← Quay lại trang sách

NGÓN TAY BUỘC TỘI

Tôi đã rời khỏi Viện bảo tàng bằng cách nào trong cái ngày đen tối đó? Điều này tôi chỉ còn nhớ được mơ hồ. Nhưng hẳn là tôi đã đi rất xa, vì tôi về phòng khám muộn chừng một hai tiếng sau khi đi thật nhanh qua những con phố và quảng trường, không để tâm dến những gì đang xảy ra xung quanh mà chỉ nghĩ về nỗi đau của mình, cơ thể bị thôi thúc bởi một mong muốn tự nhiên là tìm sự nhẹ nhõm qua vận động. Bởi lẽ những đau khổ về mặt tinh thần thường gây ra một thứ tích điện khiến cơ thể bồn chồn, một cơ chế hữu ích, vì những cảm xúc quá mạnh mẽ đền mức nguy hiểm sẽ chuyển thành năng lượng vận động và nhờ thế được loại bỏ một cách an toàn. Bộ máy vận động chính là cái van an toàn cho bộ máy tinh thần, khi động cơ vận hành được ít lâu, sự mệt mỏi về thể chất sẽ dẫn tới việc áp xuất tinh thần giảm xuống, trở lại ngưỡng bình thường.

Với tôi cũng vậy. Thoạt đầu tôi chẳng nhận thức được gì ngoài nỗi mất mát, nhữn ghi vọng bỗng chốc tan tành. Nhưng dần dần, khi len lỏi giũa đám đông người qua lại, tâm trí tôi bình tĩnh hơn. Thực ra tôi chẳng mất đi thứ gì mình đang có trong tay cả. Ruth vẫn sẽ là như thế đối với tôi thậm chí còn hơn, và nếu ngày hôm qua điều ấy vẫn còn là một diễm phúc, tại sao hôm nay lại không? Sẽ bất công cỡ nào với cô nếu tôi cứ mãi ủ rũ và buồn bã vì một nỗi thất vọng hoàn toàn không phải do lỗi của cô và vô phương cứu chữa? Tôi tự nhủ lòng như vậy với quyết tâm ghê gớm đến nỗi khi trở về với đường Fetter, nỗi buồn đã trở lại tầm kiểm soát, và tôi quyết tâm cố gắng quay về trạng thái như trước khi việc này xảy ra càng sớm càng tốt.

Tầm tám giờ, tôi đang ngồi một mình trong phòng khám, buồn bã tự thuyết phục bản thân chấp nhận sự thật không thể lay chuyển, Adolphus đem đến cho tôi một cái gói có ghi tên người gửi. Dòng chữ khiến tim tôi đập rộn ràng trong lồng ngực đến nỗi phải mất một lúc tôi mới kí được giấy biên nhận. Ngay khi Adolphus rời đi (cùng sự bất mãn lộ liễu với cái chữ kí run rẩy của tôi), tôi xé toang lớp giấy bọc, lấy lá thư ra, một chiếc hộp nhỏ xíu rơi xuống mặt bàn.

Lá thư rất ngắn. Tôi ngấu nghiến từng chữ, đọc đi đọc lại với sự hồ hởi của một người bị kết án khi đọc lệnh ân xá:

“Paul thân mến,

Thứ lỗi cho tôi vì đã đột ngột bỏ anh lại đó chiều này, trong tâm trạng buồn bã như vậy. Giờ thì tôi đã có thể suy nghĩ hợp lí và bình tĩnh hơn, thế nên tôi muốn gửi tới anh lời chào và cầu xin anh đừng nuối tiếc những điều không bao giờ đến. Điều đó không bao giờ xảy ra được, người bạn thân mến của tôi, và tôi khẩn nài anh, dù anh quan tâm đến tôi cũng đừng bao giờ nhắc tới chuyện này nữa, đừng bao giờ khiến tôi cảm thấy những gì mình có thể làm để đáp lại anh là quá nhỏ nhoi so với những điều mà anh đã dành cho tôi. Hãy đừng cố tìm cách gặp tôi một thời gian. Tôi sẽ nhớ những cuộc viếng thăm của anh, và cha tôi - người rất yêu quý anh - cũng vậy. Nhưng tốt hơn chúng ta không nên gặp nhau, cho tới khi khôi phục lại được mối quan hệ như cũ nếu điều đó là khả thi.

Tôi xin gửi anh một món đồ kỉ niệm phòng khi vòng xoáy cuộc đời khiến hai ta chia lìa. Đó là chiếc nhẫn mà có lần tôi đã kể với anh - chiếc nhẫn bác tôi đã dành tặng cho tôi. Có lẽ anh có thể đeo vừa nếu anh có bàn tay nhỏ nhắn, nhưng dù thế nào cũng hãy giữ nó thật cẩn thận để kỉ niệm tình bạn giữa hai chúng ta. Hình khắc trên đó là con mắt thần Osiris, một biểu tượng mà tôi có niềm gắn bó u buồn mang tính tâm linh, và ông bác tội nghiệp của tôi cũng thế, ông ấy đã xăm hình tượng ấy bằng mực đỏ trên ngực. Nó biểu trưng cho vị quan tòa vĩ đại của cái chết nhìn xuống loài người đảm bảo công lí được thực thi và sự thật thắng thế. Tôi gửi gắm anh cho vị thần Oriris vĩ đại, hi vọng con mắt của vị thần sẽ mãi mãi theo dõi anh, phù hộ cho hạnh phúc của anh trong sự vắng mặt của tôi.

Người bạn thân thiết của anh.

Ruth.”

Một lá thư dịu dàng, tôi nghĩ thế, dù nó chẳng đem lại nhiều an ủi. Giọng điệu nhẹ nhàng và dè dặt đúng như tính cách người viết, nhưng vẫn ẩn giấu tình cảm bên trong. Một lúc lâu sau, tôi đặt lá thư xuống rồi lấy chiếc nhẫn ra khỏi hộp, chăm chú xem xét. Tuy chỉ là một bản sao, nhưng nó vẫn lột tả đầy đủ nét cổ xưa và phong thái của bản gốc, trên hết, nó phảng phất mùi hương của người đã gửi chiếc nhẫn này. Thanh nhã, nhẹ nhàng, được chạm trỗ bằng vàng với lớp đồng bên dưới. Tôi thậm chí không đời nào đánh đổi nó lấy viên kim cương Koh-i- noor[49], và khi xỏ chiếc nhẫn vào ngón tay, con mắt nhỏ xíu bằng men màu xanh dương nhìn tôi trìu mến và thân thiện tới mức tôi cảm thấy ngay sự kì vĩ của những nghi thức tâm linh cổ xưa bao trùm lấy mình.

Tối nay không có một bóng bệnh nhân nào, tôi thấy rất thoải mái (và cả bệnh nhân cũng vậy). Vậy là tôi có đủ thời gian viết một lá thư dài đáp lại, thế nhưng tôi sẽ miễn cho bạn đọc khỏi phải chịu đựng nó bằng cách chỉ trích dẫn riêng phần kết như sau:

“Và giờ đây, em yêu, sau khi anh đã mở lòng mình, sau khi đã nói ra tất cả, anh sẽ không bao giờ mở miệng nhắc tới điều này lần nữa (ngay trong lá thư này anh cũng không hề làm thế) ‘cho tới khi sự đời đổi thay’. Và nếu sự đời không bao giờ đổi thay, nếu thời gian cứ thế trôi qua, rồi sẽ tới một ngày hai chúng ta ngồi bên nhau, đầu bạc trắng, mũi đầy nếp nhăn, tì hai cái cằm già nua trên cây gậy chống mà thều thào, lắp bắp vui vẻ nhắc tới những điều có thể đã tới nếu hồi ấy vị thần Osiris tốt bụng ra tay phù hộ, anh vẫn rất mãn nguyện, vì tình bạn của em, Ruth ạ. Nó vĩ đại hơn tình yêu của hết thảy những phụ nữ khác. Như em có thể thấy, anh đã nuốt trôi món cháo[50] rồi chuyển sang nước chanh[51] với một nụ cười, hi vọng em sẽ tha thứ cho xâu nói ẩn dụ của dân quyền Anh này, và anh hứa sẽ thực hiện đúng theo yêu cầu của em mà không bao giờ khiến em phải phiền lòng nữa.

Người bạn trung thành và thân thiết của em.

Paul”

Ghi địa chỉ và dán tem, sau đó gượng nở một nụ cười méo xẹo trên khuôn mặt (nhưng trên mặt Adolphus thì không có nụ cười nào) làm như đang vui vẻ, tôi ra ngoài và bỏ nó vào thùng thư, sau đó lẩm nhẩm bài khấn nguyện Nunic dimittis[52] và tự thuyết phục mình rằng sự việc đến đây là chấm dứt hẳn.

Thế nhưng bất chấp niềm an ủi thoải mái này, suốt vài ngày sau đó tôi vẫn chỉ là một chàng trai trẻ khổ sở. Coi những vấn đề kiểu này là nhỏ nhặt và ủy mị thực sự rất dễ dàng, nhưng thực chất chúng không hề như vậy chút nào. Khi một người đàn ông nghiêm túc tìm được người đáp ứng được tất cả những lí tưởng của anh ta về phụ nữ - một cô gái trong cả vạn người mới có một mà anh ta đã dâng tặng hết thảy tình yêu và tôn thờ, việc những hi vọng của anh ta bị giết chết chỉ trong nháy mắt chẳng phải là một tai họa có thể xem thường. Tôi cũng đang cảm thấy như thế. Dù đã chấp nhận sự thật cay đắng, bóng ma của những điều lẽ-ra-có-thể-tới ám ảnh tôi suốt ngày đêm, và dẫu đã dành hết thời gian rảnh đi thơ thẩn vô định khắp phố phường, cố xua tan những ý nghĩ ấy khỏi đầu, thì vẫn chưa bao giờ tôi thành công cả. Cảm giác bồn chồn dâng lên trong tôi, đến khi nhận được lá thư của Dick Barnard thông báo anh ta đang trên đường về nhà và đã về đến Madeira, tôi thở phào nhẹ nhõm. Tuy không có dự định gì cho tương lai, giờ tôi chỉ muốn vứt bỏ cái công việc đều đặn chán ngấy này để được đi bất cứ đâu, bất cứ khi nào, và theo bất cứ cách nào mình muốn.

Một buổi tôi, khi tôi đang ngồi một mình mà cố nuốt trôi bữa ăn mình không muốn, nỗi cô đơn đột ngột ùa tới. Cái mong ước được riêng tư để tha hồ suy tưởng mà tôi cảm thấy cho tới giờ đã nhường chỗ cho khao khát gần gũi với người khác. Hiển nhiên người mà tôi thèm khát nhất giờ phải tuyệt đối tránh mặt, tôi phải thực hiện đúng yêu cầu của quý cô yêu kiều ấy, nhưng tôi vẫn còn những người bạn ở khu Tmple. Đã hơn một tuần rồi tôi chưa gặp lại họ, thực ra chúng tôi đã không gặp nhau từ buổi sáng của cái ngày bất hạnh nhất trong đời tôi. Hẳn họ đang băn khoăn không biết giờ này tôi ra sao rồi. Liền đứng dậy khỏi bàn, lấy thuốc lá trong hộp bỏ vào túi, tôi nhằm đường King’s Bench Walk thẳng tiến.

Khi tới lối vào nhà số 5A trong bóng tối dần buông, tôi bắt gặp Thorndyke đang khệ nệ khiêng hai chiếc ghế gấp, một cái đèn và một cuốn sách.

“Trời Berkeley đấy à?” Ông thốt lên, “Có phải anh đó không. Chúng tôi đang băn khoăn tự hỏi không biết giờ này anh ra sao rồi.”

“Đã rất lâu tôi chưa tới gặp hai người.”

Ông chăm chú nhìn tôi thật kĩ dưới ánh sáng của ngọn đèn lắp ở lối đi rồi nhận xét, “Cuộc sống ở đường Fetter có vẻ không hợp với anh lắm, chàng trai trẻ ạ. Nom anh gầy và xanh xao quá.”

“Tôi sắp thoát khỏi đó rồi, Barnard sẽ quay về sau khoảng mười ngày nữa. Tàu của anh ta đang đỗ ở Madeira để lấy than và ít hàng hóa, sau đó thẳng đường về nhà thôi. Thầy đang mang mấy chiếc ghế này đi đâu vậy?”

“Tôi định ngồi ở cuối đường chỗ hàng rào, ở đó mát mẻ hơn trong nhà. Nếu anh chịu khó chờ một chút, tôi sẽ đi lấy thêm một cái ghế nữa cho Jervis, mặc dù phải một lúc nữa anh ta mới quay lại.” Nói xong ông chạy lên cầu thang sau đó trở xuống, mang theo chiếc ghế thứ ba. Chúng tôi khuân đống đồ đạc ra góc phố yên tĩnh.

“Vậy là thời kì khổ sai của anh sắp kết thúc.” Ông nói khi đặt chiếc ghế xuống và treo đèn lên hàng rào, “Còn chuyện gì khác không?”

“Không. Thầy thì sao?”

“Tôi e rằng không. Tất cả những điều tra của tôi đều chẳng đem lại kết quả. Dĩ nhiên là chúng ta đang có rất nhiều chứng cứ và dường như chúng đều thống nhất một hướng. Tuy nhiên tôi không muốn hành động dứt khoát khi chưa có những chứng cứ cụ thể hơn. Thực ra lúc này tôi đang chờ xem nhân định của mình về vụ việc có đúng hay không, đồng thời đợi thêm những chứng cứ mới.”

“Tôi không biết còn chứng cứ nào nữa.”

“Thật à?” Thorndyke nói, “Nhưng đằng nào thì anh cũng biết nhiều có kém gì tôi đâu. Anh đã nắm được tất cả những chi tiết cốt yếu, song rõ ràng anh vẫn chưa đối chiếu chúng để nhìn ra những điều sâu xa hơn. Nếu làm thế, hẳn anh đã thấy tầm quan tọng ghê gớm của chúng.”

“Tôi cho là mình không được phép hỏi tầm quan trọng đó là gì?”

“Có lẽ thế. Khi điều tra một vụ việc, tôi chẳng bao giờ nói ra những ước đoán của mình cho ai cả, thậm chí cả với Jarvis, như thế tôi có thể đàng hoàng khẳng định mình không bao giờ làm lộ chuyện. Đừng tưởng tôi không tin anh. Hãy nhớ rằng những quan điểm của tôi cũng chính là tài sản của thân chủ, và điều cốt lõi trong chiến lược của chúng ta là khiến đối phương không biết đâu mà lần.”

“Phải, tôi hiểu. Dĩ nhiên tôi không nên hỏi tới.”

“Anh cần gì phải hỏi.” Thorndyke đáp với một nụ cười, “Hãy ghép nối những chứng cứ với nhau và tự suy luận thôi.”

Đương lúc nói chuyện, tôi để ý thấy Thorndyke thỉnh thoảng lại nhìn tôi một cách tò mò. Sau một thoáng im lặng, ông đột ngột hỏi, “Có chuyện gì không ổn à, Berkeley? Anh đang lo lắng về vụ việc của các bạn anh à?”

“Không, không hẳn, dù tôi thấy triển vọng cũng không sáng sủa lắm.”

“Nhưng chắc cũng đâu có tồi tệ đến thế?” Ông nói, “Tôi e là có điều gì đang làm anh bận tâm. Phong thái vui vẻ của anh biến đâu hết rồi?” Ông ngừng lời một lúc, sau đó nói thêm, “Tôi không muốn xen vào chuyện riêng tư của anh, nhưng biết đâu tôi có thể giúp đỡ anh bằng cách đưa ra lời khuyên hoặc làm gì đó. Hãy nhớ rằng chúng ta là bạn thân và anh lại còn là học trò cũ của tôi.”

Theo phản xạ, với sự kín đáo cố hữu, tôi bắt đầu lẩm bẩm một câu từ chối nửa vời, rồi dừng lại. Suy cho cùng thì có lý do gì ngăn tôi không được giãi bày với ông? Ông là một người tốt bụng và thông thái, đầy cảm thông, theo như tôi biết, mặc dù trong công việc lúc nào cũng kín đáo và bí mật. Mà ngay lúc này tôi lại cần một người bạn hơn bao giờ hết.

“Tôi e là…” Tôi ngượng ngập mở đầu, “Thầy sẽ không giúp được gì nhiều đâu, mà đây cũng chẳng phải chuyện tôi muốn làm phiền thầy…”

“Nếu chuyện đó đủ khiến anh buồn bã, anh bạn, nó cũng đủ quan trọng để bạn bè của anh để tâm tới chứ. Vậy nên nếu anh không phiền mà thổ lộ với tôi…”

“Dĩ nhiên là không phiền rồi, thưa thầy!” Tôi buột miệng.

“Thế thì nói đi, khỏi cần thưa gửi gì cả! Giờ chúng ta đều làm ăn ngang hàng cả rồi.”

Nhận được lời động viên đó, tôi giãy bày hết thảy câu chuyện tình cảm ngắn ngủi của mình, thoạt tiên còn rụt rè, chốc chốc lại ngắt quãng, nhưng sau đó tôi kể thật thoải mái và tự tin. Ông lắng nghe với vẻ chăm chú cực kì nghiêm túc, một hai lần đặt câu hỏi khi câu chuyện của tôi trở nên lan man. Khi tôi kể xong, ông nhẹ nhàng đặt tay lên cánh tay tôi.

“Anh thật kém may mắn, Berkeley ạ. Tôi biết anh đang khổ sở lắm. Còn tôi thì cũng buồn thay cho anh tới mức không thể diễn tả thành lời.”

“Cảm ơn thầy…” Tôi nói, “Thầy thật tốt bụng khi đã kiên nhẫn lắng nghe tôi đến vậy, nhưng làm phiền thầy bằng những chuyện ủy mị như thế này thật là không phải phép.”

“Này, Berkeley, đừng nghĩ thế, mong anh cũng đừng nghĩ là tôi có ý đó. Chúng ta sẽ trở thành những nhà sinh vật học và bác sĩ tôi nếu đánh giá thấp tầm quan trọng cũng những việc vốn là tối quan trọng trong tự nhiên. Một vấn đề sinh lý nổi bật là tầm quan trọng to lớn của tình dục, chúng ta sẽ chỉ là những kẻ điếc và mù nếu không nghe, không thấy nó trong mọi sinh vật trên thế giới này như khi chúng ta lắng nghe bà ca mùa xuân của loài chim, hay ngắm nhìn những đóa hoa huệ trên cánh đồng. Con người ưa thích các dạng sống ở cấp thấp hơn cũng là vì chúng phản chiếu những biểu hiện của tình dục. Tôi khẳng định, và hẳn anh cũng sẽ đồng ý với tôi, rằng tình cảm của một người đàn ông nghiêm túc và đáng trân trọng dành cho một người đàn bà xứng đáng với anh ta chính là điều có ý nghĩa lớn lao nhất trong mọi hoạt động của con người. Đó là gốc rễ của đời sống xã hội, và sự đổ vỡ của nó là một mối tai ương vô cùng nghiêm trọng không chỉ với những người bị nó phá hoại cuộc đời, mà với cả xã hội nói chung.”

“Đó là một việc nghiêm trọng với những người trong cuộc…” Tôi đồng tình, “Nhưng không phải là lý do để họ thoải mái làm cho ban bè mình chán ngấy.”

“Đâu có. Bạn bè phải giúp đỡ nhau và coi đó là diễm phúc của mình.”

“Ôi, tôi không cần e ngại tới nhờ thầy giúp đỡ khi đã hiểu rõ về thầy đến thế. Nhưng không ai có thể giúp đỡ kẻ tội nghiệp này ở vào hoàn cảnh như vậy, và hiển nhiên một bác sĩ pháp y thì lại càng không?”

“Ồ, coi nào, Berkeley!” Ông phản bác, “Đừng đánh giá chúng tôi thấp thế chứ. Những sinh vậy khiêm tốn nhất cũng có vai trò nhất định, ‘đến cả những con kiến bé nhỏ’. Như Izaak Walton đã căn dặn chúng ta. Tại sao à? Tôi từng có lần nhận được sự giúp đỡ to lớn của một người sưu tầm tem. Sau đó tôi suy ngẫm về người lái xe máy, loài giun đất và những con nhặng. Tất cả những sinh vật nhỏ nhoi đó đều có vai trò riêng trong bức tranh toàn cảnh của tự nhiên, vậy thì chúng ta có nên coi một bác sĩ pháp y là vô dụng hay không?”

Tôi bật cười chán ngán trước câu mỉa mai vui vẻ từ thầy giáo cũ của mình.

“Ý tôi là, ta chẳng thể là gì được ngoài chờ đợi có lẽ là mãi mãi. Tôi không hiểu tại sao cô ấy không thể kết hôn với tôi, và không thể hỏi cô ấy được. Nhưng ngay bây giờ thì cô ấy đã kết hôn đâu.”

“Dĩ nhiên là chưa. Cô ta đã nói thẳng với anh là chẳng còn người đàn ông nào khác trong việc này.”

“Chính xác. Vì thế tôi không thể nghĩ ra một lí do hợp lí nào khác, ngoại trừ việc cô ấy chưa đủ quan tâm đến tôi. Đó là một lí do hoàn toàn hợp lí, nhưng ngay cả thế đây cũng chỉ là cái cớ tạm thời chứ không phải một thứ chướng ngại không thể vượt qua nổi mà cô ấy cho rằng đang tồn tại, nhất là khi tôi và cô ấy rất tâm đầu ý hợp. Tôi hi vọng đó không phải là do sự rụt rè quá mức đến nỗi lố bịch của phụ nữ. Thực sự là tôi không tài nào hiểu nổi, tuy nhiên đôi khi phụ nữ cũng có những lúc vòng vo vô lý như thế đấy.”

“Tôi không hiểu,” Thorndyke nói, “Tại sao chúng ta lại chỉ nghĩ tới những động cơ xấu xa bất thường trong khi còn một cách giải thích hoàn toàn hợp lí rành rành thế kia?”

“Thế à?” Tôi thốt lên, “Tôi chẳng nghĩ ra gì hết.”

“Ở vào hoàn cảnh này thì cũng dễ hiểu khi anh không hề nghĩ tới những sự việc đang ảnh hưởng tới cô Bellingham, nhưng tôi không cho là cô ta không hiểu ý nghĩa của chúng. Anh có nhận ra vị thế của cô ta hiện giờ là như thế nào không? Ý tôi là liên quan tới vụ mất tích của bác cô ta?”

“Tôi không nghĩ là mình hiểu ý thầy.”

“Chà, vậy thì không cần vòng vo vô ích.” Thorndyke nói, “Vị thế của cô ta bây giờ là: Nếu John Bellingham đã tới nhà em trai mình ở Woodford, gần như chắc chắn ông ta phải đến đó sau khi qua nhà Hurst. Hãy nhớ là tôi đang nói ‘nếu ông ta tới’ nhé, chứ không phải tôi thực sự tin là thế. Nhưng có người cho rằng có thể ông ta đã đến đó, và sau đấy không ai còn nhìn thấy ông ta còn sống nữa. Ông takhoong vào bằng cửa trước. Không ai bắt gặp ông ta vào nhà. Nhưng hãy còn một cánh cổng phía sau mà John Bellingham cũng biết, có nối với một cái chuông trong thư viện. Hẳn anh còn nhớ khi Hurst và Jellicoe tới, ông Bellingham cũng chỉ vừa mới bước vào. Trước đó chỉ có mỗi cô Bellingham trong thư viện, như thế nghĩa là cô ta ngồi một mình ở đso chính vào lúc người ta cho rằng John Bellingham tới. Tình cảnh của cô ta lúc này là như thế đấy, Berkeley ạ. Cho tới giờ chưa ai nói thẳng những điều này ra, nhưng chẳng sớm thì muộn, nếu người ta không tìm thấy John Bellingham dù còn sống hay đã chết, câu hỏi này sẽ bị khơi ra ngay. Khi ấy thì chắc chắn Hurst, đế bảo vệ mình, sẽ tận dụng mọi tình tiết có thể để dồn mối nghi ngờ từ ông ta lên người khác. Người khác đó ở đây chính là cô Bellingham.”

Trong một chốc, tôi ngồi đó tê dại cả người vì kinh hoàng. Nỗi tuyệt vọng của tôi nhường chỗ cho cơn giận dữ. “Nhưng mà, mẹ kiếp…!” Tôi kêu lên, vụt đứng dậy, “Xin lỗi thầy, nhưng chẳng lẽ trên đời lại có người tráo trở đến mức cáo buộc quý cô dịu dàng, mềm mỏng ấy đã giết ông bác mình?”

“Người ta chỉ ám chỉ điều đó, nếu không nói thẳng ra, và cô ta cũng tự hiểu. Giờ khi đã biết điều này, anh có thấy còn gì khó khăn để hiểu được tại sao cô ta buộc phải ngăn anh kết giao với mình một cách công khai? Anh có muốn mạo hiểm lôi cái tên đáng kính của mình vào những việc ghê tởm ở đồn cảnh sát và Tòa Đại hình? Anh có dám đánh cược, sẵn sàng chịu những tai tiếng khủng khiếp hay không?”

“Ồ đừng nói thế, vì Chúa! Thật quá khủng khiếp! Tôi chẳng quản gì bản thân cả. Tôi sẽ kiêu hãnh chia sẻ nỗi thống khổ vì ô nhục cùng cô ấy, nếu điều đó xảy ra, nhưng chính sự báng bổ, xúc phạm khi chỉ cần nghĩ tới cô ấy theo cách đó cũng khiến tôi nổi giận lôi đình.”

“Phải.” Thorndyke nói, “Tôi hiểu và thông cảm với anh. tôi hoàn toàn chia sẻ sự phẫn nộ chính đáng của anh trước hành động đê tiện đó. Vậy nên anh đừng cho là tôi quá độc ác khi đã diễn đát sự việc một cách thẳng thừng đến thế.”

“Không đâu. Thầy chỉ cho tôi thấy những nguy hiểm mà tôi đã quá ngu ngốc không nhìn ra được. Nhưng hình như thầy có ý nói tình cảnh đáng sợ này được gây ra một cách cố ý?”

“Chính xác! Đây không phải ngẫu nhiên. Hoặc vẻ bề ngoài của nó phản ánh những sự việc có thực - điều mà tôi chắc chắn không phải, hoặc nó đã được tạo ra một cách cố ý nhằm khiến người khác đí tới kết luận sai lầm. Nhưng các tình tiết làm tôi tin rằng đây là một âm mưu có chủ đích, và hiện giờ tôi đang chờ đợi nhằm tóm cổ tên khốn nạn đã gây ra tất cả những chuyện này dù không phải với sự kiên nhẫn của Chúa Jesus, tôi buộc phải nói với anh như vậy.”

“Thầy đang chờ đợi gì?”

“Tôi chờ đợi điều bắt buộc phải tới.” Ông đáp, “Một nước đi sai lầm mà ngay cả những tên tội phạm xảo trá nhất cũng mắc phải. Lúc này hắn vẫn ẩn náu kỹ, nhưng rồi hắn sẽ phải hành động, và đó là khi tôi sẽ tóm được hắn.”

“Nhưng nếu hắn cứ im tiếng mãi, thầy sẽ làm gì?”

“Phải, rủi ro nằm ở chỗ đó. Chúng ta có thể đang phải đối đầu với một kẻ thủ ác hoàn hảo biết khi nào nên dừng lại. Tôi chưa từng gặp kẻ nào như thế, nhưng biết đâu hắn thực sự tồn tại trên đời thì sao?”

“Vậy khi đó chúng ta chỉ có thể đứng nhìn tai họa ập đến với người thân của mình.”

“Có lẽ thế.” Thorndyke đáp, và rồi cả hai chúng ta cùng chìm vào suy tưởng trong sự im lặng u buồn.

Nơi này thật thanh bình và yên tĩnh, chỉ những vùng hẻo lánh của London mới như vậy. Thỉnh thoảng tiếng còi tàu kéo và tàu hơi nước xa xa dội lại cho thấy cuộc sống bận rộ ở khu cảng. Tiếng rì rầm khe khẽ của xe cộ vọng lên từ các con phố quanh khu ngoại ô, những tiếng rao chói tai của mấy đứa trẻ bán báo tạo thành một điệp khúc dai dẳng từ hướng phố Carmelite. Chúng ở quá xa để mà gây khó chịu, nhưng những tiếng rao hồ hởi ấy dù đã bị xóa nhòa bởi khoảng cách vẫn đủ khiến tôi run rẩy đến tận xương tủy, nhất là khi chúng nói tới những khả năng đáng sợ mà Thorndyke vừa giải thích. Tôi cảm giác chúng hệt như bóng ma tai họa đang chực chờ ập tới.

Có lẽ chúng cũng gợi nên ý nghĩ tương tự ở Thorndyke, vì sau cùng ông nói, “Bọ làm báo này cứ như loài chim chuyên báo điềm gỡ. Một chuyện bất thường xảy ra, một vụ việc xấu xa hoặc công khai, hoặc riêng tư, và thế là lũ quỷ ồn ào ấy ấp tới ngấu nghiến xác chết. Các nhà báo có rất nhiều điểm chung với loài chim chuyên ăn xác thối lượn lờ trên bãi chiến trường.”

Một lần nữa cả hai chúng tôi im lặng suy tưởng. Một lúc sau, tôi hỏi, “Liệu tôi có thể giúp gì cho việc điều tra của thầy không?”

“Đó chính là điều mà tôi cũng đang băn khoăn tự hỏi mình đây.” Thorndyke đáp, “Anh giúp đỡ chúng tôi thì quả là một điều đúng đắn và hợp lý, mà tôi tin chắc là đằng nào anh cũng muốn giúp một tay.”

“Bằng cách nào?” Tôi liền hỏi.

“Tôi không thể nói ngay được, nhưng Jervis đang định đi nghỉ, thực ra tối nay Jervis đã nghỉ rồi. Không có nhiều việc để làm, sắp tới thời kỳ rảnh việc và tôi có thể lo liệu một mình mà không cần anh ta. Nhưng nếu anh sẵn lòng tới thay anh ta, anh sẽ làm được rất nhiều điều cho tôi đấy. Nếu có thể làm được gì để giúp đỡ những người trong gia đình Bellingham, hẳn sự nhiệt tình của anh sẽ bù đắp hết những thiếu sót do ít kinh nghiệm.”

“Tôi không thể thay thế Jervis được.” Tôi nói. “Nhưng nếu thầy cho phép tôi giúp đỡ dưới bất kì hình thức nào, đó sẽ là một ân huệ lớn. Tôi thà đánh giày cho thầy còn hơn là đứng ngoài vụ này.”

“Tốt lắm. Hãy cùng nhất trí rằng anh sẽ trở lại đây ngay khi thu xếp xong với Barnard. Anh có thể dùng phòng của Jervis, gần đây anh ta cũng chẳng dùng đến nó nữa, rồi anh sẽ thấy ở đây sung sướng hơn hết thảy mọi chỗ khác, tôi biết. Tiện thể có khi tôi cũng đưa cho anh chìa khóa luôn. Tôi còn một chìa dự phòng trên gác, anh cũng có thể coi văn phòng của tôi là của mình kể từ giờ phút này.”

Ông đưa chìa khóa cho tôi, còn tôi cảm ơn ông nồng nhiệt từ đáy lòng, vì tôi cảm thấy chắc chắn đề nghị này được đưa ra không phải vì tôi sẽ làm được gì cho ông, mà là để giúp tôi lấy lại sự bình yên trong tâm hồn. Tôi chỉ vừa kịp nói hết câu thì nghe thấy tiếng bước chân gấp gáp trên vỉa hè.

“Jervis đây rồi.” Thorndyke nói. “Chúng ta sẽ cho anh ta biết mình đã có một người sẵn sàng thay thế mỗi khi cần nghỉ phép.” Đoạn, ông rọi chiếc đèn lồng qua bên kia đường, và một lúc sau người học trò của ông vội vã đi tới với một chồng báo kẹp dưới cánh tay.

Điều khiến tôi ngạc nhiên là Jervis nhìn tôi với ánh mắt có phần kì lạ khi nhận ra tôi dưới ánh sáng lờ mờ của chiếc đèn lồng, hơn nữa anh ta lại có vẻ hơi rụt rè, như thể sự có mặt của tôi khiến anh ta xấu hổ lắm. Anh ta lắng nghe Thorndyke thuật lại những điều chúng tôi mới dàn xếp với vẻ dửng dưng, mà cũng chẳng đưa ra những bình luận khôi hài thường lệ. Một lần nữa tôi thấy anh ta liếc nhìn tôi, nửa tò mò, nửa khó chịu, khiến tôi cực kì băn khoăn.

“Thế cũng được.” Anh ta nói khi Thorndyke đã giải thích xong, “Tôi dám chắc Berkeley cũng sẽ là một trợ tá đắc lực không kém gì tôi đâu, vả lại đằng nào thì cậu ta ở đây cũng tốt hơn là chỗ Barnard.” Anh ta nói với vẻ nghiêm nghị hiếm có, trong giọng nói thể hiện nỗi lo ngại khiến tôi nhận ra ngay và cả Thorndyke cũng thế. Vị Tiến sĩ nhìn anh ta tò mò, dù không nói lời nào.

Sau một khoảng im lặng ngắn ngủi, cuối cùng ông cũng hỏi, “Người bạn thông thái của tôi đem tới những thông tin gì đây? Đám người thô lỗ khu ngoại ô hò hét điên cuồng, và tôi lại còn thấy một chồng báo dưới cánh tay anh. chuyện kì lạ gì đã xảy ra đây?”

Jervis tỏ vẻ bứt rứt hơn bao giờ hết, “Chà, đúng thế…” Anh ta ngập ngừng đáp, “Có chuyện đã xảy ra. Đây! Cũng không nên vòng vo nữa, Berkeley cũng có thể nghe tin này từ tôi thay vì đám nhóc con to mồm ngoài kia.” Anh ta rút trong chồng báo ra hai tờ, lẳng lặng đưa một tờ cho tôi và một tờ cho Thorndyke.

Biểu hiện đáng ngại của Jervis, một cách rất tự nhiên, khiến tôi lo lắng. Tôi mở tờ báo trong nỗi sợ hãi vô danh. Nhưng dù sự sợ hãi mơ hồ này của tôi có lớn đến mức nào thfi cũng là chưa đủ, bởi lẽ khi nhìn thấy những tiếng rao ngoài kia kết tinh thành dòng tiêu đề đáng sợ và những chữ cái viết hoa to tướng, tôi kinh hoàng tới mức đầu óc quay cuồng, bủn rủn cả chân tay.

Mẩu tin rất ngắn, tôi đọc chưa tới một phút.

“NGÓN TAY BỊ THIẾU

PHÁT HIỆN KINH HOÀNG Ở WOODFORD

Bí ẩn bao trùm những mảnh thi thể người bị cắt rời được phát hiện ở nhiều địa điểm khác nhau tại Kent và Essex hiện mới chỉ được giải đáp phần nào bằng những tình tiết đáng sợ. Cảnh sát ngay từ đầu đã nghi ngờ những mảnh thi thể này là của ông John Bellingham - người mất tích trong hoàn cảnh đáng ngờ khoảng hai năm về trước. Nhưng giờ người ta không cần hoài nghi gì nữa, bởi lẽ ngón tay bị thiếu trên bàn tay được tìm thấy ở Sidcup mới đây đã được khám phá ra dưới đáy một cái giếng cũ cùng với một chiếc nhẫn đã được xác định là vật bất ly thân của ông John Bellingham.

Căn nhà trong khu vườn có cái giếng này là tài sản của người bị giết hại, và khi ông ta mất tích, đây là nơi ở của người em trai là Godfrey Bellingham. Nhưng người này rời khỏi đó sau vụ mất tích không lâu, và cho tới giờ căn nhà bị bỏ hoang. Gần đây khi sửa sang lại nó, người ta mới hút cạn cái giếng để làm vệ sinh. Thám tử/Thanh tra Badger - người đang tiến hành tìm kiếm thêm các mảnh thi thể trong khu vực này, khi được tin cái giếng bị hút cạn đã tới và ngồi trong gàu thả dây xuống để khám xét dưới đáy. Tại đây ông ta tìm được ba mẫu xương và chiếc nhẫn.

Như vậy danh tính của thi thể đã được xác định chắc chắn, và giờ chỉ còn lại một câu hỏi mấu chốt: Ai đã giết John Bellingham? Hẳn bạn đọc còn nhớ món trang sức có lẽ bị gãy từ dây đeo đồng hồ của nạn nhân đã được tìm thấy trên khoảnh đất quanh ngôi nhà này vào ngày ông ta mất tích, từ đó vẫn chưa ai gặp ông ta còn sống. Thời gian rồi sẽ cho thấy tầm quan trọng của những chi tiết này.”

Mẩu tin đến đó là hết, nhưng cũng quá đủ. Tôi đánh rơi tờ báo xuống đất, lén liếc nhìn Jervis lúc này đang ngồi buồn bã ngắm hai mũi giày của mình. Thật khủng khiếp! Khó tin! Cú sốc quá mạnh khiến mọi giác quan của tôi đều tê dại, và trong một chốc tôi không tài nào suy nghĩ bình thường được.

Giọng nói của Thorndyke đánh thức tôi, nhẹ nhà nhàng, mực thước, bình tĩnh, “Đúng là thời gian sẽ trả lời! Nhưng trong khi đó chúng ta phải thật cẩn trọng. Dù gì cũng đừng lo lắng vô cớ, Berkeley à. Hãy về nhà đi, dùng một liều bromide và ít chất kích thích rồi đi nghỉ thôi. Tôi e rằng đây đúng là một cú sốc lớn đối với anh.”

Tôi đứng dậy khỏi ghế như người đang ngủ mê, đưa tay ra bắt tay Thorndyke. Thậm chí trong ánh sáng lờ mờ và tâm trạng rối loạn này, tôi vẫn nhận ra vẻ mặt mà mình chưa bao giờ nhìn thấy nơi ông, như chiếc mặt nạ bằng đá của Thần Số mệnh - nghiêm nghị, cứng rắn, không lay chuyển.

Hai người bạn đi cùng tôi tới cái cổng chào trên đường Inner Temple. Ở đó chúng tôi gặp một người lạ mặt đang hối hả đi cùng chiều, vượt lên phía trước. Dưới ánh sáng của cây đèn bên ngoài cửa của văn phòng, ông ta ngoái qua vai nhìn chúng tôi thật nhanh, và dù người đó vẫn đi tiếp mà không dừng lại chào hỏi gì, tôi nhận ra ngay với nỗi ngạc nhiên mà cả lúc đó lẫn bây giờ tôi đều không hiểu nổi. Chính là ông Jellicoe.

Tôi bắt tay hai người bạn của mình một lần nữa rồi rảo bước trên phố Fleet, nhưng chỉ vừa ra khỏi cổng, tôi nhằm thẳng khu Neville. Điều gì diễn ra trong tâm trí, tôi cũng không biết nữa, chỉ là một thứ bản năng bảo vệ đưa đẩy tôi đến đó, nơi cô gái mà tôi yêu vẫn chưa hề biết hiểm họa kinh khủng đang lơ lửng trên đầu mình. Khi tới lối vào, một người đàn ông cao lớn, vạm vỡ đang đứng tựa vào tường nhìn tôi với vẻ tò mò, nhưng tôi gần như không để ý thấy anh ta mà cứ thế bước vào lối đi hẹp. Tới cánh cổng tồi tàn của ngôi nhà, tôi dừng lại ngẩng lên nhìn các cửa sổ, bởi lẽ tôi có thể nhìn được qua bước tường bao. Tất cả đều tối om. Vậy là mọi người trong nhà đã đi ngủ hết. Trong lòng dâng lên cảm giác được an ủi mơ hồ, tôi bước ra đầu bên kia khu nhà giáp với phố New Street. Bên này cũng vậy, một người đàn ông cao to lực lưỡng đang lượn lờ, đôi mắt soi mói nhìn thẳng vào mặt tôi, trong khi đó tôi quay trở lại khu nhà một cách chậm rãi. Khi tới cổng, tôi dừng lại nhìn các cửa sổ, và lúc quay lại tôi thấy người đàn ông lúc này đã ở ngay phía sau mình. Trong khoảnh khắc đáng sợ, tôi chợt nhận ra, đó là hai cảnh sát mặc thường phục.

Trong một thoáng, cơn thịnh nộ mù quáng cuốn lấy tôi. Tôi cảm thấy một phản xạ điên rồ muốn chiến đấu chống lại kẻ xâm nhập này nhằm trả thù sự xúc phạm mà họ gây ra khi lảng vảng ở nơi đây. May thay đó chỉ là nhất thời, tôi đã kịp kiềm chế mà không biểu lộ gì ra bên ngoài. Nhưng sự xuất hiện của hai viên cảnh sát chứng ỏ mối hiểm họakia giờ đã trở thành sự thật kinh hoàng. Mồ hôi lạnh túa ra trên trán, tai ù lên, tôi loạng choạng rẽ vào đường Fetter.