Chương VIII
Chương VIII
uy đẩy mạnh hai cánh cửa sổ. Ánh sáng lùa vào trong căn phòng tối, khiến chàng hoa cả mặt. Mặt trời chưa lên cao; ở mọi góc tre, ánh bình minh còn phơi màu hồng nhạt; một cơn gió lạnh đưa lại mùi thơm của hoa cau, Duy ngửng lên nhìn, nhíu đôi lông mày cho khỏi chói mắt; trên thân trắng một cây cau mọc cạnh cửa sổ, buồng hoa mới nở đêm hôm qua xòe ra ngoài bẹ, màu vàng non và tươi đẹp như nỗi vui mới nở trong lòng chàng.
Duy khoan khoái thở mạnh. Theo hương cau, chàng thấy thấm dần vào trong người hết cả cái mát trong của ban mai. Một vài con chim sâu gọi nhau trong cành tử vi. Duy chống khuỷu tay lên khung cửa, nhìn mấy con chim nhẹ nhàng chuyền cành nọ sang cành kia, ríu rít gọi nhau, rồi cũng vụt bay sang cây khác. Lòng Duy hôm nay nhẹ nhàng, và như cánh chim non, khẽ rung động một nỗi vui êm tĩnh, hòa hợp với cảnh sắc chung quanh. Chàng vui vẻ nghĩ thầm:
- Lại một ngày tươi sáng.
Duy có cảm tưởng rằng trong đời chàng chỉ còn những ngày tươi sáng, không bao giờ đổi khác được nữa. Mấy ngày vừa qua đã hửng nắng trong lòng Duy, chàng say sưa cái hương vị của tình yêu mới nở, đằm thắm như mùi thơm của hoa cau. Bao nhiêu ý nghĩ buồn, bao nhiêu hình ảnh của một ký vãng không xa tan đi trong nỗi vui mới như bóng tối trước ánh sáng của bình minh. Không còn vết nhơ nào gợn bẩn lòng Duy nữa; chốn thôn quê êm tĩnh này sẽ là cái tổ ấm áp của con chim bấy lâu bay mỏi ở những rừng xa, xứ lạ, vẩn vơ tìm cái hạnh phúc nó vẫn đợi sẵn ở đây. Thơ yêu chàng, Duy không nghi ngờ gì nữa; tình yêu ấy hình như để dành riêng cho chàng tự bao giở, như tất cả cây cỏ, ánh nắng, hương thơm bên bờ sông Luông; bao nhiêu những cái đẹp trong sạch có thể mưu hạnh phúc cho Duy hình như giấu sẵn ở đây từ lâu, đến bây giờ chàng mới tìm thấy.
Những ý tưởng ấy làm Duy bồng bột, máu chạy mạnh trong huyết quản, náo nức muốn cử động cho thật nhiều, cho thật mệt để phát tiết bớt ra ngoài nỗi vui chan chứa ở trong. Chàng cất tiếng hát vang một bài ca Pháp, mặc áo rất nhanh, rồi quên cả ăn sáng, vội vàng đi vào trong nắng như muốn đón lấy cái ấm man mác trong không gian.
Gió rung động các chòm lá tre ở hai bên đường; một vài chiếc lá khô nhẹ nhàng rơi xuống bay ngang mặt Duy. Ở đâu, văng vẳng lại tiếng du em, trong vắt như ánh nắng, khiến Duy nhớ đến những ngày thơ ngây và trong sạch hồi nhỏ. Mãi đến bây giờ chàng mới lại cảm thấy trở lại với cái linh hồn của thuở xưa.
Đến cổng làng, Duy rẽ sang con đường nhỏ lên đồi. Chàng hất tóc xõa xuống mắt ra sau, đánh diêm châm thuốc lá rồi trèo lên tận đỉnh đồi, ngồi dựa vào một gốc thông. Lặng yên, Duy nhìn làn khói thuốc bay lên, tan trong làn gió nhẹ, không lo không nghĩ, tâm hồn bình tĩnh êm ả như buổi sáng trong.
Qua làn khói, Duy cảm thấy vẻ đẹp man mác trong bức tranh hoạt động trước mắt. Dưới chân chàng, trái đồi cỏ non thoai thoải chạy xuống những thửa ruộng lúa vàng lấp lánh sương dưới nắng. Bên tay trái, con sông Luông khuất khúc hiện ra từng chỗ. Xa hơn nữa, là những đồi núi nhịp nhàng cây chùm đến ngọn.
Mơ màng, Duy nhìn màu lá úa ở sườn đồi lẫn vào màu xanh thẫm của cây cỏ, xa trông như đám hụi hồng vương lại trên những cành khô.
Không lúc nào Duy thấy đời tươi thắm và đáng sống bằng lúc đó; chàng sẽ làm trên trái đồi này một cái nhà tranh, trồng đầy hoa và mộng. Trước cảnh thiên nhiên, Duy thấy mình trở nên rất lãng mạn, và chàng mỉm cười nghĩ thầm:
- Thơ chắc cũng lãng mạn như mình.
Bỗng Duy thoáng thấy ở phía bên kia đồi một mái nhà tranh. Chàng vui mừng nói một mình.
- Dễ thường đã có người đồng ý với mình.
Và liên tưởng xui Duy nghĩ ngay đến những người điền tốt đập lúa ở nhà Thơ, đến những thợ gặt lúa: kia hẳn là nhà của một người nông phu biết yêu cảnh đẹp. Duy đứng dậy chợt nhớ đến một cái ý muốn đã nảy nở trong lòng, ý muốn làm cho người khác, tất cả người chung quanh được vui vẻ sung sướng:
- Nhưng biết đâu họ không sung sướng rồi!
Một người đã biết chọn nơi làm nhà để hưởng hết cả thanh sắc bàng bạc trong cảnh vật, Duy còn làm gì cho họ sung sướng hơn nữa?
Nghĩ miên man, Duy đã đi đến bên dậu tre lấp kín mái nhà tranh nên thơ kia mà không biết. Duy chưa lên tiếng, một con chó đen gầy còm đã nhảy xổ ra sủa. Chàng cứ thẳng tiến vào trong nhà, và bật cười khi thấy con chó vừa sủa vừa lùi lại sau bức tường.
Tiếng ồn ào trong nhà bỗng im bặt.
- Ai?
- Tôi đây mà.
Chàng vừa cười vừa trả lời như một người quen đã lâu. Có tiếng nói:
- À bác Tẹo đấy, phải không? Mời bác vào trong này.
- Không, tôi đây.
Duy vừa cười nói vừa cúi xuống bước vào trong nhà.
- Ồ quan! Quý hóa quá.
Một người đàn bà đứng tuổi đương ngồi vội đứng dậy, hai tay chấp lại kính cẩn, vẻ sợ sệt và ngượng nghịu:
- Bẩm... quan đến chơi. Bé, đứng dậy lấy chiếu mày.
- Được, bác mặc tôi.
Duy vừa nói vừa ngồi xuống phản. Nhưng chàng không cười được nữa. Linh hồn rung động một mối thương tâm vô hạn, Duy nhìn hai đứa bé đương ngồi ăn. Nhem nhuốc, hai đứa trẻ ẩn cạnh cái mâm gỗ mộc, thò tay vào rá bốc cơm đưa lên miệng. Duy rùng mình, buồn nôn; ở rá cơm bay lên một mùi mốc như mùi của rơm rác. Hai đứa bé gầy gò như hai cái que, bụng ỏng chảy xuống, khiến Duy nhớ đến bụng trứng của những con kiến chàng bắt chơi hồi nhỏ. Đứa lớn nhìn chàng mỉm cười, nét mặt nhăn nheo như một ông cụ già. Nụ cười của đứa trẻ, Duy tưởng chừng như ẩn một nỗi nhẫn nại vô cùng, khiến chàng tự nhiên thấy xót thương bâng khuâng.
Nghẹn ngào, Duy vội quay mặt ra chỗ khác. Nhưng chỗ nào cũng có lạnh lẽo như trong một chiếc nhà bỏ hoang. Lỏng chỏng vài chiếc phản mọt để cạnh cái bàn thờ siêu vẹo, bằng gỗ mộc; Duy buồn rầu nhìn mấy chiếc mâm bồng đã long sơn và cái bát hương như không bao giờ có khói. Trên cột tre, một vế câu đối dán đã rách gần hết, chỉ còn lại một mẩu giấy đỏ lấm chấm vàng, Duy trông như một ít màu tươi sáng ở đâu đến lạc loài trong những màu ảm đạm để làm tăng vẻ nghèo nàn của căn nhà trống trải.
Không muốn nhìn, không muốn nghĩ nữa, Duy hỏi cho có câu hỏi:
- Nhà bác làm ăn có khá không?
Người đàn bà lắc đầu thưa:
- Bẩm túng đói lắm. Nhờ cửa quan lớn, chúng cháu vay được ít thóc để dành gieo mạ, thì bữa rau bữa cháo, trời cho thế nào được thế.
Nhưng Duy không để ý nghe câu trả lời, chàng đương tò mò tự hỏi rằng người đàn bà kia đã bao nhiêu tuổi rồi. Nét mặt răn reo như bà cụ, nhưng tay chân còn vẻ cứng cáp của tuổi trẻ, nên Duy không sao đoán được, và tự nhiên chàng thấy buồn, một nỗi buồn thấm thía.
Muốn xua đuổi sự buồn nản ào ạt đến, Duy vội vàng đứng dậy, gọi hai đứa bé móc túi cho mấy hào. Mắt người đàn bà sáng hẳn lên sung sướng:
- Chúng bay cảm ơn quan lớn đi.
Duy buồn rầu bảo:
- Bác đừng gọi thế. Tôi có là quan lớn gì đâu!
Và chàng đổi ngay câu chuyên:
- Bác được mấy cháu?
- Bẩm giá trời để cho thì được năm cơ đấy. Bây giờ, cháu chỉ còn hai đứa này với cháu bé nữa thôi ạ.
Người đàn bà vừa nói vừa nhìn vào phía trong. Bất giác nhìn theo, Duy thấy một đứa bé độ năm sáu tháng nằm cuộn tròn trong một chiếc tã màu gio bẩn, và chàng ngạc nhiên nhận ra rằng mặt mũi nó sạch sẽ hơn hai đứa lớn, và ở bên cạnh nó lại có một chai sữa.
Người đàn bà như đoán được ý nghĩ của Duy, chép miệng nói:
- Bẩm nó sống được thật là phúc đức quá! Ở cữ xong lần này cháu khan sữa quá, không có cho cháu ăn nữa. May sao cô Thơ cháu cho sữa, không thì cháu cũng bỏ nó rồi.
- À ra cô Thơ...
- Vâng, cô Thơ cháu thật là phúc tinh của chúng cháu, của cả ấp đấy ạ.
Duy lặng yên nghe nói, lòng rung rung vì cảm động.
Duy từ giã người đàn bà, bước ra ngoài sân. Chàng thấy nhẹ hẳn người, như trên ngực có một vật nặng ai vừa mới cất đi. Nhưng nỗi vui làm nảy nở lòng Duy ban nãy cũng không còn. Ánh nắng vẫn phấp phới trên ngọn cỏ, có phần rực rỡ hơn, tiếng chim vẫn như cả sự vui sống ở đời; trên cao trời vẫn trong và sáng. Duy không thấy lòng mình hòa cùng một điệu với cảnh sắc nữa; chàng chỉ thấy tâm hồn rạo rực một nỗi thương man mác. Cái cảnh đời đói khó như còn vẩn vơ trước mắt chàng, in lên nền trời cao sáng, và một sự ngạc nhiên đau đớn làm se lòng chàng khi Duy nghĩ đến đời cơ cực của nhà người tá điền trong cảnh trí diễm ảo.
Duy thủng thỉnh đi bước một, để mặc gió thổi bạt mái tóc ra đằng sau gáy và lộng vào tâm hồn những ý nghĩ miên man. Trái hẳn với mọi lần gặp sự buồn, Duy để tư tưởng đi sâu vào nỗi ngạc nhiên đau đớn của chàng trước sự trái ngược của đời cực khổ bên trong và cảnh rực rỡ bên ngoài. Duy nhớ lại và so sánh với đời chàng trước đây, một đời mà mọi người đều trông thấy vẻ lộng lẫy hào nhoáng nhưng chỉ riêng có Duy đã âm thầm nhìn rõ sự thực điêu đứng. Nỗi đau khổ không căn cứ xưa kia của chàng, Duy cảm thấy thấm thía hơn, khó thoát khỏi hơn là sự cực khổ về vật chất của gia đình người tá điền. Chàng tự nhủ thầm:
- Nếu chỉ có thế...
Và chợt nghĩ đến nét mặt tươi sáng của người đàn bà khi hai đứa con được chàng cho tiền, Duy vui mừng nói một mình:
- Ta có thể làm cho người khác sung sướng hơn lên được.
Bất giác, chàng nhìn xuống chân đồi. Rải rác trong lũy tre, những mái nhà tranh liên tiếp nhau. Duy trông không biết là bao nhiêu nữa. Những cuộc đời sống ở dưới các mái tranh màu xám ấy, chàng chắc là cũng buồn tẻ, cơ cực như cuộc đời lam lũ chàng vừa mới trông thấy. Lòng thương người làm Duy bâng khuâng buồn, nhưng là một nỗi buồn chàng biết rõ căn nguyên, và chàng cảm thấy cố đủ sức để đưa người và đưa mình thoát khỏi. Một ý muốn tha thiết làm chàng rạo rực cả tâm hồn, ý muốn đem lại cho hết các gia đình ẩn náu dưới những mái tranh tối tăm kia, một đời đầy đủ, đầm ấm: chỉ có thế, Duy nghĩ thầm, mới làm sáng tỏ được cái căn bản tốt còn nguyên vẹn trong lòng chàng, mới đem lại cho chàng những nỗi vui đã mất.
- Nhưng muốn thế thì làm gì bây giờ?
Trước câu hỏi đột nhiên của tâm trí, Duy hoang mang như người bộ hành đến trước một khu rừng rậm, đường lối chi chít không biết theo ngả nào để sang được phía bên kia. Chàng sực nhớ đến Thơ, đến sự săn sóc của cô con gái thơ ngây đối với người nghèo, và tự nhiên thấy một nỗi vui tràn ngập vào trong lòng. Kẻ bộ hành đã có bạn, một người bạn thân yêu, mới hiện ra cũng đã đủ soi sáng con đường cần phải đi.
Duy lặng yên nghĩ đến hành vi của Thứ và trong tưởng tượng, chàng như cái bóng theo rõi dấu vết của người yêu trong công việc từ thiện một mình nàng lặng lẽ đảm đang. Mơ màng, Duy thấy hiện ra trước mắt hình ảnh một cô con gái mảnh dẻ hằng ngày đem thuốc cho người ốm, đùa với con trẻ, giúp đỡ người già, lúc nào cũng ngoan ngoãn chăm chỉ, chỗ nào cũng đem đến một chút ánh sáng, một ít an ủi, một nụ cười tươi vui. Duy nghĩ đến những nàng tiên đẹp và hiền từ, - đã đẹp là phải hiền từ, - trong những truyện thần tiên chàng đọc hồi nhỏ, lòng nhẹ nhàng như chiếc lá thông gió đưa qua trước mặt, man mác một ý muốn xa xôi, ý muốn được bàn tay của một nàng tiên đến mơn trớn, vỗ về thúc giục.
Đánh máy: casau
Nguồn: VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 15 tháng 8 năm 2016