← Quay lại trang sách

KẾT THÚC VỤ ÁN

KẾT THÚC VỤ ÁN

Sự im lặng tuyệt đối bao trùm lên căn phòng và mọi người. Ông Jellicoe ngồi đó, mắt nhìn chằm chằm xuống mặt bàn như thể đang chìm trong suy nghĩ, một tay kẹp điếu thuốc chưa châm lửa, tay kia cẩm cốc nước. Cuối cùng, thanh tra Badger sốt ruột ho lên một tiếng, thế là ông ta mới ngẩng lên, “Xin lỗi các quý ông.” Ông ta nói, “Tôi lại bắt mọi người phải chờ rồi.”

Ông ta uống một hớp nước, mở hộp diêm lấy ra một que, nhưng hình như lại đổi ý, đặt nó xuống và bắt đầu nói, “Vụ việc không may đã khiến các vị phải đến đây tối nay bắt nguồn từ mười năm trước. Hồi đó ông bạn Hurst của tôi bỗng gặp phải khó khăn về tiền bạc, tôi có đang nói nhanh quá không, ông Badger?”

“Không đâu.” Badger đáp, “Tôi đang viết bằng chữ tốc kí mà.”

“Cảm ơn.” Ông Jellicoe nói, “Ông ta gặp phải những khó khăn nghiêm trọng và tới gặp tôi nhờ giúp đỡ, hỏi vay năm nghìn bảng để trang trải nợ nần. Lúc ấy tôi cũng có đủ tiền, nhưng tôi thấy cho Hurst vay không đủ an toàn, vì thế buộc phải từ chối. Nhưng ngay ngày hôm sau, John Bellingham tới gặp tôi mang theo một bản nháp tờ di chúc mà ông ấy muốn tôi xem qua trước khi lập thành bản chính thức.

Đó là một di chúc ngớ ngẩn, tôi suýt nữa đã nói thẳng với ông ấy như thế, nhưng khi đó trong đều tôi chợt nảy ra một ý tưởng có liên quan tới Hurst. Chỉ mới nhìn qua bản di chúc tôi đã thấy ngay, rằng nếu điều kiện mai táng được giữ nguyên như hiện tại, Hurst có rất nhiều cơ hội được thừa kế tài sản, và vì tôi đã được ủy quyền làm người thực hiện di chúc, tôi có thể chi phối điều khoản này. Vậy là tôi xin vài ngày để xem xét bản di chúc, sau đó tôi mời Hurst tới rồi đưa ra đề nghị như thế này: Tôi sẽ ứng trước cho ông ta năm nghìn bảng mà không cần thế chấp gì cả, tôi cũng không yêu cầu ông ta phải trả lại cho tôi, nhưng phải nhượng lại cho tôi tất cả khoản lãi mà ông ta có thể sở hữu hoặc nhận được đối với tài sản của John Bellingham lên tới mười nghìn bảng, hoặc 2/3 bất kì khoản nào ông ta có thể được thừa kế nếu vượt quá con số đó. Ông ấy hỏi John đã ập di chúc chưa và tôi trả lời rằng ông ấy vẫn chưa lập, thực chất là đúng thế. Ông ta hỏi vặn xem liệu tôi có biết những điều khoản trong di chúc của John không, và một lần nữa tôi trả lời rất chính xác rằng tôi cho là John đang muốn để lại phần lớn gia tài cho em trai, Godfrey.

Vậy là Hurst chấp nhận đề nghị. Tôi đưa ông ta khoản tiền, còn ông ta thu xếp hết công việc. Sau vài ngày trì hoãn, tôi phê duyệt bản di chúc đó. Di chúc chính thức được viết dựa trên bản nháp của chính người lập di chúc, và hai tuần sau khi Hurst đã trả xong nợ nần, John kí bản di chúc tại văn phòng của tôi. Theo các điều khoản trong đó, tôi có cơ hội tuyệt vời để trở thành người thụ hưởng chính, trừ phi Godfrey tranh chấp với Hurst và tòa án không công nhận những điều kiện trong khoản hai.

Giờ thì các vị sẽ hiểu được động cơ dẫn tới những hành động tiếp theo của tôi. Và rồi ông cũng sẽ thấy, Tiến sĩ Thorndyke ạ, rằng những suy luận của ông đã gần với sự thật đến thế nào. Tôi mong ông hiểu rằng ông Hurst không liên quan gì tới tất cả những việc mà tôi sẽ thuật lại sau đây.

Nói tới cuộc nói chuyện ở Quảng trường Nữ hoàng vào tháng Mười năm 1902, các vị đã biết khái quát về nó dựa trên những chứng cứ tôi dưa ra trước tòa, vốn hoàn toàn chính xác cho tới một thời điểm nhất định. Cuộc nói chuyện diễn ra trong một căn phòng trên tầng ba, trong đó có để những hòm xiềng mà John mang về từ Ai Cập. Cái hòm xác ướp đã được để ra ngoài cùng những món đồ khác mà ông ta không định hiến tặng cho Viện bảo tàng, nhưng cũng vẫn còn nài hòm chưa mở. Khi cuộc nói chuyện kết thúc, tôi đi cùng Tiến sĩ Norbury xuống tới cửa ra vào dưới phố, đứng trên ngưỡng cửa chuyện trò chừng mười lăm phút. Sau đó Tiến sĩ Norbury rời đi còn tôi lên gác.

Căn nhà ở Quảng trườn Nữ hoàng thực chất là một Viện bào tàng, phần trên được ngăn cách với phần dưới bằng một cánh cửa rất lớn có khóa dưới hành lang, qua đó dẫn tới một cầu thang đi lên. Có hai chiếc hìa khóa, John giữ một chiếc còn tôi giữ chiếc còn lại. Các vị sẽ tìm thấy cả hai trong chiếc két đặt sau lưng tôi. Người giúp việc không có chìa khóa và không thể vào được phần bên trên của căn nhà trừ phi một trong hai chúng tôi dẫn lên.

Khi tôi vào nhà. Tiến sĩ Norbury đã rời đi, người giúp việc thì đang ở dưới tầng hầm, tôi có thể nghe thấy tiếng anh ta đập than cốc bỏ vào lò sưởi hơi nước. Lúc trước, tôi đã để mặc John một mình trên tầng ba tự mở các hòm xiềng dưới ánh đèn bằng một thứ công cụ hơi giống cái búa của thợ trát vữa, nghĩa là một cái búa gắn lưỡi rìu nhỏ ở đầu bên kia. Trong khi đứng nói chuyện với Tiến sĩ Norbury, tôi có thể nghe thấy tiếng ông ấy rút đinh và nạy những cái nắp lên, và khi bước vào cánh cửa dẫn tới cái cầu thang nọ, tôi vẫn còn nghe thấy tiếng ông ấy. Đúng lúc đóng cửa cầu thang lại, tôi nghe thấy một tiếng ‘rầm’ bên trên, sau đó mọi thứ lại im lặng.

Tôi lên cầu thang tới tầng hai. Vì chỗ cầu thang đó tối quá, tôi dừng lại thắp đèn. Khi xoay người chuẩn bị đi tiếp lên tầng trên, tôi thấy bóng một bàn tay in lên chỗ chiếu nghỉ. Tôi bèn chạy vụt lên, và ở đó, trên chiếu nghỉ, tôi nhìn thấy John nằm sông soài dưới chân bậc trên cùng. Một ít máu rỉ ra từ vết thương ở cạnh trên. Cái búa để mở hòm nằm trên sàn ngay cạnh ông ấy, trên lưỡi rìu có vết máu. Khi nhìn lên cầu thang, tôi thấy một mảnh thảm bị rách nằm ở bậc đầu tiên.

Khá là dễ dàng để hiểu điều gì đã xảy ra. Hẳn ông ấy đã đi quá nhanh xuống hành lang, tay vẫn cầm cái búa. Chân ông ấy bị vấp vào chỗ thảm rách và ông ấy đã lao đầu xuống cầu thang với cái búa trong tay. Ông ấy bị ngã ở tư thế khiến cho phần đầu đập vào lưỡi rìu chìa ra trên cái búa, sau đó lắn xuống còn chiếc búa thì rơi khỏi tay.

Tôi thắp một cây nên sáp rồi cúi nhìn ông ấy. Đầu ông ấy nằm ở một vị trí rất kì quặc khiến tôi ngờ rằng ông ấy bị gãy cổ. Vết thương chảy rất ít máu, ông ấy thì nằm không cựa quậy, tôi không thấy có dấu hiệu hô hấp, biết ông ấy đã chết.

Đó quả là một sự việc rất không may, ngay lúc đó, tôi nhận ra chuyện này đã đặt mình vào một tình thế vô cùng trớ trêu. Phản xạ đầu tiên của tôi là cử người giúp việc đi gọi bác sĩ và cảnh sát, nhưng sau khi suy nghĩ tôi thấy có những lí do rất nghiêm trọng khiến tôi không thể làm thế.

Chẳng có gì cho thấy tôi đã không tự mình dùng cái búa đánh chết ông ấy. Dĩ nhiên cũng chẳng có bằng chứng gì cho thấy tôi đã làm thế, nhưng tôi chỉ có một mình trong nhà nếu không tính đến người giúp việc khi đó đang ở tận dưới tầng hầm không nghe thấy gì cả.

Rồi sẽ có một cuộc hội thẩm. Tại đó người ta sẽ điều tra bản di chúc vốn được biết là có tồn tại. Nhưng ngay khi tôi đưa bản di chúc ta, Hurst sẽ bị nghi ngờ ngay. Ông ta có lẽ sẽ khai ra và tôi bị buộc tội giết người; hoặc thậm chí nếu tôi không bị buộc tội đi nữa, Hurst sẽ nghi ngờ tôi mà ăn quỵt, trong hoàn cảnh đó, tôi sẽ không thể nào thực thi được giao kèo nữa. Ông ta sẽ không chịu trả tiền, còn tôi thì không thể đưa chuyện đó ra tòa.

Tôi ngồi xuống bậc cầu thang ngay bên trên thi thể John và suy xét tỉ mỉ sự việc. Trong trường hợp xấu nhất, nhiều khả năng tôi sẽ bj treo cổ, còn không thì tôi cũng phải chịu thiệt gần năm mươi nghìn bảng. Cả hai khả năng này đều không dễ chịu chút nào.

Mặt khác, giả sử tôi giấu thi thể đi và loan tin John đã đi Paris, đương nhiên khi đó vẫn có nguy cơ bị phát hiện, và trong trường hợp này chắc chắn tôi sẽ bị buộc tội giết người, nhưng nếu không ai khám phá ra, tôi không những thoát tội mà còn đảm bảo được khoản tiền năm mươi nghìn bảng của mình. Cả hai phương án đều cực kì mạo hiểm, nhưng một đằng tôi phải chịu thiệt hại chắc chắn, còn một đằng ít ra vẫn có lợi về vật chất đề bù đắp rủi ro. Vấn đề là việc giấu cái xác có khả thi hay không. Nếu có, phần lợi nhuận cũng đáng để chịu thêm chút ít rủi ro nữa. Nhưng thi thể người là một thứ cực kì khó phi tang hoàn toàn, nhất là với một người có ít kiến thức khoa học như tôi.

Điều kì lạ là tôi đã phải cân nhắc vấn đề này rất lâu trước khi tìm ra giải pháp vốn rất hiển nhiên. Tôi lật đi lật lại ít nhất cả tá phương án phi tan cái xác, và phải loại bỏ hết vì quá phi thực tế. Rồi bất chợt tôi nhớ ra cái xác ướp ở tầng trên.

Trước tiên nó chỉ nảy ra trong đầu tôi như một phương án viển vông rằng tôi có thể giấu cái xác trong quách đựng xác ướp. Nhưng khi suy xét kỹ, tôi thấy nó lại rất khả thi, không những khả thi lại còn dễ dàng, và không những dễ dàng lại còn rất an toàn. Một khi cái quách đựng xác ướp này được chuyển đến Viện bảo tàng, tôi đã tống khứ được nó mãi mãi.

Các điều kiện, như ông đã nhận định rất chí lí, đều cực kì thuận lợi, không ồn ào, không vội vã, thừa mứa thời gian để thực hiện tất cả các bước chuẩn bị cần thiết. Cái quách đựng xác ướp cũng thích hợp một cách kì lạ. Chiều dài của nó rất thoải mái, như tôi được biết sau khi đo đạc. Nó được làm từ ván ép bằng vật liệu đàn hồi, chỗ phía sau buộc bằng dây để có thể mở ra dề dàng mà không làm hư hại. Tôi không cần đục khoét gì mà chỉ cần cắt cái dây này, vốn có thể thay thế được. Khi lấy xác ướp ra và đặt thi thể vào, tôi cũng có thể gây ra chút hư hại, nhưng những vết nứt ấy cũng chẳng lấy gì làm nghiêm trọng. Một lần nữa thần May mắn lại đứng về phía tôi. Toàn bộ mặt sau của cái quách được phủ một lớp bitumen, một khi đã đưa thi thể vào, sẽ rất dễ dàng để trát thêm một lớp mới không những che đi được những vết nứt mà còn cả sợi dây buộc mới.

Sau khi suy xét cẩn thận, tôi quyết định thực hiện phương án này. Tôi xuống nhà, sai người giúp việc đi làm mấy việc vặt ở tòa án, sau đó trở lại, mang người quá cố lên một trong những căn phòng trên tầng ba, tại đó tôi cởi quần áo ông ta, đặt vào một hòm đồ dài theo đúng tư thế mà ông ta sẽ nằm trong quách đựng xác ướp. Tôi gấp quần áo ông ta cẩn thận, rồi nhét hết, ngoại trừ đôi giày, vào cái vali mà ông ta định mang theo khi đi Paris vốn không chứa gì ngoài quần áo ngủ, đồ vệ sinh cá nhân và một bộ quần áo vải lanh. Khi người giúp việc trở về cũng là lúc tôi đã làm xong các việc này, tẩy sạch tấm giấy dầu trên cầu thang và hành lang. tôi báo cho anh ta biết ông Bellingham đã lên đường đi Paris, sau đó tôi về nhà. Phần trên của căn nhà, đương nhiên vẫn được khóa kín, nhưng ngoài ra để thêm phần chắc chắn, tôi cũng khóa cửa căn phòng đặt xác người quá cố.

Đương nhiên tôi cũng có chút hiểu biết về phương pháp ướp xác, nhưng chủ yếu là cách làm từ thời cổ. Vì thế ngay hôm sau, tôi tới thư viện của Viện bảo tàng Anh quốc để tham khảo những công trình nghiên cứu mới nhất về chủ để này, chúng quả là vô cùng thú vị khi chỉ ra những cải tiến mà kiến thức hiện đại đem tới cho môn nghệ thuật cổ xưa này. Tôi không muốn làm phiền các vị khi kể lễ những chi tiết mà mọi người đều đã biết. Quy trình mà tôi lựa chọn thuộc dạng đơn giản nhất cho dân mới vào nghề là tiêm formalin, và thế là từ Viện bảo tàng tôi lao đi mua những thứ cần thiết. Tuy thế tôi không mua loại ống tiêm dùng để ướp xác, cuốn sách khẳng định rằng một ống tiêm y tế thông thường có thể được sử dụng cho cùng mục đích, và tôi nghĩ đi mua thứ đó là kín đáo hơn.

Tôi e là mình đã tiêm thuốc vụng về khủng khiếp, dù trước đó đã nghiên cứu cẩn thận những hình vẽ trong một cuốn chuyên khảo về giải phẩu hình như là của Gray. Tuy nhiên, mặc dù tôi thực hiện có phần vụng về, hiệu quả vẫn khá tốt. Tôi là bước đó vào buổi tối của ngày thứ ba, và khi khóa cửa ra về đêm đó, tôi cảm thấy nhẹ nhõm hẳn khi biết rằng thi thể của John sẽ được bảo quản mà không bị mục nát hay thối rữa.

Nhưng như thế vẫn chưa đủ. Khối lượng lớn của một cơ thể đầy đủ da thịt so với một xác ướp sẽ ngay lập tức bị phát hiện bởi những người vận chuyển cái quách. Hơn nữa, hơi ấm r trong cái xác sẽ nhanh chóng làm hỏng lớp ván ép và tạo ra một lớp hơi nước trong tủ kính trưng bày. Việc này sẽ dẫn tới những cuộc kiểm tra. Rõ ràng thi thể của người chết phải được làm khô triệt để trước khi bọc kín trong lớp vỏ.

Ở đây sự thiếu hụt kiến thức khoa học của tôi đúng là một nhược điểm lớn. Tôi không biết làm thế nào để đạt được kết quả này, và cuối cùng buộc phải tới hỏi một người chuyên nhồi xác động vật bằng cách nói rằng tôi muốn sưu tập vài mẫu động vật nhỏ và bò sát, chúng phải được làm khô để vận chuyển cho thuận tiện. Người này khuyên tôi ngâm xác các con vật vào một hũ rượu cồn một tuần sau đó phơi ra không khí ẩm và khô.

Nhưng phương án ngâm thi thể của người quá cố vào một hũ rượu cồn rõ ràng là phi thực tế. Đúng lúc này tôi nhớ ra trong bộ sưu tập của chúng tôi có một chiếc quách bằng pocfia được khoét rỗng bên trong để đựng một xác ướp nhỏ. Tôi thử đặt thi thể vào cái quách và thấy vẫn còn khá rộng rãi. Tôi bèn mua vài gallon rượu cồn, sau đó đổ vào vừa đủ phủ kín cả thi thể, rồi đóng nắp, gắn bả matit cho kín khí. Tôi không khiến các vị thấy nhàm chán vì những chi tiết vụn vặt này chứ?”

“Tôi yêu cầu ông phải tóm tắt càng ngắn gọn càng tốt, ông Jellicoe ạ.” Badger gắt, “Chúng ta đã ngồi đây huyên thuyên lâu quá rồi.”

“Về phần tôi…” Thorndyke nói, “Tôi thấy những chi tiết này cực kì thú vị và bổ ích. Chúng lấp đầy dàn ý chung mà tôi đã suy luận ra.”

“Chính xác.” Ông Jellicoe nói, “Vậy thì tôi sẽ kể tiếp.”

Tôi ngâm thi thể người quá cố trong rượu hai tuần, sau đó lấy nó ra, lau khô, rồi đặt trên bốn chiếc ghế mây hơ trên đường ông nước nóng, tôi cũng để không khí lưu thông liên tục trong phòng. Kết quả khiến tôi thực sự thích thú. Hết ngày thứ ba, bàn tay và chân đã gần như khô hẳn, nhăn nheo và xương xẩu, vậy nên cái nhẫn đã rơi ra khỏi ngón tay quắt queo, cái mũi hệt như một miếng da khô, trong khi bề mặt da trên cả cơ thể đã khô và mịn đến nỗi ta có thể viết cả một hợp đồng cho thuê lên đó. Trong một hai ngày đầu thỉnh thoảng tôi lại lật cái xác cho khô đều, và sau đó chuẩn bị sẵn sàng cái quách. Tôi tháo dây rồi lấy cái xác ướp ra thật cẩn thận, ý tôi là cẩn thận với cái quách, còn cái xác ướp thì bị hư hại lúc lấy ra. Nó được ướp rất kém, và giòn đến nỗi khi tôi lấy ra nó bị gãy xương mấy chỗ, sau đó tôi tháo vải, thì cái đầu cùng hai cánh tay rời hẳn ra.

Tới ngày thứ sáu sáu khi lấy thi thể ra khỏi quách, tôi lấy những băng vải từ xác ướp của Sobekhotep và cẩn thận dùng chúng bọc thi thể người quá cố, thoa thật nhiều chất nhựa thơm và nhựa benzoin lên cái xác cũng như giữa các nếp vải nhằm át đi mùi rượu thoang thoảng lẫn mùi formalin. Khi đã quấn xong, thi thể người quá cố nhìn y như xác ướp thật, đến nỗi nếu cứ thế đặt ông ta vào tủ trưng bày cũng khá đẹp thậm chí ngay cả khi không nằm trong quách. Còn tôi cảm thấy gần như tiếc nuối phải tống khứ ông ta mãi mãi.

Nhét ông ta vào quách quả là khó khăn khi không có người giúp đỡ, tôi đã làm phần ván ép bị nứt nghiêm trọng ở một vài chỗ trước khi cái xác nằm yên ổn trong đó. Nhưng cuối cùng tôi cũng nhét ông ta vào được. Sau khi đã buộc lại cái quách bằng dây mới, tôi bôi một lớp bitumen để che đi các vết nứt và đoạn dây. Tôi dùng một cái giẻ bẩn thỉu chấm chấm lên lớp bitumen sau khi nó đã khô để người ta không nhận ra nó còn mới, và vậy là cái quách cùng chủ nhân mới của nó đã sẵn sàng để được chuyển đi. tôi thông báo với Tiến sĩ Norbury và năm ngày sau ông ta tới đem nó về Viện bảo tàng.

Giờ khó khăn lớn nhất đã được giải quyết, tôi bắt đầu suy tính những khó khăn tiếp theo mà ông đã giải thích một cách dễ hiểu đáng ngưỡng mộ. John Bellingham cần phải xuất hiện một lần nữa trước mặt mọi người trước khi biến mất hẳn.

Vậy là tôi nghĩ ra việc tới thăm nhà Hurst, trò này được tính toán kĩ nhằm thực hiện hai mục đích. Nó xác định ngày tháng phù hợp cho vụ mất tích, khiến tôi không còn dính dáng gì nữa, và khi dồn bớt những nghi vấn lên Hurst, điều đó sẽ khiến ông ta trở nên dễ bảo hơn, ít có khả năng tranh chấp với tôi khi biết được các điều khoản trong di chúc.

Việc này khá đơn giản. Tôi biết Hurst đã thay những người hầu phòng mới kể từ lần trước tôi tới thăm nhà ông ta, và tôi cũng biết rõ những thói quen của ông ta. Ngày hôm đó tôi đem cái vali tới Charing Cross và để nó lại trong phòng giữ đồ, tạt qua văn phòng Hurst để đảm bào ông ta vẫn ở đó, sau đó đi thẳng tới phố Cannon và bắt tàu đi Eltham. Khi đến ngôi nhà, tôi cẩn thận tháo kính là đồ vật đặc trưng duy nhất cho vẻ ngoài của tôi ra, được dẫn ngay vào thư phòng theo đúng yêu cầu. Ngay khi người giúp việc rời khỏi phòng, tôi nhẹ nhàng chui ra khỏi cái cửa sổ kiểu Pháp, sau đó đóng lại nhưng không gài chốt được, đi ra cánh cổng bên hông rồi đóng lại, dùng dao bỏ túi giữ cái chốt để khỏi cần sập mạnh mới khóa được.

Các sự việc khác trong ngày hôm đó, kể cả việc bỏ con bọ hung, tôi thấy không cần nhắc lại nữa vì các vị đã biết cả rồi. Nhưng tôi muốn đưa ra một vài nhận xét đúng đắn về sai lầm chiến lược mà tôi đã phạm phải liên quan tới những mẩu xương. Sai lầm đó xảy ra như các vị hẳn đã biết, từ cái thói quen khó chữa của giới luật sư là đánh giá thấp đám chuyên gia nghiên cứu. Tôi không hề ý thức được những mẩu xương vớ vẩn ấy lại có thể đem lại nhiều chứng cứ đến vậy cho một người có kiến thức về khoa học.

Chuyện đó xảy ra thế này: Cái xác ướp đã bị hư hại của Sibekhotep tan rã rất nhanh trong không khí, nó không chỉ khiến tôi ngứa mắt mà còn là một mối hiểm họa rành rành. Đó là sợi dây duy nhất còn lại kết nối tôi với vụ mất tích. Tôi quyết tâm tống khứ nó và bắt đầu tính đến cách tiêu hủy. Nhưng đúng lúc ấy, trong một khoảnh khắc xấu xa, tôi nảy ra ý định sử dụng nó.

Rõ ranfng có nguy cơ tòa án không chịu công nhận cái chết sau một khoảng thời gian ngắn đến thế, và nếu sự phê chuẩn này bị trì hoãn, bản di chúc sẽ không bao giờ có thể được thực hiện trong suốt quãng đời còn lại của tôi. Vì thế, nếu có thể sử dụng những mảnh xương của Sobekhotep để làm giả thi thể của người lập di chúc đã quá cố, rõ ràng khi ấy sẽ rất tốt cho tôi. Nhưng tôi biết nếu thu thập được cả bộ xương người ta không đời nào nhầm lẫn được. Người quá cố có lần bị vỡ xương bánh chè và chấn thương mắt cá, các chấn thương mà tôi cho là sẽ để lại những dấu vết vĩnh viễn. Nhưng tôi thấy nếu những mẩu xương được lựa chọn một cách khôn ngoan từ trước, sau đó bỏ ở những nơi thích hợp, cùng với vài đồ vật rõ ràng có thể được nhận diện là của người chết, khi ấy mọi khó khăn sẽ được giải quyết ổn thỏa. Tôi không muốn kể lể quá chi tiết. Thủ đoạn của tôi các vị đều đã biết kèm theo mọi chi tiết liên quan, ngay cả chuyện cái tay vô tình bị rời ra khi tôi nhét vào túi xách nữa. Tuy đó là một việc làm sai lầm, lẽ ra nó đã có thể thành công nếu không do một rủi ro không thể tiên đoán trước là ông sẽ tham gia điều tra vụ án.

Vì thế trong gần hai năm, tôi được tuyệt đối an toàn. Thỉnh thoảng tôi lại đến Viện bảo tàng để kiểm tra xem người quá cố có được bảo quản trong môi trường ổn định hay không, và trong những dịp đó, tôi thường sung sướng nghĩ tới điều tuyệt vời dù là chẳng may, rằng tâm nguyện của ông ta được viết ra (một cách rất không hoàn hảo) ở khoản hai, nay đã được hoàn toàn thỏa mãn. Tôi nói vậy không phải vì mình được hưởng lợi từ chuyện đó.

Tôi chỉ bừng tỉnh buổi tối hôm ấy, khi nhìn thấy ông đang nói chuyện với bác sĩ Berkeley ở cổng khu Temple, ngay lập tức tôi ngờ rằng có chuyện gì đó không ổn và giờ đã quá muộn để làm gì được nữa. Từ đó tới nay tôi vẫn chờ cuộc viếng thăm này từng giờ, và giờ thì nó đã tới. Ông đã chiến thắng còn tôi sẽ trả giá đúng như một con bạc sòng phẳng.”

Ông ta dừng lại, lặng lẽ châm điếu thuốc. Thanh tra Badger ngáp dài ồi cất cuốn sổ tay.

“Ông nói xong chưa, Ông Jellicoe?” Viên thanh tra hỏi,: Tôi muốn thực hiện giao kèo của mình chuẩn từng chữ, ông biết đấy, dù bây giờ đã muốn quá mức cho phép.”

Ông Jellicoe rút điếu thuốc khỏi miệng rồi uống một cốc nước.

“Tôi quên chưa hỏi…” Ông ta nói, “Các ông đã tháo vải cái xác ướp chưa - nếu tôi có thể dùng từ đó để nói về thi thể được xử lí không lấy gì làm hoàn hảo của thân chủ quá cố của tôi.”

“Tôi chưa mở quách đựng xác ướp.” Thorndyke trả lời.

“Không à?” Ông Jellicoe thốt lên, “Vậy làm thế nào ông xác minh được những nghi vấn của mình?”

“Tôi đã chụp ảnh bằng tia X.”

“À! Phải rồi!” Ông Jellicoe trầm ngâm một thoáng, “Đúng là đáng kinh ngach!” Ông ta lẩm bẩm, “Và cực kì tài tình. Khoa học thời nay đúng là kì diệu.”

“Ông còn muốn nói gì nữa không?” Badger hỏi, “Vì nếu không, chúng ta hết thời gian rồi.”

“Còn gì nữa không à?” Ông Jellicoe chậm rãi nhắc lại, “Còn gì nữa không? Không, tôi… cho… cho… là… hết… thời… gian… rồi. Phải… thời… thời… gian…”

Ông ta đột ngột nói và nhìn Thorndyke bằng ánh mắt quái lạ.

Khuôn mặt ông ta chợt biến đổi không ngờ. Nó nhăn nhúm và tái nhợt như xác chết, môi đỏ ửng một cách dị thường như màu quả anh đào.

“Có chuyện gì thế, ông Jellicoe?” Badger lo lắng hỏi, “Ông thấy khó chịu à?”

Ông Jellicoe dường như không nghe thấy câu hỏi, bởi lẽ ông ta chẳng hề đáp lại mà ngồi im như phỗng, ngã người ra ghế, hai bàn tay xòe ra trên mặt bàn, cái nhìn chằm chằm kì lạ dán chặt vào Thorndyke.

Đột nhiên đầu ông ta gục xuống, cơ thể lả đi. chúng tôi cùng đứng bật dậy còn ông ta trượt ra khỏi ghế xuống gầm bàn.

“Lạy Chúa! Ông ta ngất rồi!” Badger kêu lên.

Ông ta ngay lập tức bò xuống gầm bàn, người run lên vì kích động, tay mò mẫm. Sau đó viên thanh tra lôi ông luật sư đã bất tỉnh ra ánh sáng, quỳ gối nhìn xuống mặt ông ta.

“Ông ta bị sao thế, Tiến sĩ?” Ông ta hỏi, ngước lên nhìn Thorndyke, “Nhồi máu? Hay là đau tim?”

Thorndyke lắc đầu dù vẫn cúi xuống chạm vào cổ tay viên luật sư.

“Nhìn bề ngoài thì có lẽ là acid cyanhyric hoặc kali cyanide.” Ông đáp.

“Ông không thể làm gì được nữa hay sao?” Viên thanh tra hỏi.

Thorndyke buông cánh ta người kia ra, nó rơi phịch xuống sàn.

“Chúng ta chẳng thể làm được gì nhiều cho một người đã chết.” Ông nói.

“Chết…? Vậy là cuối cùng lão ấy cũng vuột khỏi tay chúng ta!”

“Ông ta đã đoán trước được kết cục. Thế thôi.” Thordyke nói với giọng đều đều, bình thản mà tôi thấy khá kì lạ, nhất là khi so sánh tấn bi kịch đột ngột với vẻ hoàn toàn không lấy gì làm ngạc nhiên của ông. Hình như ông coi sự việc này cực kì tự nhiên.

Với thanh tra Badger thì ngược lại, ông ta đứng dậy, hai tay đút túi, cau có, sưng sỉa nhìn ông luật sư đã chết.

“Tôi thật là một thằng ngu khi đồng ý với những điều kiện khốn nạn ấy.” Ông ta gầm lên giận dữ.

“Không.” Thorndyke nói, “Nếu phá cửa xông vào, ông sẽ chỉ tìm thấy một người đã chết mà thôi. Trong khi vừa rồi ông đã gặp một người còn sống và thu thập được những lời khai quan trọng. Ông đã hành động rất đúng đắn đấy.”

“Ông nghĩ lão ta đã tự sát bằng cách nào?” Badger hỏi.

Thorndyke chỉ tay:

“Hãy cùng xem hộp thuốc lá của ông ta.” Ông nói.

Badger lấy cái hộp bạc khỏi túi của người chết và mở nó ra. Trong đó có năm điếu thuốc, hai điếu trơn, ba điếu còn lại có đầu vàng. Thorndyke lấy mỗi loại một điếu, nhẹ nhàng cấu phần đầu. Điếu thuốc có đầu màu vàng ông để lại chỗ cũ, điếu trơn thì ông xé ra khoảng một phần tư inch, khiến hai viên thuốc nhỏ màu đen rơi xuống bàn. Badger nóng nảy chộp lấy một viên lên chuẩn bị ngửi thì Thorndyke túm lấy cổ tay ông ta, “Cẩn thận đấy!” Ông ta nói, và sau khi đã cẩn trọng ngửi viên thuốc ở khoảng cách an toàn, ông nói thêm, “Đúng là kali cyanide. Tôi đã đoán thế khi môi ông ta chuyển sang màu khác thường này. Nó nằm trong điếu thuốc cuối cùng, ông có thể thấy ông ta đã cắn mất phần đầu.”

Trong một lúc, chúng tôi lẳng lặng đứng nhìn thi thể im lìm sống soài trên sàn. Cuối cùng, Badger ngẩng lên.

“Lúc đi qua phòng người gác cổng trên đường ra ngoài…” Ông ta nói, “Phiền ông vào đó bảo ông ấy đi gọi một cảnh sát đến đây cho tôi.”

“Được thôi.” Thorndyke nói, “Tiện thể, Badger này, ông nên đổ lại chỗ rượu sherry đó vào bình và cất cẩn thận, bằng không thì đổ ra cửa sổ đi.”

“Ái chà, phải rồi!” Viên thanh tra thốt lên, “Tôi rất vui vì ông đã nhắc đến nó đấy. Suýt nữa thì chúng ta đã có một buổi hội thẩm về cái chết của ông luật sư cùng một viên thanh tra nữa. Tạm biệt các quý ông, chúng ta về thôi.”

Chúng tôi bước ra ngoài và để mặc viên thanh tra với tù nhân của mình, đúng là không chống cự gì cả, như lời hứa mơ hồ của Jellicoe. Ra tới cổng, Thorndyke chuyển lời yêu cầu của viên thanh tra một cách ngắn gọn mà không bình luận gì thêm tới người gác cổng đang há hốc miệng, và rồi chúng tôi bước ra đường Chancery.

Tất cả chúng tôi đều im lặng và nghiêm trang, tôi thấy Thorndyke hình như cũng hơi cảm động. Có lẽ cái nhìn chằm chằm cuối cùng của ông Jellicoe - thứ mà tôi đoán là cái nhìn của một người đang hấp hối - cứ ám ảnh mãi trong tâm trí ông cũng giống như tôi. Đi được nửa đường Chancery, lần đầu tiên ông cất lời, và cũng chỉ thốt ra một câu, “Con quỷ tội nghiệp!”

Jervis tiếp lời, “Một con quỷ quá đỗi tàn ác, nhỉ Tiến sĩ Thorndyke?”

“Không phải.” Thordndyke đáp, “Tôi thấy đúng hơn, ông ta là một kẻ vô đạo đức. Ông ta đã hành động không vì dã tâm, thế nhưng cũng chẳng ngại ngùng, dằn vặt gì cả. Những thủ đoạn của ông ta phát huy hiệu quả đến mức lạnh lùng, điều này cực kì đáng sợ bởi lẽ nó chẳng còn chút gì là nhân tính. Nhưng đó là một người đàn ông mạnh mẽ, một người dũng cảm, bình tĩnh, và tôi có lẽ sẽ hài lòng hơn nếu một bàn tay nào khác chứ không phải tôi đâm nhát chí mạng.”

Sự hối tiếc của Thorndyke có vẻ lạnh lifng và mâu thuẫn, nhưng những cảm xúc của ông cũng giống hệt như tôi vậy. Tuy nỗi thống khổ và đau đớn mà người đàn ông xảo quyệt này gây ra cho những người tôi yêu thương là quá lớn, tôi vẫn chọn tha thứ cho ông ta, và cùng với cái chết của ông ta, tôi quên đi sự tàn nhẫn mà con người này đã thực hiện ý đồ xấu xa của mình, bởi lẽ chính ông là người đã đưa Ruth vào cuộc đời tôi, người đã mở cánh cửa thiên đường tình yêu mà tôi vừa bước qua. Dòng suy nghĩ của tôi rời khỏi cái xác chết bất động trên sàn căn phòng cổ kính ở Lincoln’s Inn, trở lại với viễn cảnh ngập nắng của tương lai mà ở đó tôi và Ruth sẽ đi bên nhay, tay trong tay, cho tới khi thời khắc ấy cũng đến với tôi, cho tới khi tôi cũng giống như ông luật sư lầm lì nọ, phải nghe tiếng chuông nguyện trang nghiêm ban đêm tiễn đưa hồn người đã khuất vang trong bóng tối của đại dương im lìm.

HẾT