lại còn những xe khác đang tắt máy nữa.
Tự nhiên thấy ấm lòng.
Trở về nhà và ướt nhem. Nhìn lên trần nhà, đã thấy những giọt nước mưa tong tả. Chà, ướt hết sách rồi còn gì? Không một chút chần chừ, lại đánh vật với đống sách đang ướt. Những quyển sách cầm trên tay, thấy thân mật. Lâu nay, có những quyển sách mua về, bạn bè tặng do chưa có thời gian đọc nên chất đầy một góc nhà. Nay lật ra từng trang, từng trang nhìn thấy nét mực bạn ghi tặng đã nhòe nước mưa. Xốn xang lạ lùng. Những trang sách ấy dù mỏng, dù dày nhưng đã ngốn hết biết bao thời gian của một người ngồi gõ từng mẫu tự trên bàn phím. Nhìn trang sách, tưởng tượng đến bước chân lẻ loi của người đi qua sa mạc. Đi từng bước. Đi từng ngày. Và khi khép lại trang viết cuối cùng là đã về đến đích.
Mỗi nhà văn đều gửi gắm một nỗi niềm sâu kín nào đó. Nhưng rồi, đã có tri âm nào chia sẻ? Hay cuối cùng chỉ là những con chữ lãng quên theo năm tháng? Dù có thế đi nữa, nhưng nhà văn, người cầm bút cũng phải viết như một lẽ thôi thúc tự nhiên từ đáy lòng. Cũng như mưa, tự nó đến mùa lại hội ngộ cùng cõi nhân sinh. Chẳng cần phải có sự nhắc nhở nào. Ngoài trời vẫn đang mưa. Âm thanh ấy vọng lên một điều gì? Tùy tâm trạng của từng người. “ Mưa không cần phiên dịch ” - câu thơ của Phùng Quán nghe ra “triết lý” ghê gớm.
Mà lại đúng.
Xếp cẩn thận lại từng chồng sách, mở quạt hong khô từng trang, cảm thấy hài lòng, bởi ít ra đã không phụ lòng người viết từng trang sách ấy.
Trong giấc ngủ, vẫn còn nghe tiếng mưa vọng về. Vẫn còn nghe từ Hà Nội, người bạn gái thì thầm: “Anh à, rét buốt xương, em đang thèm một chút nắng”. Bèn hỏi: “Sao không là môi hôn nồng nàn như lửa ấm?”. Nàng khúc khích cười: “Rét xuống vài độ âm, chứ chẳng đùa đâu. Rét như kim châm vào da thịt. Tê buốt. Môi tím tái. Học trò phải nghỉ học và không ít người nhập viện. Ra phố, em phải áo len, áo nỉ, áo ấm, găng tay... cứ như nhân vật trong tiểu thuyết kiếm hiệp đi trong vùng băng tuyết. Anh thấy ghê chưa?”.
Trời đất ơi! Với cái rét này, đành xin chào thua, không thể gửi những vần thơ cho nàng sưởi ấm. Làm sao có thể gửi chút nắng từ phương Nam? Nghe thế, nàng cười: “Anh à, đã có lòng nghĩ về nhau, em đã thấy ấm áp lên một chút”.