← Quay lại trang sách

Chương 3 Những bài học từ nền công nghiệp điện toán

Thành công là người thầy đáng sợ. Thành công quyến dũ những người thông minh nghĩ rằng họ không thể thất bại. Và thành công cũng là một hướng đạo viện không đáng tin cậy để hướng dẫn ta đi vào tương lai. Những kế hoạch kinh doanh nghe có vẻ rất hoàn hảo, hay những kỹ thuật tiên tiến nhất hiện nay như máy nghe nhạc hiện đại, máy thu hình hay máy điện toán lớn, đều cũng có thể nhanh chóng trở lên lạc hậu. Tôi đã từng chứng kiến cảnh đó xảy ra. việc theo dõi thật kỹ trong một thời gian dài hoạt động của các công ty, có thể dạy cho mình những nguyên tắc để đề ra các chiến lược cho tương lai.

Những công ty đầu tư vào xa lộ thông tin sẽ cố gắng tránh tái phạm các sai lầm mà nền công nghiệp điện toán đã mắc phải trong hơn hai mươi năm qua.

Tôi nghĩ rằng hầu hết những sai lầm đó có thể hiểu được bằng cách quan sát một vài yếu tố cơ bản. Trong số đó có những yếu tố như dạng xoắn ốc tiêu cực, sự cần thiết phải chủ động hơn là xuôi theo thời cuộc, tầm quan trọng của phần mềm tương phản với phần cứng, và vai trò của tính tương hợp và sự phản hồi tích cực mà nó tạo ra.

Bạn không thể dựa vào trí tuệ thông thường vì nó chỉ phát huy tác dụng trong hơn ba mươi năm qua, thị trường phần mềm và phần cứng của máy điện toán rõ ràng không phải là thị trường thông thường. Những công ty lớn, có dự án ngân hàng tiếng,đạt doanh thu mỗi ngày lên tới hàng trăm triệu Mỹ kim, nhưng rồi có hàng loạt khách hàng quen thưộc của họ đột nhiên biến mất chỉ trong một thời gian rất ngắn. Các công ty lớn như Apple, Compaq,Lotus,Oracle, Sun và Microsoft đều từ hai bàn tay trắng đã nhanh chóng đạt doanh số tới 1 tỷ Mỹ kim. Những thành công đó thúc đẩy, một phần, bởi điều mà tôi gọi là "sự tăng trưởng theo đường xoắn ốc tích cực".

Khi bạn có trong tay sản phẩm ăn khách, các nhà đầu tư để mắt đến bạn và sẵn sàng đổ tiền vào công ty của bạn. Và một không đã có một người đến thì những người khác nhanh chóng đến theo. Điều đó tạo lên hưng phấn. Các đối tác và khách hàng có tiềm năng để ý tới, và hình xoắn ốc cứ thế lên cao dần, tạo đà cho những thành công khác dễ dàng hơn.

Ngược lại, có một đường xoắn ốc tiêu cực mà nhiều công ty có thể đã lâm vào. Một công ty lâm vào tình trạng của một đường xoắn ốc tiêu cực thường làm ra vẻ đó là định mệnh, trong khi công ty khác cảm thấy như giờ tận số của họ sắp điểm rồi. Nếu một công ty bắt đầu mất cổ phần thị trường hoặc cho ra đời một sản phẩm tồi thì câu chuyện đầu lưỡi sẽ là "tại sao cậu lại làm ở công ty đó?" "tại sao anh lại đầu tư vào công ty này?" "tôi nghĩ ông không mua cổ phiếu của họ".Báo chí,các nhà phân tích, bắt đầu đánh hơi, và tung ra các câu chuyện nội bộ công ty như ai đã cãi nhau với ai, người nào phải chịu trách nhiệm về việc quản lý tồi tệ đó. Khách hàng bắt đầu đặt dầu hỏi và liệu trong tương lai họ có lên mua cổ phiếu của công ty đó không. Trong nội bộ công ty, mọi việc đều có vấn đề, kể cả những việc đang được thực hiện tốt. Thậm chí một kế toán tốt cũng bị loại bỏ với lý lẽ "Anh chỉ lo bảo vệ cái cũ", và tất cả những điều đó chỉ tổ làm cho công ty phạm thêm nhiều sai lầm khác. Thế mà công ty rơi vào chiều xoắn ốc đi xuống. Những nhà lãnh đạo tài ba như Lee Iacocca, người có công đầu trong việc lật ngược thế cờ trong khi công ty đang lâm vào chu kỳ xuống dốc, rất xứng đáng được tán dương.

Trong suốt thời niên thiếu của tôi, máy điện toán bán rất chạy thời đó là mày của hãng Digital Equipment Corporation-hay còn gọi là DEC. Trong suốt hai mươi năm trời, độ tăng trưởng theo đường xoắn ốc tích cực của công ty hầu như không thể dừng lại. Ken Olsen, người sáng lập ra hãng DEC, là người đã thiết kế ra phần cứng mang tính truyền thuyết đó và cũng là thần tượng của tôi. Năm 1960, ông đã sáng lập ra nghành công nghiệp sản xuất máy điện toán mini bằng cách cho chào hàng một máy điện toán "nhọ"đầu tiên. Chiếc máy ra đời sớm nhất là chiếc PDP-1, tổ tiên của chiếc máy PDP-8 của trường trung học tôi học thời đó. Người mua,thay vì phải trả hàng triệu Mỹ kim cho "đống sắt"đó của hãng IBM, có thể mua một máy PDP-1s của Oslen với giá chỉ có 120.000 Mỹ kim. Nó không mạnh bằng chiếc máy lớn, nhưng nó có rất nhiều ứng dụng khác nhau, và phát triển thành một hãng có số vốn lên tới 6,7 tỷ mỹ kim.

Hai thập niên sau, tầm nhìn của Oslen bắt đầu bị dao động. Ông không còn nhìn thấy tương lai của chiếc máy điện toán để bàn nữa. Ngay lập tức, ông bị hất ra khỏi hãng DEC, và một phần của câu chuyện truyền thuyết của ông hiện nay chỉ là, ông là một con người nổi tiếng vì đã công khai và nhiều lần coi chiếc máy điện toán cá nhân chỉ là món đồ chơi nhất thời. Tôi cảm thấy buồn khi phải nghe những câu chuyện giống như chuyện của Oslen. Ông là người rất tuyệt vời trong cách tìm ra phương pháp mới để tiến hành công việc, và rồi-sau những năm dài được mệnh dự án ngân hàng là nhà sáng tạo - ông đã lạc bước giữa ngã ba đường.

Một người có những suy nghĩ hư ảo khác là An Wang, một di dân gốc trung hoa. An Wang đã biến phòng thí nghiệm của ông thành một hãng cung câphs máy tính điện tử có ảnh hưởng lớn vào thập niên 60. Trong thập liên 70, phớt lọ mọi lời khuyên can của bạn bè xung quanh, ông rời bổ thi trường máy tính ngay trước khi nó bước vào một cuộc cạnh tranh giá cả quyết liệt có thể làm cho ông tán gia bại sản. thật là một quuyết định tuyệt vời. Wang thành lập lại công ty khác và nó đã trở thành một hãng cung cấp máy xử lý từ (văn bản) hàng đầu. Trong suốt thập niên 70, máy xử lý từ của ông đã thay thế máy đánh chữ của hầu hết các văn phòng trên toàn thế giới. Máy của ông có thiết kế một bộ vi xử lý bên trong nhưng không phải là những máy điện toán cá nhân thực thụ, bởi chúng được thiết kế để thực hiện chỉ một chức năng là xử lý văn bản.

Wang lại là một kỹ sư có những ý nghĩ không thực tế. Sự hiểu biết sâu sắc thể hiện trong quyết định từ bỏ máy tính bờ túi lẽ ra đã có thể dẫn ông tới chỗ thành công trong việc sản xuất phần mềm cho máy điện toán cá nhân trong thập niên 80, nhưng ông đã không nhận ra được bước ngoặt sắp tới của nền công nghiệp này. dù cho ông là người phát triển ra phần mềm tuyệt vời, gắn liền với quyền sở hữu chủ về bộ xử lý từ của ông. nhưng rồi phần mềm của ông cũng tới hồi cáo chung khi các loại máy điện toán đa dụng có bộ xử lý từ có nhiều ứng dụng khác nhau như WordStar, WordPerfect, và MultiMate (phần mềm này bắt chước phần mềm của Wang) ra đời. Nếu như Wang đã nhận thức được tầm quan trọng của các phần mềm tương ứng thì có lẽ Microsoft đã không ra đời và lớn mạnh như ngày nay. và tôi có thể cũng đã trở thành một nhà toán học hay một luật sư ở một nơi nào đó, và sự đột phá của tôi vào lĩnh vực máy điện toán cá nhân có lẽ cũng chỉ còn là một hồi ức xa vời.

IBM là một hãng lớn khác cũng đã không nắm bắt kịp thời được các đổi thay về kỹ thuật ngay trong giai đoạn khởi đầu của cuộc cách mạng máy điện toán cá nhân. Người đứng đầu hãng này, ông Thoms J. Watson, vốn trứoc đây là nhân viên bán máy tính tiền. Thực ra, Watson không phải là người sáng lập ra hãng IBM, nhưng nhờ phương pháp quản lý năng nổ của ông mà suốt trong thập niên 30 hãng IBM đã thống trị thị trường các loại máy dùng trong kế toán.

Hãng IBM bắt đầu tham gia vào thị trường máy điện toán khoảng giữa thập niên 50. Đó là một trong những hãng lớn thời đó đang cố cạnh tranh để chiếm giữ vị trí hàng đầu trong lãnh vực này. Cho đến năm 1964, mỗi một kiểu máy, dù cùng một hãng sản xuất, đều dược thiết kế theo kiểu dáng riêng biệt, và đòi hỏi phải có hệ điều khiển va phần mềm sử dụng riêng của nó. Hệ điều khiển này, hay còn dược gọi ngắn gọn là hệ DOS, là phần mềm căn bản điều phối các thành phần khác của chiếc máy, chỉ thị cho chúng cách phối hợp với nhau để thực hiện các chức năng khác. Không có hệ điều hành này,chiếc máy chỉ là vật vô dụng. Nó là một cái bệ mà người ta đặt trên đó tất cả các chương trình phần mềm như phần mềm về kế toán hay bảng lương, phần mềm xử lý từ hay thư điện tử.

Thời đó, máy điện toán có nhiều kiểu đáng và giá cả khác nhau. Một số được thiết kế đặc biệt để nghiên cứu khoa học, số khác phục vụ thương mại. Như tôi đã phát hiện lúc tôi viết ngôn ngữ BASIC rằng công việc có ý nghĩa phải làm sao có thể chuyển được phần mềm từ máy này sang kiểu máy khác. Điều đó đúng dù cho phần mềm đó được viết theo một ngôn ngữ chuẩn như COBOL hoặc FOTRAN chẳng hạn. Dưới sự hứơng dẫn của một thanh niên tên Tom là con và đồng thời là người kế thừa của Watson, công ty đã mạo hiểm tung ra 5 tỷ Mỹ kim để đầu tư vào một khái niệm hoàn toàn mới mẻ, đó là cấu trúc mở rộng - có nghĩa là theo cấu trúc đó tất cả máy điện toán của họ System/360, cho dù kích thước có khác nhau, đều có thể đáp ứng một tập lệnh chung. Các mẫu được thiết kế theo các quy trình kỹ thuật khác nhau, từ chậm nhất đến nhanh nhất, từ kích thước nhờ phù hợp với những trụ sở đồ sộ, đều có thể hoạt động cùng một hệ DOS. Khách hàng có thể di chuyển các ứng dụng và thiết bịngoại vi, các phụ tùng như đĩa, băng và máy in từ máy nay sang máy khác một cách thoải mái. Cấu trúc mở rộng này thực sự đã định hình lại toàn bộ nền công nghiệp.

Máy System/360 là một thành công hết sức dễ dàng và đã khiến cho IBM trở thành nguồn cung cấp máy điện toán chính trong suốt thời gian ba mươi năm sau đó. Khách hàng đỏ xô đến để đầu tư vào hệ 360, tin chắc rằng sự đầu tư sẽ không lãng phí. Nếu họ muốn chuyến sang một máy điện toán lớn hơn, họ có thể được một máy hoạt động cùng một hệ thống và có cấu trúc giống nhau. Năm 1977, hãng DEC cho ra đời hệ cấu trúc mở rộng riêng của họ, đó là hệ VAX. Hệ này bao gồm các loại máy điện toán để bàn cho đến loại máy điện toán lớn, và đã mang lại cho hãng DEC những gì hệ

System/360 đã mang lại cho hãng IBM. Hãng DEC đã trở thành hãng dẫn đầu vững vàng nhất trên thị trừơng máy điện toán mini.

Hệ cấu trúc mở rộng Syetem/360 của hãng IBM và các hệ kế tiếp như System/370 đã loại ra ngoài thương trường nhiều đối thủ cạnh tranh của hãng IBM và đã khiến cho các hãng có tiềm năng mới xuất hiện cũng phải nể mặt. Năm 1970, một hãng cạnh tranh mới ra đời, do Eugene Amdahl, vốn trước đây là kỹ sư bậc cao của hãng IBM, thành lập, Amdahl đề ra một kế hoạch kinh doanh rất mới lạ. Công ty của ông, cũng gọi là công ty Amdahl, chế tạo ra những máy điện toán hoàn toàn có thể cạnh tranh được với phần mềm 360 của hãng IBM. Amdahl sản xuất ra phần cứng chẳng những chạy được hệ DOS và những ứng dụng của nó giống như của hãng IBM, nhờ biết tận dụng được lợi thế của kỹ thuật mới. Chẳng bao lâu sau đó các hãng Control Data, Hitachi, và Intel đều cho ra đời các mainframe (máy điện toán lớn) có khả năng sánh với máy của hãng IBM. Khoảng giữa thập niên 70 tầm quan trọng của tính tưong thích của hệ 360 trở nên rõ ràng hơn. Chỉ còn lại những công ty sản xuất máy điện toán lớn ( mainframe) mà phầm cứng của nó có thể chạy được hệ DOS của hãng IBM là còn tồn tại.

Trước khi hệ 360 ra đời, các nhà thiết kế máy điện toán cố tình thiết kế ra những loại máy không tương thích (uncompatible) với máy của các hãng khác, bởi vì mục đích của nhà sản xuất là làm cho khách hang lệ thuộc vào họ và sẽ gặp nhiều khoa khăn và rất tốn kém khi muốn chuyển sang các loại máy khác. Amdahl và những người khác đã đặt dấu chấm hết cho tình trạng đó. Việc thị trường đòi hỏi tinh tương thích là một bài học cho nền công nghiệp điện toán trong tương lai. Nó cũng là một bài học cho những hệ thống nào có thể giúp cho họ có khả năng lựa chọn phần cứng của bất cứ hãng nào áp dụng được nhiều ứng dụng phần mềm rộng rãi nhất.

Trong khi tình hình cứ tiếp diễn,tôi vẫn đang say sưa với học tập và thử nghiệm máy điện toán. Mùa thu năm 1973 tôi đến Harvard. Trong trường lúc đó có nhiều cách nhìn đời một cách giả tạo rất khác nhau, và xả hơi được coi là cách tốt nhất để thể hiện thái độ lãnh đạm của mình. Vì thế cho nên, trong suốt năm học đầu tiên, tôi đã nhảy hết lớp này đến lớp khác để đến cuối khoá tôi phải lao vào học như điên. Nó đã trở thành môt trò chơi chẳng phải mới mẻ gì tức là với sự đầu tư thời gian tối thiểu vào việc học, để xem mình sẽ đạt thứ hạng cao đến mức nào. Tôi dành phần lớn thòi giờ rảnh rỗi để chơi bài trên máy poker, một trò chơi rất hấp dẫn đối với tôi. Trong khi chơi poker, người chơi thừong thu lượm được khá nhiều các mảnh thông tin khác nhau như ai là người chơi bạo tay, nên tung những con bài nào ra trước, gã kia thường thấu cáy ra sao, rồi ráp nối chúng lại để tạo cho mình cách chơi riêng. Tôi thu được khá nhiều tiền nhờ biết đúc kết các mảnh thông tin đó thành kinh nghiệm bản thân.

Kinh nghiệm trong chiến thuật chơi poker - và cả số tiền thu được - đã giúp ích cho tôi rất nhiều khi tôi mới bước vào lãnh vực kinh doanh. Nhưng lần này tôi tham gia vào một trò chơi khác có phân muộn màng hơn, cho nên nhưng kinh nghiệm trên không giúp ich gì cho tôi dược cả. Nhưng lúc đó tôi chua nhận biết được điều nay. Thực ra, việc tôi tham gia có phân ủng hộ, Đó là Sreve Ballmer, một sinh viên khoa toán, chúng tôi quen nhau hồi còn học năm thứ nhất lúc chúng tôi cùng ở ký túc xá Currier House. Cả hai chúng tôi đếu sống một cuộc sống khá khác biệt, ít chú ý đến việc học hành, chỉ chịu lao vào học các bài học chính trước kỳ thi có vài ngày thôi. Steve là một thanh niên giàu nghị lực, thích giao tiếp bạn bè. Những hoạt động đó chiếm phần lớn thời gian của anh. Khi vào măm học thứ hai,anh đã là đội trưởng của đội bóng đá, giám đốc phụ trách quảng cáo của tờ The Harvard Crimaon, một tờ nhật báo của trường đại học. Anh còn là một thành viên của câu lạc bộ Xã hội, tương tự như Hội Đi hữu của trừơng Harvard.

Có một lần, cả hai chúng tôi đều đăng ký học một môn kinh tế học khá hắc búa - Kinh tế học năm 2010. Giáo sư bộ môn này cho phép sinh viên tụ đánh giá thứ hạng của mình vào cuối học kỳ. Vì thế, Steve và tôi đã dành hết thì giờ trong suốt học kỳ cho các lãnh vực khác và hầu như chẳng ngó ngàng gì tới môn này. Cho tới khi chỉ còn một tuần nữa là đến kỳ thi, chúng tôi mới lao vào học sống học chết. Tuy vây, cuối cùng chúng tôi cũng đạt được hạng A.

Tuy nhiên, sau khi Paul Allen và tôi thành lập hãng Microsoft, chúng tôi mới nhận thấy rằng sụ chần chừ của chúng tôi trước đây không phải là cách chuẩn bị tốt nhất đẻ bước vào quản lý một công ty. Trong số những khách hàng đầu tiên của Microsoft có các công ty Nhật, họ nghiêm khắc tới mức nếu chúng tôi giao hàng chậm là họ có thể cử ngay vài người sang để giám sát chúng tôi. Cho tới nay, tôi vẫn còn cảm thấy được nỗi đau khổ mỗi khi giao hàng chậm. Thật tình là, chúng tôi khó có thể cải tiến cho tốt được như vậy nếu như họ không làm như thế.

Microsoft bắt đầu tại Albuquerque, New Mexico, vào năm 1975, bởi vì đó là trụ sở của hãng MITS. MITS là một hãng nhỏ đã sản xuất ra chiếc máy điện toán cá nhân Altair 8800 đã được đăng trước đây trên trang bìa của tạp chí Popular Electronics. Chúng tôi phải hợp tác với hãng này bởi đó là hãng đầu tiên ban máy điện toán cá nhân với giá khá rẻ cho công chúng. Vào năm 1977, các hãng Apple, Commodore và Radio Shack cũng tham gia vào ngành kinh doanh này. Chúng tôi cung cấp ngôn ngữ BASIC cho hầu hết các máy điện toán cá nhân đầu tiên. Đây là phân mềm chủ yếu trong thời đó, vì người sử dụng có thể tự viết các ứng dụng của họ cho ngôn ngữ này thay vì phải mua trọn gói.

Trong những ngày đầu, việc bán ngôn ngữ BASIC là một trong nhiều công việc tôi phải làm. Trong ba năm đầu, hầu hết các kỹ thuật viên của Microsoft đều tập trung vào công việc kỹ thuật, tôi phụ trách khâu bán ra, tài chính và tiếp thị, cũng như viết các bộ mã. Lúc đó tôi mới chỉ vừa bước qua tuổi vị thành niên, và công việc bán hàng khiến tôi hơi lo sợ. Chủ trưong của Microsoft là yêu cầu những công ty như hãng Radio Shack mua quyền sử dụng để bán luôn cả pohần mềm của chúng tôi cùng với máy của họ (chẳng hạn như máy Radio Shack TRS-8O), và trả cho chúng tôi tiền bản quyền tác giả. Một trong những lý do buộc chúng tôi phải làm như vậy là vì nạn vi phạm quyền tác giả khá phổ biến vào thời đó.

Trong những năm đầu bán ngôn ngữ Altair BASIC, doanh thu rất thấp so với số lượng phần mềm của chúng tôi đang được sử dụng rộng rãi trên thị trường khiến chúng tôi nghĩ rằng phần mềm của chúng tôi đã bị đánh cắp. Tôi viết và phổ biến một thư ngờ gởi những người sử dụng máy điện toán yêu cầu họ hãy ngừng việc sao chép các phần mềm của chúng tôi để chúng tôi còn có thể có tiền đầu tư vào việc sản xuất nhiều phần mềm khác. Nhưng tôi đã không thuyết phục được họ,hình như họ vẫn thích và muốn sử dụng phần mềm của chúng tôi nhưng bằng cách " mượn" của người khác hơn là mua.

May mắn là hiện nay hầu hết những người sử dụng máy điện toán đều hiểu rằng phần mềm được bảo vệ bản quyền. Việc đánh cắp bản quyền hiện vẫn còn là một vấn đề lớn trong quan hệ thương mại bởi vì vẫn còn một số nước chưa có-hoặc không áp dụng-luật bản quyền. Hoa kỳ đòi hỏi các chánh phủ khác phải làm nhiều hơn nữa để thực thi luật bản quyền đối với sách báo, phim ảnh, đĩa CD, và phần mềm của máy điện toán. chúng ta phải hết sức cẩn thận để bảo đảm sao cho xa lộ thông tin của chúng ta sẽ không trở thành thiên đường của bọn kẻ cắp.

Mặc dù chúng tôi bán rất chạy phần mềm của chúng tôi cho các công ty sản xuất phần cứng ở Mỹ, nhưng trong năm 1979, gần như phần nửa doanh thu của chúng tôi đến từ nước Nhật, nhờ một người bạn tuyệt vời tên là Kauhiko Nishi, hay còn gọi là Kay. Kay điện thoại cho tôi vào năm 1978, và tự giới thiệu mình với tôi bằng tiếng Anh rằng anh đã đọc về hãng Microsft và nghĩ rằng anh có thể cộng tác kinh doanh với hãng chúng tôi. Và thật thú vị, vì chúng tôi có rất nhiều điểm tương đồng. Chúng tôi cùng tuổi, cùng là sinh viên, nhưng anh đang nghỉ phép vì say mê máy điện toán cá

nhân.

Vài tháng sau, chúng tôi gặp nhau trong một cuộc họp tại Anaheim bang Albuquerque, tại đó, chúng tôi cùng bay trở về Albuquerque, tại đó,chúng tôi ký kết một hợp đòng để anh làm đại diện độc quyền phân phối phần mềm BASIC ở vùng Đông Đ. Chẳng có luật sư nào chứng kiến việc ký kết hợp đồng, chỉ có tôi và Kay,trên tinh thần anh em tin cậy lẫn nhau. Thực hiện hợp đồng đó, chúng tôi đạt doanh thu trên 150 triệu Mỹ kim, cao hơn gấp 10 lần mức dự kiến.

Kay thường xuyên đi lại giữa các trung tâm thương mại của Nhật và cả của Mỹ nữa. Anh là một con người khá năng động, điều đó rất lợi cho công việc của chúng tôi ở Nhật. Bởi nó khiến cho các thương gia Nhật có ấn tựong rằng chúng tôi là những thần đồng. Khi có dịp sang Nhật, chúng tôi ở cùng phòng trong khách sạn, làm việc qua điện thoại thâu đêm suốt sang, doanh số đạt hàng triệu đô la mỗi đêm. Có một lần trong khoảng từ 3 đến 5 giờ sang, chẳng có ma nào gọi điện thoại tới cả, nhưng đên khoảng 5 giờ thì có người gọi tới, Kay với lấy ống nghe và nói:" Đêm nay làm việc hơi trễ đấy nhé ".

Trong suốt tám năm sau đó, Kay luôn chộp lấy mọi thời cơ. Có một lần vào năm 1981, trên chuyến bay từ Ssattle tới Tokyo, Kay ngồi gần Ka uo Inamoi, chủ tịch Hãng Kyocera, một hãng khổng lồ có số vốn lên tới 65O triệu Mỹ kim. Kay, lúc đó đang quản lý công ty ASCII của anh ắy ở Nhật, tin ở sự hợp tác với Microsoft, đã thành công trong viêc bàn với Inamori về sáng kiến mới của anh ấy là hợp tá sản xuất máy điện toán xách tay với một phần mềm dơn giản được thiết kế bên trong máy. Thế là Kay và tôi cùng thiết kê kiểu máy. Tại Hoa Kỳ, máy đó được Hãng Radio Shack tung ra thị trường vào năm 1983 với tên gọi là Model 100,với giá chỉ có 799 Mỹ kim.Còn tại Nhật máy đó được bán ra dưới tên gọi là máy NEC PC-8200,và ở Châu Au với là Olivetti M-10. Nhờ ở nhiệt tình của Kay, máy đó đã trở thành máy điện toán xách tay đều tiên rất phổ biến, một loại dụng cụ được giới phóng viên ưa chuộng trong nhiều năm.

Vài năm sau, vào năm 1986, Kay quyết định chuyển bộ mã ASCII theo một hướng tôi dự định cho Microsoft, cho nên Microsoft quyết định thành lập một công ty trực thuộc riêng của Microsoft tại Nhật. Công ty của Kay vẫn là một công ty quan trọng chuyên phân phối phần mềm cho thị trường Nhật. Kay, người bạn thân của tôi, vẫn rất năng động như ngày nào và quyết tâm đưa máy điện toán cá nhân trở thành công cụ phổ biến

Tính chất toàn cầu của thị trường máy điện toán cá nhân cũng sẽ là một nhân tố hết sức quan trọng trong quá trình phát triển xa lộ thông tin. Sự hợp tác giữa các công ty của Hoa Kỳ và Châu Âu cùng với các công ty của Châu Á trên lãnh vực máy điện toán sẽ trở nên quan trọng hơn trước đây nhiều. Nững nứơc nào hoặc những công ty nào không triển khai được tính chất toàn cầu trong phần việc này của họ, họ sẽ không thể phát triển được.

Tháng Giêng năm 1979, Hãng Microsoft chuyển từ Albuquerque về vùng ngoại ô Seattle thuộc bang Washington. Paul và tôi trở về nhà, mang theo gần như tất cả mấy chục công nhân theo. Chúng tôi tập trung sức lực vào việc viết ngôn ngữ lập trình cho số máy mới dư thừa do nền công nghiọp máy điện toán cá nhân đang phát triển rất mạnh. Người ta đổ xô đến với chúng tôi và họ mang theo đủ mọi dự án có đủ tiềm năng để phát thành những công trình to lớn hơn.

Nhu cầu về các dịch vụ của Microsoft vựơt xa khả năng cung cấp của chúng tôi.

Tôi cần người trợ giúp quản lý công việc kinh doanh, và tôi đã tìm đến Steve Ballmer, người bạn cùng phòng và cùng học bộ môn kinh tế năm 2010 tại trường Đại học Harvard trước đây.

Sau khi tốt nghiệp, Steve làm quản đốc sản phẩm cho Hãng Procter Gamble ở Cincinnati. Sau vài năm, anh lại quyết định theo học Trừơng Kinh doanh Stanford. Khi tôi gọi điện thoại cho anh cũng là lúc anh mới vừa kết thúc một năm học và vẫn muốn tiếp tục hoàn thành chương trình sau đại học,nhưng khi tôi ngờ ý muốn mọi anh tham gia đồng sở hữu chủ cho hãng Microsoft, anh đồng ý và lại trở thành một sinh viên nghỉ phép dài hạn một lần nữa. Khi chúng tôi tuyên bố mọi công nhân trong hãng tham gia quyền sở hữu chủ dưới hình thức tham gia góp vốn, hãng Microsoft đã gặt hái được những thành công lớn lao chưa từng có.

Khoảng ba tuần sau khi Steve đến làm việc tại hãng Microsoft,lần đầu tiên giữa chúng tôi có những cuộc tranh luận

khá căng. Lúc đó, hãng Microsoft đang thuê khoảng ba mươi công nhân, và Steve cho rằng chúng tôi cần phải thuê ngay thêm khoảng năm mươi người nữa.

Tôi đã trả lời anh rằng chúng ta không thể làm như thế được. Nhiều khách hàng đầu tiên của chúng ta đã bị phá sản, và nỗi lo sợ bị vỡ nợ ngay trong thời gian hãng đang phát triển mạnh khiến cho tôi hết sức bảo thủ về phương diện tài chính. Nhưng Steve không họ nản lòng và tôi đã phải nghe theo anh ta. Tôi bảo anh chỉ nên thuê những người có năng lực càng sớm càng tốt,và tôi sẽ bàn với anh về những gì cần làm sau. Tôi chưa bao giờ trải qua những giờ phút hạnh phúc đến như vậy, bởi vì doanh thu của chúng tôi tăng trưởng vô cùng nhanh chóng nhờ những con người tài ba lỗi lạc mà Steve đã huy động được.

Nỗi lo sợ chính của tôi trong những năm đầu là một số công ty nào đó có thể sẽ đột kích vào và cuỗm mất thị trừong của chúng tôi. Thực ra,thời đó cũng có một vài công ty nhỏ kinh doanh các bộ vi xử lý hay phần mềm đã khiến cho tôi lo lắng, nhưng may mắn là không ai trong số đó có tầm nhìn về thị trường phần mềm giống như chúng tôi.

Ngoài ra, còn có một nguy cơ khác luôn luôn đe doạ chúng tôi. Đó là việc có thể vào một ngày nào đó, một trong những công ty lớn chuyên sản xuất máy điện toán nhũng công ty lớn chuyên sản xuất máy điện toán lấy phần mềm dùng cho máy điện toán lớn của họ để cải tiến lại, dùng cho máy điện toán lấy phần mềm dùng cho máy điện toán sử dụng bộ vi xử lý nhọ. Các hãng IBM và DEC đã có những thư viện phần mềm hết sức mạnh. Nhưng một lần nữa, rất may cho hãng Microsoft là phần lớn những người sử dụng không có ý định cải tiến máy của họ thành những máy điện toán cá nhân. Chỉ có một nguy cơ xuất hiện vào năm 1979, khi hãng DEC tung ra thị trường loại máy điện toán mini PDP-11 được cải tiến theo dạng một máy điện toán cá nhân mang tên HeathKIT. Mặc dù vậy, hãng DEC không tin tưởng hoàn toàn vào máy điền toán cá nhân, và do đó trên thực tế họ họ đã không đẩy nhanh tiến độ sản xuất.

Mục tiêu của Microsoft lúc đó là viết và cung ứng phần mềm cho hầu hết máy điện toán cá nhân nhưng không dính dáng đến việc sản xuất hoặc kinh doanh phần cứng. Microsoft đăng ký giá bán phần mềm hết sức thấp. Chúng tôi cải tiến ngôn ngữ lập trình như phiên bản BASIC cho thích hợp với từng loại máy. Chúng tôi phản ứng rất nhanh trước những đổi thay của các nhà sản xuất phần cứng. Chúng tôi không muốn tạo bất cứ một lý do nào để khách hàng của chúng tôi đi tìm mua phần mềm khác.

Và chiến lược của chúng tôi đã thành công. Trên thực tế, tất cả các nhà sản xuất máy điện toán cá nhân đều dăng ký ngôn ngữ lập trình của chúng tôi. Mặc dù phàn cứng của hai công ty sản xuất máy điện toán có khác nhau, nhưng cả hai đều sử dụng phần mềm BASIC của Microsoft, điều đó chứng tỏ, trong chừng mực nào đó, các phần mềm đó là những phần mềm tương thích. Chính tính chất tương thích đó đã trở thành thành phần quan trọng trong việc thu hút khách hàng mua nó cho máy điện toán của họ. Các nhà sản xuất thường quảng cáo rằng ngôn ngữ lập trình của Microsoft, kể cả ngôn ngữ BASIC, đều có thể sử dụng được cho máy điện toán của họ. Theo thời gian, phần mềm BASIC của Microsoft đã trở thành ngành công nghệ phần mềm tiêu chuẩn.

Có một số công nghệ không lệ thuộc vào sự chấp nhận rộng rãi của khách hàng về giá trị sử dụng. Cái chảo chiên không dính vẫn cứ là một dụng cụ tuyệt vời và rất hữu ích cho dù bạn là người duy nhất chưa bao giờ mua nó. Nhưng đối với sản phẩm của thông tin liên lạc và các sản phẩm khác cần đến khả năng kết hợp thì giá trị sử dụng của chúng lệ thuộc vào chúng có được khách hàng sử dụng rộng rãi hay không. Nếu bạn chỉ chọn lựa hai hòm đựng thư: một cái được làm bằng tay,rất đẹp,với khe hở chỉ vừa cho một cỡ phong bì, với một thùng các tông cũ mà người ta tiện tay nhét

mọi loại thư từ và bưu phẩm của bạn vào đó, và bạn sẽ chọn cái được nhiều người chọn, tức bạn đã chọn tính tương thích của sản phẩm.

Đôi khi chính phủ hoặc một vài uỷ ban nào đó đề ra một số tiêu chuẩn cải tiến đó được gọi là những tiêu chuẩn "hợp pháp" và có sức mạnh về pháp lý. Tuy nhiên, có rất nhiều tiêu chuẩn đã đạt được những thành công lớn nhất lại là những tiêu chuẩn " tồn tại trên thực tế"do thị trường phát hiện ra. Máy đánh chữ tiếng Anh hay bàn phím của máy điện toán đều được bố trí chữ theo chiều ngang từ trái sang phải gồm những ký tự: Q W E R T Y. Không có luật pháp nào buộc họ phải làm như vậy. Nó là một thông lệ, và khách hàng nói chung đều theo chỉ tiêu đó, trừ phi có những thay đổi tuyệt vời khác ra đời.

Những định chuẩn "thực tế" đó được thị trường, chứ không phải luật pháp, ủng hộ. Chúng được chọn vì những lý do chính đáng, và chúng bị thải hồi khi có những thứ khác thực sự có ưu thế hơn, tương tự việc đĩa Compact disk đã thay thế gần như hầu hết các đĩa hát được làm bằng nhựa vinyl trước đây.

Những định chuẩn "thực tế" tồn tại trong thị trường thông qua guồng máy kinh tế, tương tự như quan niệm về sự tăng trưởng theo đường xoắn ốc tích cực đã đưa nhiều nghành kinh doanh đến thành công, trong đó thành công trước tạo thuận lợi cho thành công sau. Quan niệm này,được gọi là sự phản hồi tích cực, giải thích vì sao những tiêu chuẩn "thực tế" thường nổi bật hơn khi người ta tìm kiếm tính tương hợp của máy điện toán.

Một chu kỳ phản hồi tích cực bắt đầu khi, trong một thị trường đang lên, có một thứ gì đó tỏ ra có lợi thế hơn cái cũ. Nó thường xảy ra với những sản phẩm đòi hỏi kỹ thuật cao, có thể sản xuất với số lượng lớn nhưng giá thành không tăng bao nhiêu và tính tương hợp của chúng có thêm vài giá trị sử dụng mới. Máy chơi trò chơi điện tử hiện nay là một ví dụ. Đó là một máy điện toán được thiết kế cho một mục đích đặc biệt, có một hệ điều hành đặc biệt hình thành một nền cho phần mềm của trò chơi. Tính tương hợp có ý nghĩa rất quan trọng bởi vì càng có nhiều ứng dụng-trong trường hợp này là nhiều trò chơi-thì giá trị sử dụng của chúng càng quí đối với khách hàng. Đồng thời, máy càng bán chạy thí

những nhà phát triển phần mềm ứng dụng càng sáng tạo ra nhiều ứng dụng mới hơn. Chu kỳ phản hồi tích cực bắt đầu khi chiếc máy đó đatô được mức độ phổ biến cao nhất và doanh số sẽ tăng không ngừng.

Có lẽ một chứng minh hùng hồn nhất về uy lực của sự phản hồi tích cực là trận đấu về băng video xảy ra vào cuối thập liên 70 và đầu thập liên 80. có một câu chuyện hoang đường khá dai dẳng cho rằng chỉ có sự phản hồi tích cực mới làm cho băng video VHScó ưu thế như băng Beta, mặc dù về phương diện kỹ thuật thì băng Beta tốt hơn. Thực ra, những băng đầu tiên của Beta chỉ thu được một tiếng đồng hồ -so với ba tiếng của VHS-không đủ để thu một bộ phim hay một trận đấu bóng. Khách hàng lưu ý tới khả năng của băng hơn là quy cách kỹ thuật của nó.Sản phẩm của VHS lúc đầu bán chạy hơn sảm phẩm của Beta được hãng sony sử dụng cho máy Betamax của họ. Hãng JVC, phát triển theo tiêu chuẩn VHS, cho phép các nhà sản xuất đầu máy Video sử dụng tiêu chuẩn VHS với giá bản quyền rất thấp.Ngờ vậy số người sử dụng băng VHS có lợi thế hơn ở chỗ nó chứa được nhiều phim trong một băng hơn và do đó ngày càng

có nhiều người muốn mua băng VHS. Rõ ràng là VHS được hưởng lợi thế của chu kỳ phản hồi tích cực. Và thành công này cứ thế đẻ ra thành công khác, nhưng chất lượng không họ bị giảm sút.

Trong khi cuộc tranh chấp tay đôi giữa Bentamax và VHS vẫn tiếp tục thì doanh số bán băng video thu sẵn sang thị trường Mỹ bị giảm sút hẳn, chỉ còn vài triệu băng một năm. Một khi băng VHS nổi lên như là loại băng tiêu chuẩn vào khoảng năm 1983, nó được sự chấp nhận của khách hàng và số lượng băng bán ra tăng lên rất nhanh. Chỉ riêng năm đó, trên 9,5 triệu băng đã được bán ra, cao hơn 50% so với năm trước. Trong năm 1984, số băng bán ra là 22 triệu. Và trong những năm sau đó: 52 triệu, 84 triệu, và 110 triệu băng trong năm 1987, thời điểm và việc thuê băng để xem phim đã trở thành hình thức giải trí phổ biến nhất của các gia đình, và đó cũng là thời điểm băng VHS chiếm ngôi vị độc nhất.

Đó là một ví dụ minh hoạ sự thay đổi về số lượng ở mức độ được kỹ thuật mới chấp nhận sẽ kéo theo sự thay đổi về chất lượng. Máy thu hình là một ví dụ khác. Năm 1946, chỉ có 10.000 máy thu hình bán ra trên nước Mỹ, Năm sau là 16.000. Và lúc đó nó đã vượt qua ngưỡng cửa chấp nhận cho nên con số bán ra trong năm 1948 là 190.000 máy. Trong những năm kế tiếp là 1 triệu, rồi 4 triệu, 10 triệu, và số lượng vẫn tăng một cách ổn định cho tới năm 1955 là 32 triệu. Khi máy được bán ra nhiều, người ta lại càng đầu tư tiền vào để tạo nhiều chương trình truyền hình hơn và việc đó càng khuyến khích khách hàng muốn mua máy thu hình.

Còn đối với máy và đĩa CD, trong những năm đầu không có mấy người mua, một phần vì khó tìm được cửa hàng cho thuê nào có nhiều đĩa nhạc hay khác nhau. Nhưng rồi chỉ sau một thời gian rất ngắn, khi nó vượt qua được ngưỡng cửa chấp nhận của khách hàng, số lượng bán ra tăng lên nhanh chóng. Ngày càng có nhiều người mua vì họ thích chất lượng âm thanh tốt, có nhiều nhạc hay và sự tiện lợi của máy CD,và nó đã trở thành tiêu chuẩn "thực tế" được chấp nhận, và loại trừ vĩnh viễn loại đĩa hát cổ điển ra khỏi thị trường.

Một trong những bài học quan trọng nhất mà ngành công nghệ điện toán rút ra được là giá trị sử dụng của máy điện toán lệ thuộc vào chất lượng và ứng dụng phong phú của các phần mềm của nó. Tất cả những ai ở trong ngành công nghiệp điện toán đều học được bài học đó -một số thành công nhưng cũng có người thất bại. Vào mùa hè năm 198O, có hai đại diện cửa hàng IBM đến gặp Hãng Microsoft để bàn về việc nên sản xuất loại máy điện toán nào va loại nào không nên sản xuất.

Vào thời đó, hãng IBM chiếm ngôi vị chúa tể về sản xuất phần cứng,nắm trong tay hơn 80% thị trường máy điện toán lớn. Trước đây, họ thường bán các loại máy chính, đắt tiền, cho các khách hàng lớn. Ban lãnh đạo của IBM nghĩ rằng với 340.000 công nhân, nếu muốn bán các loại máy điện toán nhọ, rẻ tiền cho tư nhân cũng như cho các công ty thì họ cần phải có ngoại viện.

IBM muốn tung mặt hàng máy điện toán cá nhân ra thị trường chỉ khoảng thời gian dưới một năm. Để thực hiện được kế hoạch nay, họ đã phải từ bỏ phương hướng truyền thống của họ là vừa sản xuất phần cứng vừa sản xuất phần mềm. Do đó, IBM quyết định sản xuất máy điện toán cá nhân chủ yếu dựa vào những linh kiện có sẵn, ai cũng có thể mua được.

Mặc dù IBM, nói chung, có sản xuất bộ vi xử lý dùng cho các sản phẩm của hãng, nhưng nó lại quyết định mua của hãng Intel bộ vi xử lý dùng cho máy điện toán cá nhân thay vì phải sản xuất. Nhưng điều quan trọng nhất đối với Microsoft là IBM muốn mua quyền sử dụng hệ điều hành của Microsoft chứ không tự sản xuất lấy.

Khi làm việc với nhóm thiết kế của IBM, chúng tôi đề xuất kế hoạch là IBM chúng tôi đề xuất kế hoạch là IBM nên sản xuất một trong những máy điện toán cá nhân đầu tiên sử dụng bộ vi xử lý 16 bit, tức bộ 8088. Việc chuyển từ 8 bit lên 16 bit sẽ làm cho chiếc máy điện toán không còn là món đồ chơi mà sẽ trở thành một công cụ làm việc với khối lượng công việc rất lớn và rất hữu hiệu. Thế hệ máy 16 bit có bộ nhớ tới một megabyte - tức 256 lần nhiều hơn máy điện toán 8 bit. Thoạt nghe, điều này có vẻ như là những lợi thế về lý thuyết, bời vì IBM dự định một bộ nhớ khoảng 16K, tức chỉ bằng 1/64 của tổng bộ nhớ chúng tôi có thế sản xuất. Kế hoạch sản xuất bộ vi xử lý 16 bit càng bị yếu thế hơn do IBM quyết định tiết kiệm tiền bằng cách dùng một chíp chuyên dùng cho hệ 8 bit để nối với tất cả các máy khác. Hệ quả là chip đó có thể suy nghĩ nhanh hơn rất nhiều so với khả năng truyền tin của nó. Tuy nhiên, quyết định sử dụng bộ vi xử lý 16 bit là một quyết định rất thông minh, bởi nó cho phép máy điện toán cá nhân của IBM trở thành máy tiêu chuẩn cho tất cả máy điện toán cá nhân hiện có cho đến ngày nay.

IBM, với danh tiếng của nó và với quyết định sử dụng một thiết kế mở mà các công ty khác có thể sao chép được, đã có cơ hội thực sự để tạo ra một tiêu chuẩn mới cho máy điện toán cá nhân. Chúng tôi muốn góp phần vào công việc mày. Chúng tôi mua lại một số công trình trước đây của một công ty ở Seattle và thuê luôn viên kỹ sư hàng đầu của nó là Tim Paterson. Với một loạt các bổ sung mới, hệ này đã trở thành hệ điều hành của Microsoft, hay gọi tắt là hệ MS-DOS. Tim trên thực tế, là cha đẻ của hệ điều hành này của Microsoft.

IBM, khách hàng bản quyền đầu tiên của chúng tôi, gọi đó là hệ DOS của máy điện toán cá nhân, hay còn gọi là PC-DOC. Máy điện toán cá nhân của IBM được tung ra thị trừong vào tháng 8 năm 1981 và giành được thắng lợi vang dội. Hãng này đã tiến hành công việc tiếp thị khá tốt và đã quần chúng hoá hai chữ " PC", tức Personal Computer - máy điện toán cá nhân. Công trình này do Bill Lowe sáng tạo và Don Estridge hoàn chỉnh. Đó là công trạng của họ, những người đã có công trong việc biến một máy điện toán cá nhân chỉ mới hình thành trong ý nghĩ trở thành hiện thực trên thị trường chỉ trong vòng chưa đầy một năm.

Đến nay hẳn không còn mấy ai nhớ tới một thực tế là những chiếc IBM-PC ban đầu thực tế được xuất xưởng với ba hệ điều hành; hệ điều hành PC-DOS của chúng tôi, hệ CP/M-86,và hệ UCSD Pascal P-system. Chúng tôi biết rằng chỉ có một trong ba hệ điều hanh đó là thành công và sẽ trở thành hệ tiêu chuẩn. Chúng tôi muốn có được chính uy lực đã đưa băng cát xét VHS đi vào mọi của hàng bán băng video để đẩy hệ MS-DOS trở thành hệ tiêu chuẩn. Chúng tôi nhìn thấy có ba cách có thể đưa hệ MS-DOS trở thành hệ tiêu chuẩn được. Trước tiên là phải làm sao cho hệ MS-DOS trở thành sản phẩm tốt nhất. Thứ nhì là giúp đỡ các công ty phần mềm của họ. Và điều cuối cùng là phải làm sao bảo đảm cho giá của hệ MS-DOS phải thật hạ.

Chúng tôi nêu điều kiện hết sức lý tưởng cho hãng IBM -chúng tôi thu một khoản lệ phí rất thấp và chỉ thu một lần để trao cho họ quyền sử dụng hệ điều hành của Microsoft trên bất cứ số lượng máy nào IBM có thể bán được.Sở dĩ chúng tôi đưa ra những ưu đãi như vậy là nhằm khuyến khích IBM đưa hệ MS-DOS của chúng tôi ra bán với giá rẻ. Và chiến lược của chúng tôi đã thành công. IBM bán hệ UCSD Pacsl P -system với giá khoảng 450 mỹ kim hệ CP/M-86

khoảng 175, và hệ MS-DOS cho những công ty điện toán nào muốn dùng nó vào những máy tương thích, trong chừng mực nào đó, với máy IBM-PC. IBM có thể sử dụng phần mềm của chúng tôi miễn phí nhưng không được hưởng chế độ độc quyền hoặc được khống chế sự cải tiến trong tưong lai. Điều đó giúp cho Microsoft kinh doanh quyền sử dụng phần mềm cho ngành công nghiệp máy điện toán cá nhân. Và trên thực tế, sau đó IBM đã từ bỏ việc cải tiến các hệ UCSD Pascal P-system và hệ CP/M-86 của họ.

Khách hàng bắt đầu tin tưởng và đã mua máy IBM PC, và vào năm 1982, những nhà phát triền phần mềm tạo thêm nhiều ứng dụng mới để chạy trên máy đó. Mỗi một khách hàng mới đến mua máy là có thêm một ứng dụng mới khiến cho máy IBM PC càng trở thành một tiêu chuẩn "thực tế" tiềm tàng của ngành công nghiệp máy điện toán. Chẳng bao lâu sau, đa số các phần mềm mới và tốt nhất như Lotus 1-2-3 bắt đầu xuất hiện. Mitch Kapor cộng tác với Jonathan Sachs, đã cách mạng hoá các bảng biểu 1-2-3. Nhưng những người có công đầu trong việc sáng tạo ra bảng biểu điện tử VisiCale lại là Dan Bricklin và Bob Frankston, những bảng biểu này đã bị bảng biểu 1-2-3 làm cho nó trở thành lạc hậu.

Chu kỳ phản hồi tích cực bắt đầu có tác dụng đối với thị trường máy điện toán cá nhân. Một khi nó lấy được đà, hàng ngàn các ứng dụng mới xuất hiện và hàng loạt các công ty bất đầu tung ra các phần bổ sung hoặc phiến "phụ tùng", có khả năng giúp mở rộng khả năng của phần cứng của náy điện toán cá nhân. Sự xuất hiện các phần bổ sung cho phần mềm lẵn phần cứng làm cho việc bán máy điện toán cá nhân vượt xa dự định của hãng IBM, lên tới con số hàng triệu máy. Chu kỳ phản hồi tích cục đã mang lại cho IBM hàng tỷ đô la. Chỉ trong vòng vài năm, hơn phần nửa số máy điện toán cá nhân dùng trong các cơ sở kinh doanh là của IBM và hầu hết số còn lại đều có thể thích ứng với máy của họ.

Tiêu chuẩn của IBM trở thành tiêu chuẩn mà mọi người noi theo. Lý do chính là nhờ sản phẩm ra đời đúng lúc và nhờ có bộ xử lý 16 bit. Máy điện toán cá nhân từ đó trở thành loại máy tốt, nhưng một công ty khác cũng có thể lập nên tiêu chuẩn bằng cách tạo được nhiều ứng dụng theo thị hiếu của khách hàng và sản phẩm của họ đứng được trên thị trường.

Các quyết định trước đây của IBM, do muốn sản xuất nhanh máy điện toán cá nhân, đã tạo điều kiện dễ dàng cho các công ty khác bắt tay sản xuất các loại máy tương thích, Cấu trúc máy đã được đem ra bán. Bộ vi xử lý của Intel và hệ điều hành của Microsoft đang có sẵn. Chính sách cởi mở đó là một khuyến khích rất mạnh mẽ cho các nhà sản xuất linh kiện, các nhà phát triển phần mềm, và cho tất cả những ai trong ngành ra sức sao chép.

Chỉ trong vòng ba năm, gần như tất cả các tiêu chuẩn cạnh tranh về máy điện toán cá nhân đều biến mất. Chỉ trừ vài trường hợp ngoại lệ như máy Apple II và Macintosh. Hewlett Packard, DEC, Texas Instruments, và Xerox, mặc dù có kỹ thuật cao, có danh tiếng, có cơ sở khách hàng, nhưng đều thất bại trong thị trường máy điện toán cá nhân vào những năm đầu của thập niên 80, bởi vì máy của họ không tương ứng và không có sự cải tiến nào có ý nghĩa so với cấu trúc của hãng IBM. Một loạt các công ty mới nổi lên như Eagle và North Star nghĩ rằng người ta sẽ mua phần cứng của họ, bởi họ có đôi chỗ cải tiến tốt hơn máy IBM PC. Nhưng rồi tất cả hoặc phải thay đổi máy bằng cách sản xuất phần cứng tương thích hoặc chịu thất bại. Máy IBM PC đã trở thành phần cứng tiêu chuẩn. Vào khoảng giữa thập niên 8O, có hàng chục loại máy điện toán cá nhân tương thich do IBM sản xuất. Mặc dù những người mua máy điện toán cá nhân không nói rõ ra như vậy, điều mà họ muốn tìm mua là những phần cứng nào có thể chạy được hầu hết các phần mềm, và họ muốn tìm mua được đúng những máy mà những người họ quen biết đã sử dụng.

Có một điều đã trở thành phổ biến đối với một số sử gia có đầu óc xét lại, những người cho rằng IBM đã phạm phải sai lầm khi hợp tác với Intel và Microsoft để chế tạo ra máy điện toán cá nhân. Họ lập luận rằng IBM nên giữ lấy bản quyền của cấu trúc máy điện toán cá nhân, và rằng Intel và Microsoft, trong một chừng mực nào đó, có lợi thế hơn IBM. Nhưng những người xét đó lại quên một điều. Việc IBM trở thành trung tâm điểm của ngành công nghiệp điện toán cá nhân rõ ràng là vì nó có khả năng quản lý, và biết sử dụng nó để tạo ra cấu trúc mở. IBM đã chọn được cá

định chuẩn cho họ.

Trong lãnh vực kinh doanh máy chủ, IBM chiếm ngôi vị chúa tể, và các đối thủ cạnh tranh khó mà sánh được với doanh số bán ra cũng như trình độ nghiên cứu và phát triển rất cao của họ. Nếu có một đối thủ nào ngấp nghé muón leo lên ngôi vị đó, IBM có thể huy động nguồn lực để hạ bệ ngay. Nhưng trong thế giới máy điện toán cá nhân đầy biến động này, vị trí của IBM tương tự như vị trí của người dẫn đầu vẫn cố chạy nhanh hơn những người khác thì anh ta vẫn luôn luôn là người dẫn đầu, và những đối thủ khác sẽ phải cố gắng đuổi cho kịp anh ta. Tuy nhiên, nếu anh ta tỏ ra đuối sức hoặc không còn cố gắng được nữa thì những người khác sẽ vượt lên và qua mặt anh ta. Trong cuộc chạy đua đó, các đối thủ khác cũng không gặp nhiều trở ngại lắm, và thực tế đó rồi nay mai sẽ trở nên rõ ràng hơn.

Năm 1983, chúng tôi nghĩ rằng bước đi kế tiếp của chúng tôi là phải phát triển hệ điều hành đồ hoạ. Tôi không tin rằng chúng tôi có thể giữ vững vị trí hàng đầu trong công nghiệp phàn mềm nếu chúng tôi cứ cố bám lấy hệ MS-DOS, bởi hệ này dựa trên cơ sở ký tự. Người sử dụng cứ phải đánh hàng loại các lệnh không rõ ràng và chờ cho chúng xuất hiện trên màn hình. Hệ MS-DOS không cung cấp hình ảnh và các đồ hoạ khác để giúp cho người sử dụng ứng dụng. Giao diện (Interface) là phương cách giúp cho người và máy giao tiếp được với nhau. Tôi tin rằng trong tương lai, giao diện sẽ dựa trên đồ hoạ và rằng đó là điều căn bản giúp cho Microsoft vượt lên trên hệ MS-DOS và đặt ra một tiêu chuẩn mới, trong dó hình ảnh và các phông chữ sẽ là một phần của giao diện rất dễ sử dụng. Để biến ý nghĩ đó thành hiện thực, máy điện toán cá nhân phải được thiết kế sao cho chẳng những đối với số khách hàng hiện có, mà có thể hấp dẫn cả những người không muốn mất thì giờ để học cách sử dụng một loại giao diện quá rắc rối nào đó.

Để minh hoạ cho sự khác biệt lớn lao giữa mờt chương trình điện toán dựa trên cơ sở ký tự và một chương trình điện toán dựa trên cơ sở đồ hoạ, chúng ta hãy tưởng tượng như bạn chơi môn đánh cờ và đang thực hiện các nước đi trên màn hình. Nếu bằng hệ thống ký tự, bạn phải dùng ký tự để đánh nước đi của bạn. Bạn phải đánh "chuyển quân cờ từ ô vuông 11 sang ô vuông 19", hoặc ngắn gọn hơn "chuyển chốt sang QB3". Nhưng nếu bằng hệ thống đồ hoạ, bạn sẽ nhìn thấy bàn cờ trên màn hình. Bạn chuyển vị trí các quân cờ bằng cách chỉ vào chúng và lôi chúng tới vị trí mới.

Những nhà nghiên cứu của Xerox tại trung tâm nghiên cứu Palo Alto rất nổi tiếng hiện nay ở California đã khám phá ra các hệ biến hoá mới cho sự tương tác giữa người và máy. Họ chứng minh rằng chúng ta có thể ra lệnh cho máy dễ dàng hơn nếu như chúng ta có thể chỉ vào vị trí đó trên màn hình. Họ sử dụng một công cụ gọi là một "con chuột", nó có thể chạy trên mặt bàn, để hướng dẫn mũi tên trên màn hình. Xerox đã thực hịen ý đồ đó một cách khá kém cời vì muốn tận dụng nhanh sáng kiến lớn lao đó để làm lợi thế trong thương mại, bởi cỗ máy của họ khá đắt và khong dùng

bộ vi xử tiêu chuẩn. Biến kết quả nghiên cứu thành những sản phẩm có thể bán ra thị trường vẫn còn là một vấn đề rất lớn đối với nhiều công ty.

Vào năm 1983, Microsoft tuyên bố rằng sẽ đặt kế hoạch đưa hệ đồ hoạ vào máy IBM PC, với sản phẩm được gọi là Windows. Mục tiêu của chúng tôi là tạo ra phần mềm có thể mở rộng hệ MS-DOS, sử dụng con chuột để cho hiện lên màn hình các hình đồ hoạ và sẽ làm cho màn hình chứa nhiều "cửa sổ", mõi cửa sổ chạy một chương trình khác nhau. Vào thời đó, trên thị trừơng có hai loại máy điện toán cá nhân có khả năng đồ hoạ, đó là máy Xerox Star và máy Apple Lisa. Cả hai loại này đều rất đắt tiền, khả năng lại bị hạn chế và xây dựng trên quyền sở hữu của cấu trúc phần cứng. Các công ty sản xuất phần cứng khác không mua được quyền sử dụng hệ điều hành để thiết kế ra các máy tương ứng, và máy đó không thu hút được các công ty sản xuất phần mềm tham gia vào việc sản xuất thêm các ứng dụng mới. Microsoft muốn tạo ra một tiêu chuẩn mở và áp dụng khả năng đồ hoạ vào bất cứ máy điện toán nào đang chạy hệ MS-DOS.

Đồ hoạ phổ thông đầu tiên xuất hiện trên thị trường vào năm 1984, khi hãng Apple chào đời máy Macintosh. Mời thứ trên hệ điều hành của Macintosh đều là đồ hoạ và dó là một thắng lợi hết sức lớn lao. Phần cứng ban đầu và phần mềm được cải tiến thì khả năng tiềm tàng của nó càng rõ ràng hơn.

Chúng tôi hợp tác chặt chẽ với hãng Apple trong suốt quá trình phát triển máy Macintosh. Steve Jobs là nhóm trưởng của nhóm Macintosh. làm việc chung với anh thật thú vị. Steve có khả năng trực giác đáng ngạc nhiên về kỹ thuật và về thiết kế cũng như khả năng lãnh đạo thuộc tầm cỡ bậc thầy.

Cần phải có đầu óc tưởng tượng thật phong phú để phát triển điện toán đồ hoạ. Hình dạng của nó trông như thế nào? Nó hoạt động ra sao? Có một số chúng tôi tiếp thu từ kinh nghiệm làmviệc với Xerox, số khác chúng tôi tự tạo ra. Đầu tiên, chúng tôi tạo ra quá nhiều khả năng. Chúng tôi sử dụng gần như hầu hết mọi phông chữ và biểu tựơng mà chúng tôi có. Sau đó, chúng tôi hình dung ra rằng tất cả những thứ đó có thể làm chói mắt, cho nên chúng tôi thay đổi thay đổi trình đơn ít rườm rà hơn. Chúng tôi tạo ra bộ xử lý từ Microsoft Word, và bảng biểu Micorosoft Excel cho máy Macirosoft. Đó là những sản phẩm đồ hoạ đầu tiên của Microsoft.

Máy Macintosh có phần mềm hệ thống rất tuyệt nhưng hãng Apple từ chối không cho phép ( cho đến năm 1955 ) bất cứ ai được sản xuất phần cứng để chạy nó. Đó là nếp nghĩ mang tính truyền thống của những hãng sản xuất phần cứng ; Nếu anh muốn có phần mềm ư, xin mọi anh mua máy của hãng Apple, Microsoft muốn cho máy Macintosh bán thật chạy và được đa số khách hàng chấp nhận, chẳng những vì chúng tôi đã đầu tư khá nhiều để tạo các ứng dụng cho nó mà còn vì chúng tôi muốn được công chúng chấp nhận chưong trình đồ hoạ của chúng tôi.

Những sai lầm như quyết định hạn chế việc bán phần mềm của hệ điều hành sử dụng cho chính phần cứng của Macintosh sẽ còn tái phạm nhiều trong những năm tới. Một vài công ty cáp và điện thoại đã nói tới chuyện liên lạc chỉ bằng phần mềm do họ quản lý.

Khả năng của cạnh tranh đồng thời vừa phải họp tác ngày càng trở nên rất quan trọng,nhưng việc đó đòi hỏi phải thật dạn dày kinh nghiệm

Việc tách phần cứng ra khỏi phần mềm là vấn đề lớn trong quan hệ cộng tác giữa IBM và Microsoft để để sản xuất OS/2. Việc đó vẫn còn là vấn đề cho đến tận ngày nay. Các tiêu chuẩn phần mềm tạo sân chơi cho các công ty sản xuất phần cứng, nhứng nhiều nhà sản xuất lại sử dụng sự lệ thuộc lẫn nhau giữa phần cứng và phần mềm để phân biệt rõ hệ thống riêng của ho. Một công ty khác lại coi phần cứng và phần mềm như là những khâu kinh doanh riêng biệt, số khác thì không làm như vậy. Những phương pháp tiếp cận khác nhau đó cũng sẽ tái diễn vai tuồng của nó trên xa lộ này trong tương lai.

Trong suốt thập niên 80, IBM chiếm kỷ lục hàng đầu so với bất cứ hãng nào khác về lợi nhuận thu được. Chỉ riêng trong năm 1984, lợi nhuận thu được của nó là 6,6 tỷ Mỹ kim. Trong năm hoàng kim đó, IBM cho ra đời thế hệ máy điện toán cá nhân thứ hai, đó là máy PC AT được kết hợp với bộ vi xử lý 80286 của hãng Intel (còn được gọi ngắn gọn là hệ "286"). Máy này nhanh hơn gấp ba lần so với máy IBM PC. Đó là một thành công vĩ đại, và chỉ trong vòng một năm, doanh thu của thế hệ máy này đã chiếm trên 70% của toàn doanh số bán máy điện toán cá nhân.

Khi cho ra đời máy điện toán cá nhân đầu tiên, IBM chưa bao giờ nghĩ rằng máy này lại thách thức doanh số bán ra của toàn bộ hệ thống kinh doanh của hãng, mặc dù doanh thu từ những khách hàng truyền thống của hãng chiếm một tỷ lệ đáng kể. Những người lãnh đạo chủ chốt của IBM nghĩ rằng các máy nhờ chỉ chiếm vị trí thấp trong thị trường. Nhưng vì thấy máy điện toán cá nhân càng ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn, để tránh thiệt hại tới những máy lớn, IBM đã cho kiềm chế bớt tốc độ phát triển máy điện toán cá nhân.

Trong khâu kinh doanh máy chính, IBM luôn luôn có khả năng khống chế việc chọn lựa những tiêu chuẩn mới. Chẳng hạn như công ty có thể giới hạn chế việc triển khai một dây chuyền sản xuất mới về phần cứng sao cho nó có thể bảo đảm sự tồn tại và phát triển của những sản phẩm đắt tiền hơn. Nó có thể khuyến khích việc chọn một phiên bản mới cho hệ điều hành của nó bằng cách tung ra thị trường một phần cứng đòi hỏi phải có phần mềm mới của nó mới hoạt động được, hay ngược lại. Chiến lược này có thể có hiệu quả tốt đối với thị trường máy điện toán cá nhân đang diễn biến rất nhanh chóng. IBM cũng có thể nâng giá trong chừng mực nào đó đối các sản phẩm tương tự, nhưng thế giới đã phát hiện ra rằng có rất nhiều công ty sản xuất phần cứng tương ứng, và nếu IBM không bán với giá phải chăng thì các công ty khác sẽ bán.

Ba kỹ sư, những người đã từng tán thưởng khả năng tiềm tàng IBM mở ra cho lãnh vực máy điện toán cá nhân, đã xin nghỉ việc tại hãng Texas Instruments và thành lập một công ty mới lấy tên là hãng Compaq Computer.