← Quay lại trang sách

Kỳ IV

Phần trên là vùng Phú Nhuận theo trục Bắc-Nam, trên con đường Võ Di Nguy chạy từ Cầu Kiệu, qua ngả tư Phú Nhuận đến địa giới quận Gò Vấp.

Trục Đông-Tây là con đường Chi Lăng (nay là Phan Đăng Lưu) chạy từ chợ Bà Chiểu lên Ngả tư Phú Nhuận, tiếp nối là đường Võ Tánh (nay là đường Hoàng Văn Thụ) chạy qua Lăng Cha cả, đến Ngả tư Bảy Hiền.

Thuở ấy, con đường Võ Tánh chỉ đến giao lộ Võ Tánh – Ngô Đình Khôi (sau là Công Lý, nay là Nguyễn Văn Trỗi), nơi có trụ sở Bộ Tổng tham mưu quân lực VNCH, là thuộc xã Phú Nhuận; phần trên nữa, nơi có “lăng cha Cả” (mộ Giám mục Pigneau de Béhaine, tức Bá Đa Lộc, nay là giao lộ các đường Hoàng Văn Thụ, Lê Văn Sỹ, Cộng Hòa..) thuộc về xã Tân Sơn Hòa, hình như có một phần khu ông Tạ của bạn Cù Mai Công.

Vào nửa sau thập niên 1940, đầu thập niên 1950, góc đường Võ Di Nguy -Võ Tánh, nơi về sau mọc lên bệnh viện Cơ đốc Phục lâm đồ sộ, còn là một miếng đất rộng, trên đó có ngôi nhà nhỏ của một ông làm nghề đóng móng ngựa. Thời đó, xe ngựa chở khách còn rất nhiều, ngựa chạy lâu thì mòn móng sắt, vì thế, nghề đóng móng ngựa khá thịnh hành.

Từ nhà ông đóng móng ngựa đi lên không bao xa, ta gặp cổng xe lửa số 9. Tới đây, cần mở một dấu ngoặc để nói rõ hơn về chi tiết này. Thời Đệ nhất và cả Đệ nhị Công hòa, xe lửa từ ga Sài Gòn chạy ra phía Bắc phải chạy ngang những con đường có nhiều xe cộ qua lại. Ở đoạn đường nào có xe lửa chạy qua, người ta dựng 2 thanh chắn dài, khi xe lửa gần đến thì hạ xuống, ngăn xe cộ trên đường lại, xe lửa chạy qua rồi, thanh chắn được dỡ lên. Mỗi nơi như thế được gọi là một “cổng xe lửa”. Từ ga Hòa Hưng đi qua những con đường thuộc thành phố Sài Gòn và Quận Tân Bình, người ta đánh số các cổng xe lửa theo thứ tự từ 1 đến 11. Như thế, cổng xe lửa trên đường Võ Tánh mang số 9, trên đường Võ Di Nguy (nay là Nguyễn Kiệm) mang số 10, trên đường Nguyễn Huệ (nay là Thích Quảng Đức) mang số 11. Khi xe lửa chạy ngang địa phận quận Gò Vấp, các cổng xe lửa không còn mang số nữa.

Trở lại đường Võ Tánh, khúc thuộc xã Phú Nhuận, cũng vào những năm cuối thập niên 1940, sát cạnh đường xe lửa có một ngôi nhà nhỏ nằm lọt thỏm trong một khu đất rộng, trước nhà có treo tấm bảng “Nguyễn An Cư”, cậu bé 6-7 tuổi lúc ấy nào biết đó là nhà của ai, mãi rất lâu sau mới biết chủ nhân là một thầy thuốc có tiếng, chú của nhà cách mạng Nguyễn An Ninh. Sang thời Đệ nhất Cộng hòa, ngôi nhà mang tên Nguyễn An Cư không còn nữa, thay vào đó là trụ sở của Cảnh sát Cuộc quận Tân Bình.

Từ cổng xe lửa số 9 đi ngược lên giao lộ Võ Tánh – Ngô Đình Khôi, người ta còn nhìn thấy bên trái con đường một tòa nhà khang trang là nơi huấn luyện thể hình của lực sĩ Nguyễn Thành Nhơn, anh ruột lực sĩ Nguyễn Công Án, người đoạt giải nhất trong một cuộc thi thể hình tổ chức năm 1955 ở Luân Đôn (Anh quốc). Riêng ông Nguyễn Thành Nhơn, về sau có phụ trách chương trình “Con kiến càng”” trên đài phát thanh Sài Gòn, nhằm cổ xúy và hướng dẫn thanh thiếu niên các bài tập thể hình căn bản.

* Vào thập niên 1940, con đường Chi Lăng chạy một mạch từ Ngả tư Phú Nhuận đến chợ Bà Chiểu, qua nhiều địa danh đã trở thành kỷ niệm sâu đậm trong ký ức của những người tuổi trẻ thập niên 1940-1950. Hai hàng cây dầu, cây sao cao vút chia cách con đường tráng nhựa với hai con đường đất khá rộng ở hai bên, dành cho người đi bộ. Học trò đi học về trên con đường này thường lượm những trái cây dầu tung lên cao, chúng xoay tròn nhiều vòng trước khi rơi xuống đất, một hình ảnh đẹp nay khó tìm ra.

Đường Chi Lăng vào thời khoảng này còn ít xe cộ qua lại, xe cá nhân nhiều nhất là xe đạp xen lẩn một ít xe mobylette, lúc đầu là mobylette đen, rồi vàng, rồi xanh. Xe kéo không còn, mà xe xích lô đạp cũng ít thấy. Xe xích lô máy nhiều hơn, chủ yếu chở các bà tiểu thương ra chợ hay từ chợ về nhà, mang theo vài ba chiếc thúng mủng. Phương tiện “vận tải công cộng” thì xe ngựa đạt con số áp đảo. Về phương tiện này sẽ xin nói chi tiết hơn ở một bài sau.

Ngoài các phương tiện vận chuyển kể trên, ở Phú Nhuận thời đó còn có một phương tiện thật đặc biệt, đó là những chiếc xe chở công chức đi làm, cao, to, sơn màu ô-liu, thùng xe rất cao so với mặt đường, các bà, các cô phải bước xuống từng bậc một trên một chiếc thang sắt hàn chắc vào thùng xe.

Chỉ một hình ảnh nhỏ thoáng qua trên đường Chi Lăng vào một buổi chiều năm 1955 mà tôi nhớ mãi đến bây giờ. Lúc đó, quân đội quốc gia của Thủ tướng Ngô Đình Diệm đang đánh nhau kịch liệt với quân đội Bình Xuyên, cả thành phố rơi vào sự bất an, đường phố vắng ngắt. Chiều hôm đó, tôi đi học về, lững thững trên đường Chi Lăng, bỗng nhìn thấy bên kia đường, cha tôi đang gò lưng đạp xe trở về nhà. Cha tôi mải miết đạp, không thấy tôi, còn tôi, khi nhìn thấy cha thì ông đã đi khá xa rồi. Chỉ một phút chốc thôi, vậy mà mỗi lần nhớ lại hình ảnh đó, tôi quặn lòng thương và nhớ cha tôi…

Ở tuổi 8-9, sáng nào tôi cũng ngồi vắt vẻo sau chiếc xe đạp của cha tôi; trên đường đi làm, ông chở tôi theo và bỏ tôi xuống trường tiểu học tư thục Chấn Hưng trên đường Chi Lăng. Tôi vẫn còn nhớ rõ hình ảnh cha tôi mỗi lần đạp xe qua mặt một phụ nữ thì ngoái cổ lại nhìn, trăm lần như một. Lúc ấy đầu óc trẻ thơ có biết gì, chỉ biết lấy làm lạ về hành động của cha mình, mãi về sau mới biết lý do của sự “ngoái cổ” ấy. Những năm đó, cha tôi cũng chỉ mới 40-41 tuổi!

Con đường Chi Lăng cũng là chứng nhân chứng kiến vẻ mặt buồn dàu dàu của cậu học sinh 8-9 tuổi bước đi học trở lại sau khi những ngày Tết an vui, tràn đầy kỷ niệm vừa qua đi. Lúc ấy, xác pháo đỏ hồng tràn ngập hai bên con đường đất nhỏ, cậu bé vừa ôm cặp đi học, vừa tiếc nhớ những ngày vui đã qua, còn đến một quãng thời gian rất dài mới tìm thấy lại!

Năm 1957, gia đình tôi bán ngôi nhà trên đường Nguyễn Huệ, nơi tôi đã cất tiếng khóc chào đời, dắt díu nhau về quê ngoại tôi thuộc ấp Thuận Kiều, xã Bà Điểm, quận Hốc Môn, sát cạnh xa lộ Đại Hàn ngày nay. Một buổi sáng sớm, trong lúc gia đình dọn đi, cậu bé 13 tuổi ôm chiếc cặp da đựng mấy bộ quần áo, một ít sách vở đến đường Thái Lập Thành, ở trong nhà mấy người cô ruột để tiếp tục đi học tại trường tư thục Chu Mạnh Trinh. Duyên nợ giữa cậu bé với con đường Chi Lăng và vùng Phú Nhuận vẫn tiếp tục dài dài.

Đó là những ngày tết, khi tôi đã ở tuổi 13-14, đã biết làm những bài thơ than mây khóc gió đầu đời. Ấn tượng mạnh nhất mà con đường Chi Lăng ghi đậm trong tâm trí tôi lúc bấy giờ là những đêm giao thừa. Thằng bé ham vui, muốn chứng kiến những đêm cuối năm tại Sài Gòn, nhưng vào phút giao niên, lại thấy nhớ gia đình, nhớ ông bà, cha mẹ, các em…

Những lúc sống trong một tâm trạng rối rắm như thế, vào cận giờ giao thừa, tôi thường đi bộ ra ngả ba “chùa Bà đầm” (nơi đường Thái Lập Thành đâm ra đường Chi Lăng), đứng nhìn thiên hạ chuẩn bị đón Xuân. Và hình ảnh nổi bật tôi nhìn thấy lúc bấy giờ là những chiếc xe xích lô máy, những chiếc xe gắn máy, và cả những chiếc xe đạp đưa người hành hương từ hướng Ngả tư Phú Nhuận về Lăng Ông Bà Chiểu. Thời đó, lăng đức Tả quân Lê Văn Duyệt nằm cạnh chợ Bà Chiểu nên cụm từ mà người dân sử dụng phổ biến là “Lăng Ông Bà Chiểu”.

Những năm 1950, người đi viếng Lăng Ông vào đêm giao thừa đông nghìn nghịt, đường Chi Lăng là một trong những ngả chính dẫn về lăng. Có những bà, những cô được chồng, được anh chở đi, ngồi trên xe tay cầm bó nhang đốt sẵn, những đốm lửa nhỏ vạch nhiều vệt sáng dài theo đường.

Thời đó, người dân Sài Gòn-Gia Định xem việc đi viếng Lăng Ông là việc làm thiêng liêng bậc nhất trong dịp tết. Còn nhớ khi gia đình chưa dọn về Bà Điểm, có lần tôi bị cha mẹ rầy một trận tơi bời vì cái tội nằng nặc đòi lên nhà bên nội để đốt pháo và chơi bầu cua khi chưa đi viếng Lăng Ông. Mắng xong, cha mẹ mới cho biết rằng, ngày tết, phải đi viếng Lăng Ông trước rồi sau đó, muốn làm gỉ thì làm.

Thời đó, tại Lăng Ông Bà Chiểu, tổ chức phụ trách cúng tế, duy tu, bảo dưỡng lăng có tên là “Thượng công quí tế hội”. Những ngày cận tết, người ta trưng bày ngay trước điện thờ một con cọp thật, tất nhiên là đã chết, song da còn nguyên vẹn, được dồn gòn (hay trấu?), nằm hiên ngang như một con cọp sống. Miệng con cọp há to, đêm giao thừa, bá tánh đến viếng lăng, nhét tiến giấy vào miệng cọp, sâu vào tận trong cổ, trong bụng. Có lần, tôi chứng kiến cảnh tiền đầy ứ trong miệng cọp, rơi vãi ra ngoài! Đó có lẽ là dịp quan trọng nhất trong năm, giúp Thượng công quí tế hội có kinh phí để thực hiện chức năng của mình.

Đêm giao thừa hàng năm, hái lộc tại Lăng Ông là việc làm phổ biến nhất nhất của thiện nam tín nữ Sài Gòn, Gia Định. Sau đêm giao thừa, cây ở vào khoảng ngang với đầu người trở xuống không còn một chiếc lá, may mà phần lớn chúng là những cây cao to nên hành vi hái trụi lá bên dưới không ảnh hưởng bao nhiêu đến đời sống của chúng.

16.2.2024

.

Đường Chi Lăng năm 1965 theo một bức ảnh của Jerry Cecil, trang thoixua.vn đăng lại. Hàng cây sao, dầu và hai con đường đất dành cho người đi bộ vẫn còn, song vào thập niên 1950, chưa có những dãy nhà liền kề nhau cạnh đường đi bộ, mà chỉ có những ngôi nhà biệt lập nằm sau những hàng rào cây xanh thấp hơn đầu người.

.

Ty Công chánh VNCH trước 1975 nằm ngay góc đường Chi Lăng - Hoàng Hoa Thám. Năm 1965, vẫn còn xe ngựa tại Phú Nhuận, Gia Định

Ảnh Jerry Cecil, trang thoisu.vn đăng lại