VỀ NHÂN VẬT LÊ KIM
Lê Kim nguyên tên là Trần Trọng Khiêm (1821-1886).
Ông là nhà yêu nước, người Việt Nam đầu tiên đến Hoa Kì trước nhà ngoại giao Bùi Viện, sau đổi tên là Lê Kim (sách La ruée vers l’or chép là Lee Kim). Ông là em nhà Nho Trần Mạnh Trí, quê làng Xuân Lũng, huyện Sơn Vi, tỉnh Phú Thọ (nay thuộc tỉnh Vĩnh Phú).
Thuở nhỏ ông học ở quê nhà, nổi tiếng thông minh, hay chữ, nhưng không theo con đường cử nghiệp. Năm 20 tuổi lập gia đình (vợ người họ Lê cùng làng) rồi theo nghề buôn bán gỗ, nên có điều kiện giao thiệp với các thương gia Hoa kiều ở Bạch Hạc (Việt Trì), Phố Hiến (Hưng Yên).
Năm 1843, vợ ông bị tên cai tổng thủ tiêu (vì hắn thâm thù không cưới được bà), ông giết tên cai tổng trả thù cho vợ rồi bỏ nhà đi biệt tích. Sau đó ông xuống Hưng Yên làm ăn, rồi xung vào các đoàn tàu buôn nước ngoài làm thủy thủ qua Hương Cảng, Anh, Hòa Lan… Cuối cùng ông đến Hoa Kỳ khoảng năm 1850. Tại đây, ông cùng với một số người khác (Mễ Tây Cơ, Hòa Lan, Canada, Anh, Mĩ…) đi tìm vàng ở miền Viễn Tây Hoa Kì. Sau ông chán cảnh hỗn độn, trụy lạc, cướp bóc của bọn người tìm vàng, ông trở lại California làm nhân viện cho tòa soạn báo Daily Evening một thời gian. Năm 1854 vì chán cảnh luật pháp hỗn độn, trụy lạc và cướp bóc ở thế giới vàng đó, nhân một chuyến tàu, ông trở về Hương Cảng nhập tịch Trung Hoa.
Khoảng năm 1855-1856[58], ông quay về tổ quốc, ngụ ở miền Nam. Tại đây ông là một trong vài người đứng ra khai phá lập nên làng Hòa An (Làng Hòa An thuộc phủ Tân Thành, tỉnh Định Tường – nay thuộc tỉnh Sa Đéc - Đồng Tháp), lập gia đình với người tại địa phương (họ Phan) có hai con.
Năm 1864, Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây, Nam Kì, ông cùng Thiên Hộ Dương (X. Võ Duy Dương) mộ nghĩa quân chống Pháp xâm lược đặt căn cứ xâm lược ở Đồng Tháp Mười (nay thuộc tỉnh Đồng Tháp). Ông chỉ huy một toán nghĩa quân, đánh thắng Pháp nhiều trận ở Mĩ Trà, Cao Lãnh, Cai Lậy… tương truyền các công sự chiến đấu ở Tháp Mười là do ông vẽ kiểu mô phỏng theo các đồn canh của một đại úy, Sutter (được chính phủ Hoa Kì phong Đại tướng) người Canada xây dựng ở California gọi là đồn Sutter.
Về sau tướng Pháp là De Lagrandière đem quân đàn áp ác liệt ở Tháp Mười, ông hy sinh tại trận năm 1866, hưởng dương 45 tuổi. Thi hài ông được nghĩa quân chôn cất tại giồng Tháp.
Trước khi mất, ông khuyên nghĩa quân kháng chiến tới cùng và dặn vợ ông lánh qua Rạch Giá nuôi con, không hợp tác với giặc. Sau khi ông hy sinh có người truy niệm:
“Hỡi ơi! Lòng trời không tựa, tấm gương tiết nghĩa vì nước quyên sinh
Mà: chính khí nêu cao, tinh thần Hùng Nhị còn truyền hậu thế”.
Cuộc đời sinh động và bi hùng của ông đã được hư cấu nghệ thuật trong hai tiểu thuyết có nhan đề là: La ruée vers l’or (Đổ xô đi tìm vàng) và Con đường thiên lí.
(Theo Từ điển Nhân vật Lịch sử Việt Nam - Nguyễn Quốc Thắng)
CON ĐƯỜNG THIÊN LÍ
(Nguyễn Hiến Lê)
*
Chịu trách nhiệm xuất bản: Vũ An Chương
Biên tập: Nguyễn Văn Toại
Trình bày: Nam Khôi
Bìa: Duy Ngọc
Sửa bản in: Nguyên Thăng
(Tái bản theo bản in của NXB Long An năm 1990)[59]
In 1000 cuốn, khổ 13x19. In tại nhà in Thành Công.
Theo giấy trích ngang kế hoạch xuất bản số 889/119-VHTT của Cục xuất bản cấp ngày 16/08/2000 và NXB Văn Hóa TT ngày 28/08/2000.
In xong và nộp lưu chiểu tháng 07 năm 2001.
Nhà xuất bản Văn Hóa – TT 43 Lò Đúc, Hà Nội
[58] Theo gia phả thì cụ quay về nước vào năm Giáp Dần, mà năm Giáp Dần vào khoảng 1854-1855 (xem lại chú thích của chúng tôi ở trên). (Goldfish).
[59] Có lẽ nhan đề của tác phẩm này, Nxb Long An ghi là “Con đường thiên lí” và Nxb Văn hoá Thông tin sửa lại thành “Con đường thiên lý”. (Goldfish).