← Quay lại trang sách

Trên Tấm Sắt.

Di về phía cổng nhà máy có các cô các bác lớn tuổi, các thanh thiếu niên. Một số người chào hỏi chị Nhi-na Páp-lốp-na, trao đổi với chị về những tin tức của nhà máy.

- Tàu chở phôi ở Pe-rơ-vô-u-ran-xcơ đến rồi đấy chị ạ…

- Có, tôi đã trông thấy đầu tàu kéo toa không trở ra.

- Chúng ta vừa được cấp thêm máy. Máy cũng tàm tạm, dùng được…

Người nói câu vừa rồi là một ông già cao lớn và to béo. Ca-chi-a nhận ra ông ngay và cũng nhớ ngay cả họ, tên và phụ danh của ông – Ba-bin Ghê-ra-xim I-va-nô-vích, - bởi vì trí nhớ em rất tốt. Ông này tất nhiên là già rồi, nhưng đồng thời lại như vẫn còn trẻ. Chiếc mũ lưỡi trai đầy dầu mỡ y hệt chiếc bánh đặt trên cái đầu tròn xoe của ông trông rất ngộ. Bộ ria và cặp lông mày của ông bạc trắng, nhưng đôi mắt lại như hai hòn bi ve bằng thủy tinh đen nấp trong những nếp nhăn tươi cười. Hình như ông cũng nhận ra Cô-xchi-a.

- Bác nhận cho hai cháu này vào phân xưởng thanh niên, - Nhi-na Páp-lốp-na nói. – Có bác, các cháu sẽ mau chóng quan với công việc và không dám nghịch ngơm. Hai cháu này ở với bà cụ anh Va-xi-li nhà tôi đấy bác ạ.

- Nhận thì tôi sẵn sàng nhận, nhưng làm với bọn trẻ là gay lắm: chúng chỉ hay đánh hỏng dụng cụ chứ chẳng được tích sự gì, - ông Ba-bin đùa. Rồi ông nói thêm, giọng nghiêm trang: - Chị Nhi-na ạ, chúng ta sẽ làm gì đây, gay go lắm! Chúng ta được cấp rất nhiều máy, nhưng lại không có đồ nghề. Chẳng có dao cắt gọt, cũng chẳng có dao phay. Đến cái lắc lê cũng thiếu. Trong khi chờ đợi bộ đồ nghề mới, chúng tôi cứ phải ngồi không như bị cụt tay vậy, mà ông giám đốc vẫn đòi hỏi phải thực hiện đúng kế hoạch sản xuất chứ có châm chước đâu…

- Ai chẳng có môi lo riêng hả bác, - chị Nhi-na Páp-lốp-na đáp. - Ở phân xưởng nhiệt luyện chúng tôi, việc lắp ráp kéo dài đến nỗi ức phát khóc lên ấy bác ạ.

- Sao lại khóc kia chứ! – ông già an ủi. – Trong có một tháng chúng ta đã ổn đinh được nhà máy. Anh Va-xa-li nhà chị có về cũng không nhận ra chỗ này đâu. Hồi trước, đây chỉ là một xưởng nhỏ, đùng một cái đã xuất hiện một nhà máy… Mà không phải chỉ thế này đâu.

Bác bảo vệ mở toang cổng. Một chiếc máy kéo lăn bánh ra ngoài. Nó kéo theo sau một tấm sắt lớn lê rầm rầm trên mặt đường. Trên tấm sắt, giống như trên một cái khay, có ba thiếu niên đứng bám vào nhau đang khoái chí với chuyến đi náo động này.

- Đi đâu thế các cháu? – ông Ba-bin kêu lên.

- Bác quản đốc phân xưởng cử chúng cháu ra quãng tàu tránh để thu nhặt các đồ nghề người ta đem sơ tná bác ạ, - em lớn nhất đáp lại.

- Dừng lại! – ông Ba-bin thét.

Người lái hãm ngay máy kéo.

Ông già nắm lấy tay Cô-xchi-a và Xê-va, cùng các em chạy lên tấm sắt và bảo chị Nhi-na Páp-lốp-na:

- Chị làm ơn nói giúp với ông Chi-mô-sen-cô là tôi ra quãng tàu tránh với các cháu nhé, kẻo mấy đứa ngốc nghếch này chỉ lấy toàn những thứ vớ vẩn về thôi… Nào đồng chí lái xe, cho tăng thêm ga nào! Các chau bám chắc vào nhé!

Tất cả các em đứng trên tấm sắt đều bám vào ông Ba-bin. Tấm sắt lê giần giật, kêu rầm rầm. Ông Ba- bin giơ mũ vẫy chị Nhi-na Páp-lốp-na đang cười, và để cho vui nhộn, ông đội chiếc mũ lên đầu cho lưỡi trai ngược về sau gáy, rồi ông lại còn nhảy giậm chân cồm cộp nữa chứ. Nếu các bạn không tin, tôi thề danh dự với các bạn là đúng như vậy đấy!

- Nếu đốc xông Ba-bin này đã bắt tay vào làm việc gì, thì không bao giờ bỏ dở đâu nhé! – ông hét to. – Đúng không, con đại bàng? - Rồi ông lắc vai Cô-xchi-a rõ mạnh.

Khu rừng thông đã lùi lại đằng sau. Máy kéo chạy tới nền đường sắt rồi rẽ vào một bãi hoang. Cô-xchi-a cảm thấy bàn tay ông Ba-bin đặt trên vai em nặng hẳn lên. Em ngẩng đâu và thấy ông đang cau mày, vẻ vui nhộn lúc nãy đã biến mất.

- Trông kìa, các cháu trông kìa! – ông Ba-bin làu bàu.

Ông bảo người lái xe hãm máy kéo lại rồi đi dọc theo nền đường sắt.

Thoạt đầu Cô-xchi-a tưởng phía dưới nền đường là một bụi cây rậm rạp, lạ lùng, thân cây to sù, cành ngắn cũn, uốn cong một cách kỳ quặc. Nhưng không, đó không phải là bụi cây. Đó là hàng trăm cỗ máy bị dỡ xuống bên lề đường. Nếu Ca-chi-a biết kỹ thuật nhà máy, em sẽ hiểu rằng số thiêt bị này đủ trang bị cho vài nhà máy cơ khí và gồm đủ những loại máy móc khác nhau: nào máy tiện, máy bào, nào máy mài, máy khoan. Nhưng dù không biết, em cũng hiểu rằng máy móc vứt thế này là không ổn. Quả thật một số cỗ máy có được phết lớp mỡ dày, còn tay gạt được bọc giấy tẩm dầu, nhưng ở nhiều cỗ máy khác đã xuất hiện những vết gỉ đo đỏ.

- Bọn phát-xít tàn ác gây ra cảnh như vậy đó, biết bao nhiêu máy móc phải dỡ khỏi nhà máy! – ông đốc công già lắc lắc đầu, miệng lẩm bẩm.

- Những cái mày này mang ở đâu đến hả bác? – Cô-xchi-a hỏi.

- Ở đâu ấy à? Làm sao bác biết được! Có thể là từ miền nam, mà cũng có thể là từ Lê-nin-grát. Chúng ta chở máy đi để khỏi lọt vào tay bọn phát-xít.

Trên một cỗ máy, các em trong thấy dòng chữ viết bằng sơn dầu trắng: “Trên cỗ máy này, ngày 20 tháng 6 năm 1941 tôi đã lập kỷ lục: đạt 750 phần trăm định mức. Ngày 25 tháng sáu tôi lên đường đánh bọn phát-xít. Chào cỗ máy yêu quý! Xê-mi-ôn Cra-vét “.

- Cra-vét cừ lắm! – ông đốc công tán thưởng. – Nghĩa là cậu ấy đi chiến đấu, còn cỗ máy thì phải xa chủ…

- Bác Ba-bin ạ, phải đem tất cả máy móc về chứ bác! Sao lại để ở đây ạ? Sắp có tuyết rơi rồi, máy sẽ bị vùi lấp hết, - các em tranh nhau nói.

- Đem về để ở đâu mới được chứ! – ông Ba-bin buồn rầu đáp và phẩy tay một cái.