Chương IV
Chương IV
on ngựa đứng dừng lại. Duy giật mình bàng hoàng như người tỉnh giấc. Chàng đã đến chân suối Bạc mà không hay. Bên kia cánh đồng Ba Xứ chạy thoải từ ven đồi thông xuống phía đông. Vài con bò lặng yên đứng trên bờ ruộng thấp, lúa mới cấy ngả nghiêng. Duy thúc ngựa qua suối, rồi giật mạnh dây cương. Chàng vừa thấy thấp thoáng sau rặng cây màu sặc sỡ của lá cờ.
Ra khỏi rừng, Duy dừng cương lại, chau mày lẩm bẩm:
- Họ làm gì thế này!
Trong lũy tre làng Hạ Nậu, cờ lọng ngổn ngang, phô đủ các màu xanh, đỏ, tím đã úa nhưng vẫn còn lộng lẫy. Ở dưới, lố nhố những người từ từ đi cả về một phía, Duy trông như một đàn kiến kéo về tổ. Một vài chiếc áo xanh lam nổi bật lên trên màu nâu xẫm của đám đông. Duy có cái cảm tưởng lạc về một thời đại thái cổ, tưởng đã tiêu diệt, nhưng vẫn còn sống sót trên chốn rừng xanh này.
Trống thủng thỉnh lên tiếng, Duy nghe có vẻ nhàn rỗi uể oải, và một nỗi buồn bâng khuâng theo tiếng trống chiếm lấy lòng chàng. Bao nhiêu tiếng trống rước Duy đã nghe từ thủa nhỏ, với cái cảm tưởng chán nản của chàng trước các đám rước thần, Duy nghe như nổi lên cùng một lúc trong thâm tâm.
Duy giật mạnh dây cương để xua đuổi cái ký vãng đương rồn rập đến; con ngựa chồm lên rồi phi thẳng đến Hạ Nậu.
Chắc có người báo trước, nên lúc đến cổng làng, Duy thấy lý Doãn đứng chờ sẵn bên cạnh đường. Trông thấy lý Doãn đội mũ tế mặc áo thụng, vái chàng một cái dài, Duy cố nhịn cười, gắt:
- Làng có việc gì thế?
Lý Doãn đưa tay lên tai:
- Lạy quan lớn, làng chúng con vào đám.
Và nét mặt lộ vẻ sung sướng, lý Doãn nói tiếp:
- Năm nào về tháng Ba làng chúng con cũng đóng đám. Rước quan lớn vào thăm đình.
Duy vội thoái thác:
- Thôi để khi khác, hôm nay tôi bận lắm.
Duy nói chưa hết lời, đã nghe tiếng người ở sau lưng:
- Thể nào ông lý cũng cố mời quan lớn vào chơi cho.
Duy quay nhìn lại, thấy chánh Mịch dẫn một lũ kỳ hào đi tới. Không muốn lưu lại chàng vội vàng hỏi lý Doãn:
- Thôi, tôi phải đi ngay. Việc đào giếng đã xong rồi đấy chứ, ông lý?
Lý Doãn không trả lời, luống cuống đưa tay lên sửa lại mũ.
Duy hỏi dồn:
- Kìa, thế nào ông lý?
Chừng Lý Doãn không muốn tỏ ý về việc ấy, nên ông ta nói lảng sang chuyện khác:
- Mời quan lớn hãy ghé qua đình một lát đã. Chẳng mấy khi.
Lúc ấy bọn kỳ dịch đã xúm cả chung quanh. Chánh Mịch vái Duy và đỡ lời lý Doãn:
- Vâng chẳng mấy khi quan lớn về chơi, mời quan lớn quá bộ qua đình đã.
Duy đã toan từ chối, song sợ mất lòng bọn hạ thuộc, và thấy họ quá ân cần, nên chàng dành xuống ngựa, buộc cương ngựa vào gốc cây rồi bước theo lý Doãn, miệng tủm tỉm cười. Chàng nhìn bộ quần áo tây của chàng trơ trẽn giữa những bộ lễ phục cổ, và nghĩ thầm:
“Nếu bọn Kính, Nghiệp nó thấy mình!”
Duy nghe văng vẳng tiếng cười chế riễu của Kính to và ròn, lẫn vào tiếng cười mai mỉa lanh lảnh của Tình.
Vào đến sân đình, Duy thấy các quan viên ngồi la liệt trên bục, dưới đất, chung quanh những mâm gỗ bạc màu. Mùi mồ hôi bốc lên lẫn với mùi xôi nóng, mùi rác rưởi, hòa thành một mùi riêng, tương tự như mùi mốc ấm. Các kỳ hào đã bắt đầu ăn uống, tiếng nói chuyện rì rào mỗi lúc một to hơn.
Chánh Mịch mời Duy đến chiếc chiếu cao nhất, ép chàng ngồi. Duy cố uống hớp rượu nồng, hỏi chánh Mịch:
- Giếng đã đào chưa, ông chánh?
Một ông kỳ hào ngồi bên, nhanh nhảu đáp:
- Bẩm chưa ạ.
Duy chau mày, quay lại phía lý Doãn:
- Vậy ra giếng vẫn chưa đào ư, ông lý?
Lý Doãn đưa mắt nhìn chánh Mịch rồi ấp úng:
- Bẩm đội ơn quan, chúng con đã định khởi công ngay, nhưng chót tiêu pha vào đám cả, nên việc chúng con muốn lên kêu quan lớn lại...
Duy nghe nói, muốn mắng lớn một tiếng cho hả cơn tức. Trước kia, chàng tưởng lý Doãn là một người khá, đem điều dự định sửa đổi làng Hạ Nậu ra bàn với, mong hắn giúp đỡ chàng trong các việc đào giếng, mở đường, lập trường học, và đã đưa số tiền khá to để bắt đầu. Bây giờ chàng mới hiểu số tiền ấy bọn lý Doãn đã tiêu lạm đi mất rồi. Chàng tức giận muốn hỏi ngay cho ra lẽ.
Nhưng Duy giữ lại được ngay sự điềm tĩnh. Chàng nghĩ rằng chàng to tiếng, chỉ làm mất thể diện của lý Doãn và mang vào mình một mối thù oán của những người mà chính Duy mong hoán cải đời sống.
Lẳng lặng, Duy nhìn bọn lý Doán ngồi bên cạnh mình, và bọn kỳ hào, ngồi ăn uống trong đình.
Hơi men đã bắt đầu làm tăng sự huyên náo. Ở gần, vài ông già cãi nhau, gân cổ nổi cả lên, ở xa hơn một chút anh trai làng ngồi vén đùi gãi, cạnh một cậu nhỏ đương véo thêm một ít xôi của phần người khác đắp thêm vào phần mình. Duy lắc đầu nghĩ thầm:
- Cứ để như thế mãi sao được!
Ý nghĩ ấy như hun thêm nỗi tức giận của Duy. Chàng thấy nóng bừng cả người, vội cầm chén rượu để trước mặt uống một hơi cạn rồi đứng dậy.
Mọi người nhao nhao nói:
- Kìa mời quan ngồi rốn lại đã.
Duy lạnh lùng đáp:
- Các cụ cho tôi kiếu: Tôi cần phải sang bên Thượng Nông.
Duy chào rồi bước ra. Qua sân đình, chàng cảm thấy trong lòng nhẹ hẳn. Có người đem ngựa lại, Duy cầm lấy cương, quay lại bảo lý Doãn lẽo đẽo theo sau, giọng gay gắt:
- Ông phải đào và xây giếng ngay cho tôi.
Rồi, không đợi trả lời, chàng nhảy lên lưng ngựa, ra roi phi như người đi trốn.
Con ngựa vòng theo dậu tre, rồi đến đầu làng, rẽ lên đồi. Duy nhìn xuống, thấy đình làng Hạ Nâu nhỏ dần trong đám cây, và nộ khí nhẹ dần trong tâm khảm.
Cảnh đình trung thoáng hiện ra từng mẩu trong trí não và Duy bật cười khi nhớ đến tiếng cãi nhau ầm ỹ, hay nét mặt ngớ ngẩn của mấy ông kỳ mục say rượu.
- Vô lý đến thế là cùng!
Duy không tức giận nữa, khi nghĩ đến bọn lý Doãn; trong lòng chàng chỉ còn ý tưởng thương hại lẫn với chút lòng khinh rẻ. Chàng nhìn cây cỏ chung quanh, hòa hợp yên lặng với trời đất, và buồn thay cho những người sống trong sự hòa hợp ấy mà không biết theo gương.
Duy lẩm bẩm:
- Sao họ ngu đến thế được!
Rồi chàng thở mạnh, như để đuổi sự phẫn nộ đương tràn vào tâm hồn.
Bỗng Duy kìm cương ngựa. Con vật đương xông thẳng vào một con đường rộng, đứng dừng lại.
Duy nhảy xuống đất, nhìn những căn nhà tranh mới đựng hai bên đường. Đó là những nhà Duy đã bỏ tiền ra làm theo kiểu của một nhà kiến trúc để làm mẫu cho dân làng.
Duy xoa tay, đứng nhìn những làn tre thẳng, những mái rạ đầy cắt đều, những cửa sổ rộng những phên liếp đặt dịp dàng trên những nền cao ráo. Một nỗi vui nhè nhẹ, lẫn cái thú tự kiêu, ở đâu đến xô đuổi những ý nghĩ bực dọc đương ám trí Duy.
Chàng cười khi thấy trong một căn nhà nhỏ một đứa trẻ chạy ra:
- Kia Chốc! Bu có nhà không?
- Thưa không ạ.
Đứa trẻ chạy lại gần, chìa tay ra trước mặt Duy:
- Ông cho con một xu.
Duy chau mày nhìn thằng bé trần truồng, đầu bôi phẩm xanh, bụng ỏng xệ xuống như một quả dưa lớn, hai con mắt hấp háy để đuổi những con ruồi bám trên vành mắt toét. Nỗi vui trong lòng Duy tự nhiên tiêu tán, và sự bực dọc khó chịu lại bắt đầu đè lên tâm não chàng.
Chàng vội quẳng cho thằng bé đồng năm xu và quay mặt nhìn sang phía khác. Ngay bên cạnh một căn nhà sáng sủa, mắt Duy dừng lại trên một cảnh buồn nản. Trong một đống rác bẩn, mấy đứa trẻ đóng khố, đương ngồi quanh một cái rổ, hoa tay xua đuổi đàn ruồi bay tới tấp chung quanh. Ngay cuối gió, giữa đám bụi, một người đàn bà ngồi mớm cơm cho con.
Duy tự nhiên thấy tâm trí rối loạn, ý nghĩ trái ngược ngổn ngang. Chàng liền bước vào một căn nhà. Giường ghế để bừa bãi; trên tường những vết nhơ bẩn đã làm hoen ố cả màu vôi xanh dịu chàng đã chọn và cho quét hai ba nước. Đằng sau hiên, một người đàn ông đương cầm đóm đốt vàng. Khói bay lên, quyến lấy mái tranh, Duy trông như hình ảnh của làn không khí ảm đạm đương bao bọc lấy dân quê.
Thấy tiếng động, người đàn ông ngẩng đầu lên.
- Bác Lộc!
Người đàn ông dạ một tiếng khúm núm đứng dậy. Duy gượng vui nét mặt, hỏi công việc làm ăn. Chàng đứng nghe Lộc phàn nàn nỗi nhà túng thiếu:
- Bẩm quan, bao nhiêu là thứ phải tiêu.
Mỉa mai, Duy kể:
- Tôi biết rồi. Tiền mua vàng mã này, tiền đóng góp việc làng này, tiền mua nhiêu cho con này, có phải thế không?
Lộc đáp:
- Vâng. Chính thế đấy ạ. Con vừa mới phải bán nốt nửa sào ruộng...
Câu trả lời ngây thơ của Lộc khiến Duy chán nản, thất vọng từ biệt trở ra. Chàng uể oải leo lên mình ngựa, để con vật thong thả bước một lên đường về ấp.
Công việc của chàng theo đuổi, trước kia chàng thấy to tát, khó khăn nhưng lòng tin ở sự thắng sau cùng làm cho chàng bồng bột hăng hái muốn mau đi với đích; chàng tưởng rằng muốn là được; thay đổi hoàn cảnh, lòng hăng hái của chàng tin rằng có thể dễ dàng như sự thay đổi chính lòng chàng.
Quay lại nhìn dãy nhà lẩn sau cây, Duy buồn rầu tự hỏi:
- Có phải sự mong mỏi quá nhiều đã đem lại cho ta sự chán nản?
Nhưng câu giải thích ấy không đủ an ủi lòng Duy. Con ngựa từ tốn bước trên đường cỏ; lá khô dưới chân kêu sột soạt; ngọn cây chốc chốc gặp gió sẽ rung chuyển rồi lại đứng im; rặng đồi trập trùng lặng yên dưới trời màu trắng đục, Duy cảm thấy một cách sâu xa sự vô ưu và vô tình của cảnh vật chung quanh, chàng cảm thấy tâm hồn quạnh hiu lạ thường, không có một linh hồn nào san sẻ lòng mong mỏi hay nỗi buồn thất vọng: người vật, cây cỏ quanh mình đều như sống theo một điệu riêng, không ăn nhập gì đến điệu sống cô độc của chàng. Những ý tưởng ấy Duy nhào đi trộn lại trong trí, và mỗi giây phút qua lại làm tăng cái cảm tưởng sống quạnh hiu buồn nản ấy.
Có tiếng ngựa hí đằng trước mặt. Duy ngửng đầu, reo to như người sắp chết đuối vớ được một tấm ván trôi qua.
- Thơ!
Đánh máy: casau
Nguồn: VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 15 tháng 8 năm 2016