2 -GIÀN TRẦU CỦA BÀ
Trước sân nhà Hạnh có một giàn hoa an-ti-gôn rất đẹp. Những buổi chiều mùa hè, mỗi khi cơm nước xong, bố Hạnh thường bắc ghế ra sân ngồi dưới giàn hoa hóng mát, hút thuốc lá. Còn Hạnh thì nhặt những bông hoa rụng để chơi đồ hàng.
Những bông hoa nhỏ li ti, màu hồng nhạt, đựng trong một chiếc đĩa mây, Hạnh thường gọi là những quả đào con. Ngày nào cũng chơi như thế mà Hạnh chẳng thấy chán. Những bông hoa nhỏ ấy có sức quyến rũ Hạnh lạ thường.
Thế rồi một hôm, Hạnh thấy bố nói với mẹ là sẽ dỡ giàn hoa ấy đi để trồng một giàn trầu. Mẹ cũng bằng lòng ngay. Riêng Hạnh thì chả thích tí nào. Giàn trầu chỉ có lá, không có hoa; sao bằng giàn hoa an-ti-gôn? Hôm ấy, Hạnh đã chực khóc. Bố ôm Hạnh vào lòng:
— Bà già rồi, bố thương bà lắm, muốn trồng cho bà một giàn trầu đề bà lấy trầu ăn và sớm hôm bà chăm sóc nó. Có việc cho bà vui lúc tuổi già.
Nghe bố nói thế, Hạnh hiểu và bằng lòng ngay. Chả lẽ Hạnh không biết thương bà sao?
Chỉ mấy ngày sau, ý định đó được thực hiện. Bố dỡ hết những dây hoa quăng vào một góc sân. Tuy đã hiểu việc làm của bố, Hạnh vẫn thấy bùi ngùi thế nào ấy. Thương những bông hoa quá!
Đến phiên chợ Bưởi, bố Hạnh cất công đạp xe xuống chợ mua một cây trầu con. Chỗ gốc an-ti-gôn cũ nay trồng cây trầu.
Người vui nhất trong nhà có lẽ là bà. Từ ngày có cây trầu, sáng nào bà cũng ra tưới, vun gốc và chăm bón cho nó. Cây trầu lên nhanh lắm. Chả bao lâu mà dây của nó đã leo tới giàn. Những chiếc lá non xòe ra như những bàn tay nhỏ xíu hứng ánh nắng mặt trời.
...sáng nào bà cũng ra tưới...
Một bàn tay nhỏ, hai bàn tay nhỏ, ba bàn tay nhỏ, rồi rất nhiều những bàn tay nhỏ nảy ra. Những bàn tay nhỏ ấy càng hứng nhiều ánh nắng mặt trời càng trở nên xanh mượt.
Hạnh còn nhớ mãi. Hôm bà hái những lá trầu đầu tiên để ăn lại đúng vào ngày rằm. Bà mừng lắm, đem những là trầu tươi vào bàn thờ thắp hương cúng. Sau đấy, bà đem chia cho các cụ già hàng xóm mỗi người vài lá. Chỉ có thế thôi mà các cụ có vẻ quý lắm. Hạnh làm nũng bà: “Bà ơi! Bà cho cháu nếm thử một miếng trầu xem có ngọt không nào? Bà cũng phải chia phần cho cháu với chứ!”
Thế rồi xung quanh cơi trầu của bà, các cụ chuyện trò rôm rả. Thật đúng như câu người ta thường nói: “Miếng trầu là đầu câu chuyện”.
Tất cả những điều đó nay đã trở thành kỷ niệm thân yêu về người bà của Hạnh. Bởi vì bà không còn nữa. Bom Mỹ đã giết chết bà.
...câu chuyện về bà lại được nhắc đến...
Hôm ấy, bọn chúng cho máy bay đến cắn trộm. Bà của Hạnh chậm chân không kịp xuống hầm. Một mảnh bom đã trúng vào người bà. Cả nhà đoán rằng lúc ấy bà đang hái trầu.
Hạnh đã khóc rất nhiều. Bố mẹ Hạnh cũng khóc rất nhiều. Cả những bà già hàng xóm cũng khóc. Lúc ấy, Hạnh cũng hiểu hơn bao giờ hết tình thương của mọi người đối với bà.
Sau cái Tết hòa bình đầu tiên, bố Hạnh dựng lại chiếc giàn bằng nứa đã bị sập. Giàn trầu nay chỉ còn lại cái gốc. Bố gọi Hạnh đến bên gốc trầu, buồn rầu bảo Hạnh:
— Bà mất rồi, nhà không còn ai ăn trầu nữa. Bố sẽ đánh gốc trầu này đi để trồng lại cho con giàn hoa. Con bằng lòng chứ?
Bố tưởng Hạnh sẽ vừa lòng. Nhưng thật không ngờ, Hạnh lại trả lời khác hẳn:
— Bố ạ! Gốc trầu này là của bà, con không muốn phá đi đâu...
Bố cảm động, không phá gốc trầu đi nữa. Bố lại tiếp tục chăm bón cho nó. Chẳng bao lâu gốc trầu lại này những mầm xanh. Rồi những lá trầu non như những bàn tay nhỏ lại xòe ra hứng ánh nắng mặt trời.
Đến nay, dây trầu dã leo kín giàn làm râm mát một góc sân. Bố Hạnh thường mời các bà các cụ hàng xóm sang hái trầu ăn. Mỗi lần như thế, câu chuyện về bà lại được nhắc đến. Giàn trầu đã thật sự trở thành một kỷ niệm.