← Quay lại trang sách

- 25 - SCOTT FITZGERARLD- VÀ MỘT THẾ HỆ MẤT MÁT

.

Francis Scott Key Fitzgerald [1896-1940]

Tác giả của Gatsby vĩ đại đi qua thời kỳ giữa hai cuộc Đại chiến thế giới như một ngôi sao chổi. Sau vinh quang sớm sủa, ông sống trong sự lãng quên. Ông không hình dung được rằng cuộc sống lại không trải qua thảm bại. Một số cho ông là hợm mình, nhưng ông đơn giản chỉ thất vọng không đạt tới tầm cỡ của những ước mơ của mình.

Khi người ta nhìn cuộc đời của Scott Fitzgerarld [1896-1940] bằng cặp mắt lơ đãng, họ chẳng thấy ra được những nguyên nhân vì sao ông ta lại có thể từng khổ sở như thế. Từ năm 23 tuổi, Fitzgerarld có đủ thứ: Sự nổi tiếng, có được ngay từ khi xuất hiện thiên truyện đầu tay Mặt trái của Thiên đường, tình yêu - lấy người con gái mà bao chàng trai mơ ước của Montgomery, Zelda Sayre, những triển vọng giàu sang đầy hứa hẹn và cuối cùng những tạp chí sang trọng nhất tranh nhau đăng những truyện ngắn của ông.

Thời đại của nhạc Jazz “mà tình trạng hưng phấn thần kinh không thể không gợi đến tinh thần của những thành phố lớn, đằng sau những chiến tuyến trong một cuộc chiến tranh”, xem ra đã tìm thấy ở nhà văn này một vẻ đẹp cổ điển, như một tấm huân chương, phóng túng và tao nhã, người mẫu hàng đầu của nó. Đi ngược lên Đại lộ số 5 trên mui một chiếc taxi, nhảy điệu Charleston trong vũ trường khách sạn Baltimore hay ngụp lặn trong bồn nước Pulitzer, Scott và bà vợ lập dị của ông có thể một lúc nào đó tin vào thiên đường. Bà Zelda nói: “Cho đến năm 1921, chúng tôi thuộc những cặp vợ chồng mà người ta ước ao nhất của Mỹ”.

Vậy thì tại sao lại có cái mùi của tử khí, cái hành trình đến hư vô đó, cái thú nhận cuối cùng đăng trên tờ Esquire ở giữa hai cô gái thoát y đó: “Thật thế mọi cuộc đời là một quá trình hủy thể?” Tại sao lại có sự thất bại như thế? Trong một lá thư dài ba trang, đề ngày 28/5/1934 và gửi cho tác giả của Êm ả là đêm tối, Ernest Hemingway – người gõ lên chiếc máy chữ giống như một võ sĩ quyền Anh trên võ đài – tóm tắt lại sự tình bằng một nét: “Chú bé, chú không phải là một nhân vật của bi kịch”.

Scott Fitzgerarld đứng để nhận cú đấm. Ông không là một vĩ nhân, thế nhưng tại sao người ta lại chẳng quên ông? Ông nói: “Tôi có ngọn lửa sáng tạo, nhưng yếu đuối như bất kỳ ai. Nếu những điều lớn lao không đeo đẳng tôi, ấy là vì tôi không sinh ra để trở nên lớn lao”. Bi kịch của ông nằm trong sự khám nghiệm sau vụ tai nạn. Quá mảnh dẻ (cao 1m70) để chói sáng trong các lãnh vực thể thao, không đủ may mắn để có thể cám dỗ lâu dài nhà đại phú Ginevra King, Scott trải qua những năm tốt đẹp nhất đời mình chạy theo danh hiệu một nhà vô địch và rồi tuyên bố bỏ cuộc. Êm ả là đêm tối, nơi cư ngụ những giấc mơ, nhưng phũ phàng là thực tế. Thứ rượu “gin” trở thành người bầu bạn, đầy hoang tưởng, để khuây đi niềm thất vọng: “Người say sống trong một thế giới riêng, có ngay những sảng khoái và mãn nguyện, nhưng vô giá trị vì họ tàn tạ đi, giống như những tờ séc ký bằng thứ mực không nhìn thấy được”.

Ở tuổi 30, ông đã kiệt quệ: Ba cuốn tiểu thuyết và khoảng 40 truyện ngắn. Những giây thần kinh còn nhạy cảm, nhưng ngôn ngữ đã trơ như gỗ. Chẳng mấy chốc ông tự giới thiệu mình: “Tôi là một dân nghiện rượu”. Một cách nào đó, mọi thứ đã được nói ra. Ông đã không đến đích và không bao giờ là vĩ nhân. Công chúng quên các tác phẩm của ông và các nhà phê bình đã không còn coi trọng chúng. Những năm 20 đổ vỡ, các chủ nhà băng vãi lên vỉa hè những tử thi của họ và Fitzgerarld có thể viết như người ta cắt mạch máu của mình ra: “Thật kỳ, tôi sẽ trở nên thứ văn sĩ hạng hai xuất sắc trên đời này”.

Ở thành phố Paris, số nhà 14 phố Tilsitt, trong một căn hộ trang bị những đồ đạc phỏng theo thế kỷ XVIII, Fitzgerarld đọc lại cho Morley Callaghan, nhà văn nữ trẻ tuổi Canada, những trích đoạn trọn vẹn trong Giã từ vũ khí. Nếu như trên đời có Những kẻ hạnh phúc và những kẻ đọa đày, tên cuốn tiểu thuyết thứ hai của ông, thì hẳn ông thuộc loại người sau. Nhìn Hemingway với cặp mắt trẻ con, người ông đã gặp ở Paris tại quán rượu Ringo, ông làm đủ trò để cho chàng trai ít tuổi hơn nhưng lại lực lưỡng hơn ông phải phục lăn ra. Một tối, tại khách sạn Ritz, họ thấy một phụ nữ trẻ đến tại góc quán dành cho phái đẹp. Scott đánh cuộc với Ernest rằng ông sẽ ngủ tối với cô ta. Ông cho mang đến cô những bông hoa lan, nhưng cô ta trả lại. Và rồi Fitzgerarld đến nghiêng mình trước cô gái không quen biết này, vì chẳng còn hy vọng gì nữa, ông ăn hết những bông hoa. Và ông đã thắng cuộc.

Scott muốn làm người ta vừa lòng nhưng thường lại gây mếch lòng. Những truyện ngắn của ông nhằm đài thọ cho những trò chơi ngông. Ông đã cho đăng phần lớn chúng trên tờ Saturday Evening Post. Cuộc đời ông tuôn chảy trong truyện như rượu chảy trong huyết quản của ông. Nhưng lứa đôi chia lìa, những tình cảm khô cạn. Scott không đi đến việc quên đi thất bại của những khởi đầu của mình. Trên tường phòng ở tại số nhà 200 đại lộ Claremont, ông đã ghim lên 122 bức thư khước tình ghi dấu quãng đời tình ái ban đầu.

Fitzgerarld lúc nào cũng thiếu tiền. Ông tưởng rằng mình là kẻ phải tiêu tiền không thèm tính toán. Xuyên Đại Tây Dương trên chiếc tàu hạng sang, đi lại bằng chiếc xe hơi Rolls Royce mui sập, thuê những ngôi biệt thự mênh mông như những giấc mơ của mình. Đối với ông, châu Âu như một bà đầm già - “một nền văn hóa không tiền”. Ông trở lại gốc gác bằng việc qua lại với những người giàu. Tuy nhiên, ông biết rằng bao giờ ông cũng đứng ngoài cổng những lâu đài của họ. Ông viết: “Nếu mai sau tôi có trở nên ông vua xứ Ê-cốt, tôi cũng chỉ là một tên hãnh tiến”.

Ở mũi đất Antibes, ông kết giao với nhà Murphy, một đôi vợ chồng Mỹ phong lưu và lịch sự mà ông dùng làm mẫu cho Dick và Nicole per, các nhân vật chính trong cuốn truyện Êm ả là đêm tối.

Theo lời những người quen biết, Scott Fitzgerarld không phải là một người thật dễ mến. Rượu đã làm ông hay gây gổ và ông làm thiên hạ khó chịu với những câu hỏi không đúng chỗ. Lúc nào ông cũng muốn biết là người đối thoại với mình có từng ăn nằm với vợ trước khi cưới nhau hay không.

Sự có mặt của Zelda cũng chả hề được thu xếp. Họ gặp nhau tại CLB đồng quê của Montgomery lúc Scott mặc đồ sĩ quan, đã mời cô gái trẻ khiêu vũ. Cô đã đồng ý lấy ông lúc ông đang nổi tiếng. Họ cưới nhau năm 1920 tại nhà thờ lớn Saint-Patrick ở New York. Zelda không bao giờ đi ra ngoài mà không gây chuyện. Cô đập vỡ máy báo động hỏa hoạn làm cho lính cứu hỏa chạy nháo nhác và cất trong ngăn kéo bàn một khẩu súng lục không lắp đạn. “Ai đến đấy?” Cô gào lên và nhìn lên mái nhà: “Bản năng yêng hùng của tôi không đi theo tinh thần luật pháp và trật tự. Lúc nào tôi cũng là kẻ phạm tội đang lẩn trốn”, Zelda tự thú. Tự do như khí trời, Zelda nhai kẹo cao su và uống rượu gin. Một người từng nhận xét: “Cô ấy sống trên bọt, trên miệng chai”, Zelda đã sưu tập những kẻ suy sụp thần kinh và nhảy từ đầu cầu thang xuống để không thua kém gì Isadora Duncan. Một lần khác, say rượu lái xe dọc con đường men vực thẳm ở miền Nam nước Pháp, cô đã cố ý phóng xe xuống vực. Khi mà Sarah Murphy kinh ngạc về điều đó, Zelda cãi lại: “Thế thì cậu chả biết là chúng ta không tin vào những cái vững bền sao?”.

Scott bị cuốn theo những cái đó một cách điên rồ và họ chẳng bao giờ ngừng cãi lộn. Zelda từng thốt ra: “Hôn nhân của chúng tôi là cái gì? Với những gì mà tôi còn nhớ được chẳng có gì khác hơn là một cuộc chiến kéo dài”. Bà lên án ông đã đánh cắp cuộc đời bà để viết ra cuốn tiểu thuyết. Sau khi sinh ra cô con gái, Scottie, Zelda đã thốt lên: “Tôi sung sướng rằng đấy là con gái và mong rằng nó sẽ ngu ngốc. Chính là cái mà một người con gái có lợi thế nhất trong cuộc đời này – một cô bé xinh đẹp nhưng ngu ngốc”. Đấy là những câu nói của Daisy, nhân vật nữ trong cuốn tiểu thuyết Gatsby vĩ đại.

Zelda từng mơ trở thành tiểu thuyết gia, rồi vũ nữ. Còn Fitzgerarld thì nói: “Một điều lạ lùng là tôi không bao giờ thuyết phục được cô ấy tin rằng tôi là một nhà văn hạng nhất”. Và ông chấm dứt niềm hy vọng đó khi Zelda lâm vào tình trạng cực kỳ lo âu và nóng nảy.

Những năm cuối cùng, cuộc đời Fitzgerarld lụi dần như nắng cuối hè. Một lần nữa ông lại tham gia Hollywood: bao giờ con người thiêng liêng này cũng cần tiền. Thế nhưng tên ông lại không hề xuất hiện trong “generic” của một bộ phim nào? Trú tại khu Vườn Thánh Allah, một khách sạn bày biện theo phong cách Tây Ban Nha - Môrơ, ông tự gửi một lá thư cho chính mình: “Scott thân mến, anh có khỏe không?”. Ngủ nằm nghiêng về phía trái tim để làm tắt đi những nhịp thổn thức cuối cùng, ông đã gặp Shellah Graham vào một bữa tiệc tối của bá tước Donegall và người đàn bà gợi lại cho ông hình ảnh của Zelda.

Fitzgerarld chắc cũng kiêu hãnh vì đã gặp gỡ Ginger Rogers và Joan Crawford, nhưng ngày càng trở nên trầm tư và cô đơn. Những bạn bè xa lánh ông và người đại lý thì từ chối không chịu ứng tiền trước. Người ta không tìm ra một cuốn truyện nào của ông trong các thư viện. Trong những lá thư gửi Zelda, ông làm một cuộc kết toán: “Chúng ta bị hủy diệt, nhưng với tất cả sự trung thực, anh không hề nghĩ rằng chúng ta đã hủy diệt lẫn nhau”.

Ông đã không còn thời gian để hoàn thành cuốn Người Nabab cuối cùng. Ngày 21/12/1940, ông quỵ xuống trước lò sưởi, nạn nhân của bệnh tắc động mạnh vành. Dorothy Parker là người duy nhất canh thi hài của ông. Trong lời di chúc mà ông sửa chữa lần cuối, Scott Fitzgerarld đã nói rõ ra điều ông mong muốn: “Tang lễ và chôn cất càng ít tốn kém càng tốt”.

Ông đã từng sống quá sức lực của mình và ông đã chết dưới mức những tiện nghi của mình!