PHẦN BA “ANH SẼ ĐÀO VÀNG” I ĐẠI ÚY SUTTER
Đồn Sutter nằm trên bờ sông Sacramento, là đồn lớn nhất California thời đó (1849). California tới năm 1850 mới gia nhập Hiệp Chủng Quốc, lúc ấy còn độc lập và chưa được tổ chức. Miền đó đất đai rộng gấp mười nước Việt Nam chúng ta, chưa được khai phá, rất phì nhiêu và có rất nhiều mỏ: mỏ vàng, mỏ bạc, mỏ kim cương, mỏ dầu lửa… Phì nhiêu nhất là thung lũng sông Sacramento nằm giữa hai dãy núi, một dãy ở bờ biển Thái Bình Dương, một dãy song song với dãy trên, nằm lui về phía trong, tên là Sierra Nevada.
Johann August Sutter (1803 - 1880)
Đồn có tên là Sutter vì ở trên đồn điền của Johann August Sutter và do chính ông ta cho xây cất.
Từ xa đoàn của Max đã thấy một công trình kiến trúc dài khoảng trăm năm chục thước, rộng năm chục thước, dựng bằng những thân cây lớn, gạch và bùn đắp lên rồi để cho khô. Có hai vòng rào, vòng ngoài cao khoảng sáu thước, dày một thước; vòng trong cách vòng ngoài tám thước và cao độ ba thước. Khoảng giữa hai vòng rào đó dùng làm xưởng, kho chứa đồ. Trên mặt mỗi vòng rào là một đường để lính đi tuần. Bốn góc đều có chòi canh rất kiên cố.
Vô khỏi vòng rào trong, tới một cái sân rộng có nhiều căn nhà, lẫm lúa và ngôi biệt thự của “đại úy” Sutter – ông ta tự xưng là “đại úy” và bắt mọi người trong đồn điền phải gọi mình như vậy.
Ông tự vẽ bản đồ xây cất, rất hãnh diện về công trình của mình và gọi đồn điền là Nouvelle Helvétie - tức Tân Thụy Sĩ - để nhớ lại quê hương của ông.
Ông tập hợp được một số người Da đỏ rất trung thành, dạy họ làm ruộng, dệt vải, cầm súng, và ông có được khoảng hai trăm cây súng. Vì miền đó chưa được bình định, còn một số Da đỏ Mockelumne độc lập, không chịu phục tùng người Da trắng, mà người Da trắng toàn là hạng dân giang hồ tứ chiến, rất khó trị; cho nên ông dùng chính sách Mạnh Thường Quân, tiếp đón nồng hậu tất cả những người Da trắng nào di cư tới mà có vẻ lương thiện.
Khi đoàn của Max tới, tiếng trống Da đỏ nổi lên. Tức thì mười hai người lính Da đỏ chạy lại xếp thành hàng trước hai cỗ súng bằng gang, ở gần vòng rào, bồng súng, đưa tay lên chào. Một sĩ quan Da trắng đeo găng bằng da, bận quân phục tựa quân phục vê binh, chỉ huy bọn đó. Họ tập luyện mà chắc chắn cũng có ý thị oai với đoàn của Max.
Đoàn đã nghe tiếng Sutter từ lâu, muốn ghé đây vài ngày để nghỉ ngơi, dò tình hình và để làm quen với nhân vật đó.
Họ được mời vào đồn, dọn cho một bữa thịnh soạn có đủ các thịt tươi và các rượu ngon và trái cây. Ba người Da đỏ hầu hạ họ; nhưng không thấy chủ nhân ra tiếp mình, chín anh em bàn với nhau ăn xong rồi thì đi, không thèm ở lại nữa. Đúng lúc họ chuẩn bị bước ra, “đại úy” Sutter cho một người Da trắng ra mời họ vào phòng riêng của đại úy để đại úy được hội diện.
Họ vô một phòng hội họp, đồ đạc sơ sài: một bàn giấy, một cái “com-mốt” và nhiều cái ghế bành rộng không có nệm, toàn do thợ trong đồn điền đóng lấy.
Bên cạnh lò sưởi thấy gác ba cây súng dài, bóng loáng; trên bàn giấy ngổn ngang giấy tờ, hồ sơ, có một cây súng sáu mạ kền dùng làm đồ chặn giấy.
Chủ nhân đương viết đặt bút xuống, đứng dậy tiếp họ. Ông ta ngoài tứ tuần, gầy, nhỏ, da sạm nắng, gân guốc, quắc thước. Nét mặt bình tĩnh mà cương quyết, trán cao, đầu hơi hói, râu rậm, cứng, không dài; đặc biệt là cặp mắt sáng, trầm tư. Y phục cắt toàn bằng nhung màu xanh dương đậm. Một dây chuyền lớn bằng vàng vắt ngang qua ngực, nổi bật trên màu nhung đó.
Ông ta có điệu bộ một quân nhân, tiến tới bắt tay mọi người, nở một nụ cười hiền từ. Ông nổi tiếng là Mạnh Thường Quân, khách viễn phương lại tá túc ở đồn điền ông bao lâu cũng được, muốn có việc làm thì ông kiếm cho, thiếu tiền thì ông giúp; nếu nagị không muốn được giúp mà muốn bán lại cho ông xe cộ, ngựa bò… thì ông cũng mua mà không khi nào trả rẻ. Thỉnh thoảng ông còn sai bộ hạ chở thức ăn vô núi kiếm những khách lạc đường hoặc bị cướp bóc mà cứu giúp nữa.
Cả cái miền mấy ngàn cây số vuông này là một thiên đường trên hạ giới. Ruộng lúa, bắp, vườn trái cây, vườn nho, đồng cỏ mênh mông. Đồn điền có xưởng mộc, xưởng rèn, xưởng thuộc da, máy xay bột, lò bánh, lò cất rượu… tự chế tạo lấy mọi đồ dùng, có thể tự túc được, chỉ trừ súng và đạn là phải mua ở ngoài thôi. Đúng là một lãng chúa trong một giang san riêng biệt.
*
Đời của ông thực kì dị, hồi ba mươi mốt tuổi không có một xu dính túi, chưa đầy mười lăm năm sau, có thể nói là giàu nhất thế giới, rồi khi năm chục tuổi, phải đi ăn mày.
Ông sanh năm 1803 ở Bade, một miền thuộc Đức, giáp ranh giới Thụy Sĩ, nhưng theo nghiệp ông cha, điều khiển một xưởng chế tạo ở Bâle (Thụy Sĩ) và coi Thụy Sĩ là quê hương của mình.
Không hiểu làm ăn ra sao mà năm ba mươi mốt tuổi, ông phá sản, phải bỏ vợ và bốn con (ba trai, một gái), trốn nợ, lẻn qua Pháp. Mấy ngày đi trong rừng, phải đào rễ cây mà ăn, nhập một bọn thanh niên đi du lịch, rồi gạt họ, ăn cắp đồ đạc tiền nong của họ.
Tới Paris, không còn một đồng nào cả. Không do dự, ông ta đi kiếm một nhà buôn giấy bạn thân với cha, đưa ra một tín dụng trạng giả mạo, nhận một số tiền, nửa giờ sau xuống một chiếc tàu ra hải cảng Havre. Ba ngày sau xuống tàu Espérance qua New York.
Vậy là con người nhiều thủ đoạn, không ngại ăn cắp và lừa gạt đó, từ bỏ quê hương qua Mĩ lập lại cuộc đời, suốt mười bốn năm sau không gửi tin tức gì về cho vợ con cả.
New York năm 1834 là nơi đủ các hạng người ở mọi nước lại làm ăn. Trộm cướp, thủy thủ đắm tàu, con buôn sạt nghiệp, nhà cách mạng lưu vong, nhà tu hành phiêu lưu, và triết gia vô danh, nông dân lương thiện, thợ thuyền, lính tráng… từ châu Âu ngày nào cũng đổ tới New York. Trên mỗi chiếc tàu cập bến, ít nhất cũng có vài tay giang hồ anh chị.
Vừa mới nhảy lên bờ, Sutter nốc hết một chai rượu, liệng vỏ chai xuống biển, rồi cười ha hả, len lỏi trong đám đông, xăm xăm vô thành phố như một người bận việc, đương có ai chờ đợi.
Ở New York ông ta làm không biết mấy chục nghề: khuân vác, giao hàng, bồi khách sạn, thư kí kế toán, nhổ răng, bán cao đơn hoàn tán, bán thịt, bán mì, dạy toán… giao thiệp với đủ các hạng người, học tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Hung Gia Lợi, tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Y Pha Nho, dò hỏi tin tức về các miền khác ở Mĩ.
Sau hai năm, ông ta thành Thổ công của tiểu bang New York, không có một đường hẻm nào mà không biết, không có một công việc làm ăn nào mà không rành. Ông chú ý nhất tới miền Tây hoang vu mà nhiều người đồn rằng đất cát phì nhiêu vô cùng, có lẽ có nhiều mỏ vàng nữa, vì dân Da đỏ ở đó thỉnh thoảng đem những cục vàng sống – nghĩa là mới đào ở dưới đất lên - đổi cho người Da trắng lấy thuốc lá hoặc chuỗi thủy tinh.
Ông làm quen với mấy con buôn Do Thái và quyết chí qua miền Tây. Chỉ ở miền đó mới mau làm giàu được thôi.
Ông bỏ New York tới Saint Louis trên bờ sông Mississipi, đầu đường qua miền Tây, mua đất ở Saint Charles - đất hồi đó rẻ rề - để làm ruộng, trồng bắp, lúa, bông vải và thuốc lá. Cũng buôn bán nữa. Tàu, ghe nào đi ngang qua, ông cũng mời họ ghé nhà ông nghỉ, khoản đãi rất trọng hậu; hỏi thăm họ về những miền họ làm ăn, những miền họ đã qua.
Khi thu thập đủ tin tức rồi, ông bán trại ruộng, mua hàng, rồi cùng với ba thương nhân nữa, chở tới Santa Fé, cách Saint Louis trên ngàn cây số. Vụ buôn đó không tính toán kĩ, lỗ, nhưng ở Saint Fé ông được thổ dân cho biết thêm nhiều điều về California, ở bên kia dãy Núi Đá, bên kia sa mạc. Đó mới thật là miền Tây, là “phúc địa”.
Ông quyết tâm tới California.
San Francisco năm 1849 (năm Lê Kim đến Mỹ)
Muốn vậy, ông trở về Independence, chuẩn bị một thời gian nữa, cùng với hai sĩ quan giang hồ, năm thầy tu, ba người đàn bà, thành lập một đoàn để vượt dãy Núi Đá.
Hồi đó vào khoảng 1838 hay 1839, đường đi còn nguy hiểm gấp mười hồi đoàn của Max đi qua – vì chưa có đường mòn và dân Da đỏ chưa quen với người Da trắng, hễ gặp là lột da đầu ngay.
Tới đồn Van Couver, không có đường bộ, ông theo đường biển, gặp bão, suýt làm mồi cho cá mập, sau cùng tới chỗ mà ngày nay người ta gọi là San Francisco. Thời đó, California còn là một tỉnh của Mễ Tây Cơ, San Francisco chỉ là một bến có vài chòi đánh cá, với một căn nhà tồi tàn của hội Truyền giáo.
Tới được ít bữa, Sutter cưỡi ngựa đi thăm thung lũng Sacramento, thấy đất hoang vu mà màu mỡ không thể tả, bèn trở về xin viên Thống đốc California, tên là Alvarado, cho phép khai khẩn miền đó.
Viên Thống đốc hỏi:
- Người đâu để khai phá.
Sutter đáp:
- Tôi sẽ dùng một số người Canaque[29] và những người Da đỏ trước làm cho hội Truyền giáo. Các bạn tôi sắp có một chuyến tàu chở người Canaque tới đây. Ngài cứ để tôi khai phá. Tôi sẽ làm cho xứ này phát đạt
- Ông sẽ gọi đồn điền của ông là gì?
- Là Nouvelle-Helvétie.
- Tại sao vậy?
- Tại tôi là người Thụy Sĩ.
- Được. Ông muốn làm gì tùy ý. Tôi cho ông quyền khai phá trong mười năm.
Ít lâu sau, ba chiếc tàu của Sutter ngược dòng sông Sacramento, chở một trăm rưỡi người Canaque, mươi người Da đỏ, năm chục con ngựa, hai trăm con bò, năm bầy cừu, đầy đủ lương thực và ít khẩu súng, ít thùng đạn.
Đốn rừng, cất chòi, bắc cầu, cày ruộng, gieo hạt giống,chăn bò. Dân Da đỏ lại xin đất để làm, ông chia cho họ mỗi người một lô. Ba chục người Da trắng trong miền, toàn là những người Mormon, các vị “Thánh thời tận thế”, cũng lại xin giúp việc ông.
Công việc phát đạt mau lạ thường. Lẫm lúa chật ních, mỗi mùa phải cất thêm. 4000 con bò đực, 1200 con bò cái, 1500 con ngựa, 12.000 con cừu.
Dựng trại cưa, nhà máy xay bột, lập vượn nho, cất rượu. Ít năm sau, ông đã nổi tiếng khắp Hiệp Chủng Quốc. Các ngân hàng ở Washington, New York, Londres tin cậy ông. Ông nhập cảng dụng cụ, khí giới, hạt giống, máy móc ở châu Âu. Ông trả hết các món nợ cũ ở Thụy Sĩ, cứu vãn được danh dự cho gia đình, được làm chủ vĩnh viễn đồn điền, mới nghĩ tới chuyện đón vợ con qua.
Nhưng vận của ông chỉ lên như diều được mười năm. Khi đoàn của Max tới thì ông đương lo lắng, bắt đầu sa sút. Mà ông lên mau bao nhiêu thì cũng xuống mau bấy nhiêu.
[29] Tên gọi chung thổ dân các đảo Thái Bình Dương: Tân Tây Lan, Tahiti, Marquise vân vân…