Trường học rừng xanh
Hai cụ Charles đã trở về Pháp. Đó là một giai đoạn thời niên thiếu của tôi đã chấm dứt. Tôi không biết nói sao, khi tìm thấy ở hai cụ một mối tình thân và sự trợ giúp đầy tin cậy. Trước khi hai cụ đi, tôi có nói chuyện lần cuối cùng với cụ Charles.
- Bác có nói là cha tôi đã rất thất vọng khi sang Pháp năm 1922. Bây giờ, sau 18 tháng ở ngôi vua, tôi cũng cảm thấy y như vậy. Qua các câu chuyện ở Paris cha tôi có ao ước được trở về điểm chính thức của hiệp ước bảo hộ. Phần tôi, tôi tưởng rằng đã đạt được phần nào những cải cách đưa đến mục đích ấy. Tất cả đều là hão huyền, vô ích. Tôi nghĩ rằng các nhà ái quốc Việt Nam họ đã có lý. Không phải chỉ riêng mình tôi nghĩ vậy, mà ngày còn ở Pháp, nhiều người cũng đã nghĩ vậy. Tôi đã đọc gần đây câu này của André Malraux: “Thật khó mà có thể chấp nhận một người Việt Nam là can đảm, nếu người ấy không phải là nhà cách mạng...”
- Đừng nên nghĩ theo chiều hướng đó. Chính lão vẫn thường bảo rằng, vấn đề chỉ là sự mở mang xứ sở. Đó cũng là ý kiến của phụ hoàng thái tử. Hãy lấy gương nước Nhật…
- Nhưng Nhật là nước độc lập. Nhờ ở độc lập, mà Nhật mới có thể đưa nưởc họ lên đà tiến bộ được. Và ngày nay, họ đã có thể cạnh tranh với tất cả mọi cường quốc kỹ nghệ khác.
- Vấn đề chính không phải là như thế. Hãy nhìn xung quanh thái tử. Tất cả cho thấy sự cố gắng của Pháp. Trước hết, Pháp đã đem đến đây sự an ninh cho người và đồng bào của thái tử, từng sống trước đây trong loạn lạc, bất ổn, hẳn đánh giá đúng cái hạnh lạc của thái bình này. Thái tử lại thấy sự mở mang về y tế, các tình trạng tốt đẹp về vệ sinh, cái mức độ về nạn hữu sinh vô dưỡng, nơi đây thấp nhất toàn Viễn Đông. Rồi về học vấn, mở mang trường học, nếu mới đặt cho một phần rất nhỏ dân chúng, thì cũng đã mở ra một khung trời mới cho lớp thanh niên trí thức đang lên…
- Tất nhiên là đúng nhưng cũng không phải là sai, chính cái lớp thanh niên trí thức mà nước Pháp đào tạo nên này, đã không chịu noi theo lề lối cũ, và như người ta đã nói với tôi, là họ vẫn tăng cường theo bọn cách mạng, để hoạt động ở khắp mọi nơi rất quyết liệt. Tôi nghĩ rằng, cái kinh nghiệm mà tôi vừa thực hiện với Ngô Đình Diệm có thể dùng để kết luận được.
- Đó chỉ là một hình thức khủng hoảng của tuổi trẻ. Đường đi của Việt Nam còn phải đứng theo Pháp. Khi mà bọn trẻ hăng say đó hiểu được sự vô ích của đường lối không tưởng của họ, thì họ sẽ quay lại để hợp tác với thái tử, hầu tạo nên lớp người mới mà chúng ta cần đến để xây đựng đất nước. Họ sẽ không đổ xô vào Đại học Luật khoa mà chuyên sang các ngành chuyên môn khác. Đất nước không cần nhiều luật sư bằng các thầy thuốc và các kỹ sư. Và chúng ta còn mong trông thấy những thanh niên Việt Nam hoạt động trọng lãnh vực kỹ nghệ và kinh tế. Bởi vì nhờ ở lãnh vực này, mới thấy sự khai thác các nguồn nguyên liệu thiên nhiên đầy rẫy. Kết quả sẽ vô cùng sáng lạn: gạo, cao su, trà, các mỏ than Hongay, nhà máy dệt Nam Định, nhà máy xi-măng Hải Phòng… Đó mới là sự thật.
- Vâng, chính phủ Pháp đã cho tôi trông thấy những cái đó, trong dịp ra thăm Bắc kỳ năm ngoái. Nhưng tôi cũng trông thấy trong dịp đi thăm thú một mình, là cuộc sống của đại chúng rất thấp hèn, khổ ải. Người nông dân, mà nông dân là quảng đại quần chúng của đất nước, chỉ vừa đủ sống cho qua ngày đoạn tháng và chỉ tạm cầm hơi cho ngày hôm nay, với những nhu cầu tối thiểu mà thôi. Nếu mùa màng mà mất, nếu người ấy đau yếu, hay gặp tai nạn gì, nếu phải đương đầu với một sự chi tiêu bất chợt, thì đó là một tai vạ, và thường thường là sự đau khổ, không lối thoát…
- Paris không phải lập nên trong một ngày. Hãy kiên nhẫn, và đừng nản lòng. Thái tử có nhiều bạn ở Pháp, họ sẽ không bỏ Thái tử… Nhất là đừng chạy theo sự nôn nóng, nông nổi. Nước Việt Nam đang đi đúng đường của nó, nhưng cần nhất phải tránh cho nó những xáo trộn nặng nề. Tất cả những gì mà nước Pháp đã làm cho Việt Nam hãy còn mảnh dẻ. Thời gian sẽ đến với chúng ta. Những người có trách nhiệm ở đây, nhân danh nước Pháp, như ông Varme, ông Pasquier đều nghĩ như lão. Hãy tin cậy nơi họ…
Cụ Charles đi rồi, tôi thường nhớ lại lời đối thoại này.
Cụ trợ giáo này đã rất thành thực. Những cố gắng của cụ để bào chữa cho nưởc Pháp quả đã lâm li cảm động.
Nhưng không phải là nước Pháp là nguyên nhân, nước Pháp mà tôi biết khi còn ờ Paris, nước Pháp mà tôi từng sống mười năm ở đấy, như một đứa con. Không, cái nguyên nhân này chính là cải xã hội thuộc địa, cái gọi là cơ sở hành chánh cầm quyền cai trị ở đây, mà chính các cấp chỉ huy thượng thặng của Pháp cử đến cũng phải gầm ghè, tức đến sùi bọt mép. Như một tên nào trong cái xã hội thuộc địa này chẳng đã vỗ ngực xưng là chỉ cần hất cái tay, là bay ngay viên toàn quyền này, hay viên toàn quyền khác? Chính bọn đó họ chẳng muốn chấp nhận một phương pháp nào, nếu đụng đến quyền lợi của họ. Mặt khác, phía chính phủ cũng rất sợ sự tiến bộ, nên hoan hỉ trong sự tà tà, mà không muốn có sự thay đổi tiến bộ nào. Đối với bọn này cứ giữ nguyên tình trạng cổ lỗ là hơn cả. Vì vậy nó làm trì hoãn mọi ý đồ giải tỏa, để giữ mãi trong gọng kìm kẹp của họ.
Nếu tôi ngoan ngoãn để mặc, thì tôi rất có ích cho chứng, và cần thiết nữa. Tôi đóng vai trò bình phong, làm phỗng đá, để cho các cơ quan cai trị của họ tha hồ làm mưa làm gió. Họ cũng cần đặt ở các địa vị then chốt, những bọn tay sai dễ bảo, bọn trung thành tuyệt đối. Tôi biết rõ, khi tôi đặt vào vị trí quan trọng, người như Ngô Đình Diệm, họ cũng mặc. Nhưng họ lại đặt cạnh tôi Phạm Quỳnh, như vậy là họ đã được bảo đảm rồi.
Dù sao nữa, có một sự nhất định: các tự do chính trị trên thực tế hoàn toàn không có. Chẳng cho phép bất cứ cái gì, không có tự do trò chuyện, không có tự do ngôn luận, không có tự do hội họp, và cũng không cả tự dò đi lại. Đố ai nói được với tôi rằng điều đó tương đồng với tinh thần dân chủ của nước Pháp. Và cũng chẳng có cái gì tin tưởng được, qua những lời tuyên bố chính thức là sẽ có tháy đổi, do một hoàn cảnh tạm thời nào. Chẳng có chương trình gì, không cả thời hạn, hay thời gian nào được nêu lên rõ ràng. Người ta bịt mắt chúng tôi, không có biết đến số phận của chúng tôi, hay tương lai của chúng tôi. Hội đồng cải cách, sau khi Ngô Đình Diệm đi rồi, đã hoãn lại chưa biết tổi bao giờ tắt ngấm?
Còn về những kết quả đạt được về kinh tế mà người ta thường khoe khoang, sự thật thì ra sao? Phần lớn cái kết quả của sự mở mang ấy, có đến được tay đại chúng hay không?
Đó, bằng vào tất cả những thứ đó, đó là những điều tốt đẹp của chính sách thuộc địa là như vậy.
Thực sự, đúng như Phạm Quỳnh viết vào năm 1922: Người Việt Nam ở nước mình mà sống y như người ngoại quốc.
Phải thế chăng, đúng như cảm nghĩ của tôi khi ra thăm Bắc hà trước đây. Tôi là vị vua ngoại quốc đang sang thăm chính thức một nước thân hữu nào xa lạ, không phải nước mình.
Vậy thì, họ đã đặt tôi vào địa vị trớ trêu này, tôi hãy đành tâm sống như một vì vua ngoại quốc vậy. Hoàng đế bị đi đày - y như các tiên đế của tôi trước đây - nhưng là đi đày ngay trong nước mình, giữa thần dân của mình. Tôi sẽ không dự bất cứ một cuộc biểu dương nào do chính phủ Pháp tổ chức. Tôi đành tạm chỉ đóng cái vai mà người ta không thể tước bỏ được, và bất cứ ai cũng không thể thay thế tôi được, đó là vai đại chủ tế, đôi với dân tộc tôi mà tôi cần chiếu cố đến họ hoàn toàn.
Chính vì dân tộc tôi, mà tôi không được phép từ chối, và không được phép bỏ họ để đi xa. Một ngày kia, có lẽ nưởc Pháp, nưức Pháp chính thức, sẽ hiểu thái độ của tôi. Một ngày kia, có lẽ, khi thờỉ gian đến, sẽ có cơ hội đến theo.
Lúc ấy, tôi đã sẵn sàng, đứng đầu dân tộc tôi, để đem lại độc lập, thống nhất và sự huy hoàng.
Tất nhiên là nhiệm vụ làm chủ lễ nghi không phải choán hết thời giờ của tôi. Ngoài mấy việc phong thần cho các làng muốn thờ cứng một vị thành hoàng, tôi còn nhiều giờ rảnh để hoạt động về thể thao.
Đầu tiên là chơi quần vợt. Chẳng những tôi chỉ có chơi cho cá nhân tôi, mà còn khuyến khích thành phong trào ở Việt Nam. Vì vậy, tôi đặt ra một “cúp” mang tên tôi. Cúp này theo thể lệ như cúp Davis, và được thực hiện chẳng phải chỉ có ở Trung kỳ, mà còn ở Bắc kỳ và Nam kỳ, và thêm cả Lào và Miên nữa.
Từng cưỡi ngựa thường xuyên khi còn học ở trường võ bị ở Paris, tôi cho đem về Huế vài con ngựa nòi, tạo nên một chuồng ngựa khá đặc biệt.
Tùy từng mùa, tôi cũng chơi khúc côn cầu (golf). Cạnh kinh thành Huế, giữa những đồi cỏ êm đềm, tôi cho lập một sân golf, không khác gì các sân golf trứ danh ở Âu châu, để thường xuyên tập dượt.
Trong những mùa nắng, tôi chơi thuyền buồm, hay xuồng máy. Ở Nha Trang nhất là ở Qui Nhơn, tôi có một biệt thự, tôi và hoàng hậu thường ra nghỉ hè ở đây, tôi thường lái thuyền trên sông Hương, khi tôi ở Huế. Rất thường, tôi vẫn đi xa như thế, và chỉ đến đêm khuya mới trở về.
Trong các cuộc đi dạo ấy, chính sự cô đơn là điều thích hợp với tâm hồn hiu quạnh cúa tôi. Chắc hẳn có người cho rằng, dó chỉ là sự phù phiếm không ích lợi gì cho nước, cho dân? Tất nhiên là không cần thiết, và cũng không có ích gì cho chính hoàng đế, phải tỏ sự có mặt để cai trị. Tôi cũng không rõ vị tiên đế sau khi làm việc cho dân kín đáo ở cung điện, đã chết bí mật trong một cuộc tuần du nào đó. Sau đó được rưởc xác về, như là vẫn còn sống, và mãi về sau này ta mới công bố cho dân biết.
Như vậy thì cần gì vua phải có mặt để người dân biết rằng vẫn được đặt dưới triều đại của người. Chỉ cần, thỉnh thoảng, trong một cuộc tiếp tân hay thiết triều nào, nhà vua xuất hiện một lần là đủ. Tất cả những ai cầm quyền cai trị ở Đông phương chúng tôi, đều làm như vậy cả. Nhà vua, nếu kiêm chức đại tư tế, tức người đứng trung gian giữa đấng Ngọc hoàng Thượng đế vối dân gian, chính là người có mang tính chất nhiệm mầu của đời sống của họ, trước tương lai. Như vậy, vua cần phải tự tạo cho mình cái bản chất thái bình an lạc, nếu muốn đem đến thái bình an lạc cho dân. Chỉ trong sự thanh bình, trầm mặc và cô đơn, nhà vua mới đạt tới mức độ tuyệt vời này, trong đạo trị quốc an thiên hạ của vì chân mạng đế vương.
Chính vì thế mà tôi yêu rừng núi. Rừng đem lại sự tịch mịch cần thiết. Rừng gột rửa cho tôi mọi xiu tư của cõi bụi trần này. Vào rừng, tôi như người được tắm gội suổì nước trong mát, làm cho vô cùng sảng khoái. Gặp gỡ giữa rừng sâu, những con người cổ lỗ xa xưa, cũng như các sơn lâm ác thú, chẳng những là sự giải tỏa mọi điều tù hãm, mà còn là hoạt động trong nhiệm vụ của tôi. Ở rừng sâu, tôi vẫn là thiên tử y như đang ở trên đàn tế Nam Giao, đảm trách nghi lễ thiêng liêng của mình. Khu săn của tôi ở Quảng Trị chỉ cách kinh đố Huế có hai giờ xe chạy. Đó là chỗ tôi thích đến để nghỉ ngơi.
Ở đây, tôi có năm ngàn mẫu tây đồi núi, có rừng cây nằm ở phía nam Cam Lộ. Trong những khu rừng lởn, có vài con suôi nước mát quanh co, có đủ thú rừng của nước tôi, voi, cọp, trâu rừng, hươu, nai và lợn lòi. Trên nền đất đó một thửa đồi, đã có một ngôi nhà sàn lợp nứa, có bao lơn như tất cả các ngôi nhà sàn của ngườỉ Thượng. Cạnh đó có hai chiếc khác nhỏ hơn, đùng cho bọn tùy tùng.
Đứng trên bao lơn, nhìn ra phía lũng ở giữa hai ngọn đồi, tôi có thể quan sát được cả một sự di chuyên của bầy trâu rừng, một loài dã thú vừa đẹp tuyệt vời, vừa rất nguy hiểm, có nhiều con cao tới hai mét. Tôi từng bắn hạ cả trăm con, và có một bộ collection (sưu tầm) các loại sừng dài tới trên một mét. Tôi thường săn bắn một mình, chỉ có một người dẫn đường. Tôi học được khá nhiều kinh nghiệm về rừng, tôi biết từng quả rừng và rễ cây ăn được, và tôi có thể sống tự túc được ở trong rừng, nơi mà người văn minh khó có thể tồn tại. Một linh tính tìm phương hướng rất bén nhậy giúp tôi có thể đi sâu vào rừng mà không sợ lạc. Trong vài năm về sau, tôi ít bắn thú trừ phi gặp con thú nào đặc biệt. Cũng có lần tôi phải bắn là để lấy thịt cho dân trong làng.
Điều làm cho tôi tìm đến gần các loài thú dữ, chính là để quan sát đời sống của chúng, và sự đương đầu của chúng đối với thiên nhiên. Nghiên cứu sự sinh hoạt này làm nẩy nở trong tôi ý nghĩa của luật tự tồn, làm tăng trưởng mọi ý niệm về quan sát. Con thũ nào cũng luôn luôn cảnh giác bị tấn công nên sẵn sàng chuẩn bị đốì phó để giữ lấy mạng chúng luôn bị đe dọa. Vừa bị đe dọa bởi thiên nhiên, vừa bị đe dọa bởi các loài khác chung sống cạnh chúng. Nhờ thế mà tôi hiểu thấu được kẻ địch, đến độ rằng có thể định được vị trí của tôi đối với chúng ra sao, cũng như cảm thấy trước phản ứng của chúng ngay lúc chúng đang hành động. Có một lần, tôi đã theo dõi luôn trong hai năm, một con trâu rừng đơn độc, mà không bao giờ tới gần nó được.
Nhân có vụ mưa lũ, tôi tính rằng khắp vùng tôi săn nó đều bị ngập lụt. Nghĩ như vậy, tôi tự đặt tôi vào địa vị nó. Tất nhiên nó phải tìm đến một nơi cao ráo mà nước lụt không thể tới. Chỗ đó, tôi nhớ có một quả đồi cao. Tôi liền trèo lên một thớt voi, và chỉ vài giờ sau, tôi định được vị trí nơi cao ấy. Quả nhiên con trâu rừng này đang ở đấy. Tôi liền bắn hạ ngay.
Kinh nghiệm ấy đối với trò chơi săn bắn, cũng y như đối với một cuộc chiến đấu ngoài đời. Chỉ quan sầt địch thủ, người ta biết ngay dụng ý và phản ứng của nó.
Đối với loài voi, tôi có một tình cảm đặc biệt. Chưa có con vật nào đam mê bằng loài voi đang sống tự do. Phần nhiều, chúng đi thành đoàn, và thật khác lạ như người ta kể, bao giờ con cái cũng dẫn đầu.
Voi không bao giờ sống quá 70 tuổi. Khi nó cảm thấy mình quá già, và trở thành gánh nặng cho đồng loại, nó liền tách rời ra khỏi đàn. Những còn voi bỏ đàn trở thành cáu kỉnh và hung dữ. Ở loài voi, sự già nua bắt đầu làm tê liệt chiếc vòi một cách nhanh chóng. Đó là một bộ phận vô cùng quan trọng, vì vòi rất cần thiết để lấy thức ăn. Một con voi đang độ tráng niên, ngốn hết năm tạ cỏ và lá cây trong một ngày. Cuổì cùng, con vật già nua đó tìm đến nơi có nước để ngâm mình trong bùn cho đỡ đau, nhưng rồi không đủ sức mà đứng dậy được. Khi không có gì để ăn, nó sẽ chết sau ba ngày. Xác nó bị các loài chó sói, đủ loại ăn thịt xâu xé. Còn trơ lại bộ xương, vì ít chất vôi nên rữa ra mau lắm. Lúc ấy, chúa tể rừng xanh chỉ còn lại đôi ngà. Cứ thế, nhiều voi già nua khác đều tìm đến nơi có nước mà ngâm mình, cho đến ngày dòng suôi đổi chiều, bùn đất khô lại tạo nên huyền thoại về “nghĩa địa của loài voi”.
Cũng có trường hợp, xác voi chết cạnh các sườn đồi, do một tai nạn gì. Dầu sao nữa, trường hợp này tôi chưa được trông thấy. Ngược lại, tôi có biết một viên kiểm lâm nói là đã trông thấy loài voi khiêu vũ, như Kipling đã tả, và tôi cũng được nghe nhiều truyện dị kỳ về cái gọi là cái chết của loài voi.
Mặc dù người ta không dám đoan quyết rằng loài voi có trí nhớ và sự thông minh rất sắc bén, tôi công nhận rằng chúng có một linh tính rất nhạy cảm về cái chết của chúng. Linh tính đó rất chính xác, mà ngay các loài vật cao đẳng như loài người cũng không có được.
Ở Việt Nam có đền thờ Voi. Ngày xưa, voi từng dự trận và bị chết cũng nhiều. Người ta đã lập đền thờ nó, và phong cho nó các tước hiệu cao quý, có con được phong tới tước Quận công. Sau khi chết, người ta dựng bia để ghi thành tích và tôn thờ nó.
Về sau này, tôi từng đến vùng cao nguyên miền Nam, nơi ở của những sắc dân thường chuyên săn bắn loài voi. Tôi đã dự những buổi lễ lạc của họ, và được biết nhiều hơn về con vật này, mà ở đây người ta cho rằng ngà của nó đã chứa đựng linh hồn của nó.
Khi được nuôi, voi thường rất hiền hòa, và dễ sai bảo tuy nhiên, có thể nổi cơn điên bất ngờ, rất nguy hiểm. Có một lần, tôi bị một con voi cái đầu đàn theo đuổi, khi đi dạo một mình trong rừng. Nó lao đến tôi, băng qua các cành lá rào rào, vòi cuốn lại và ngà cụp xuống. Không ngó đầu trông lại, tôi quăng về phía nó chiếc mũ. Nó ngừng ngay lại, chà đạp nát chiếc mũ, nhờ thế mà tôi chạy được xa thêm và thoát nạn. Từ đó, tôi luôn đội chiếc mũ thuộc địa mỗi khi đi săn voi, coi như bùa hộ mệnh.
Tôi có một khu vườn rộng để nuôi voi, và tôi cố gắng tìm cách xếp đặt bành cho được thuận lợi, tốt đẹp nhất. Bởi vì khi di chuyển, ngồi trên lưng voi rất mệt nhọc và quá sóc. Tôi cũng đã nghĩ đến việc đóng bành voi như kiểu đóng yên cho ngựa, làm cái bành rộng ra để nằm sấp được trên lưng voi, để có thể đến gần con thú bị săn mà thú không biết mà chạy trốn. Để tránh cho voi khỏi bị xây xát, gặp tai nạn, tôi không bao giờ săn trên lưng voi, nhưng bao giờ cũng ngồi trên một chiếc chòi. Tôi rất thích được đợi lâu hàng giờ trên chòi, để có thể trầm tư mặc tưởng tha hồ.
Đến nay, tôi vẫn còn thấy thích thú những buổi chiều hôm ở trại săn Quảng Trị. Hoàng hậu có khi cũng theo đi. Thỉnh thoảng, tôi có mời một số bạn cùng dự. Chúng tôi đã qua những buổi chiều hết sức cởi mở trong một bầu không khí thân hữu gia đình. Nhưng phần nhiều, sau một ngày đi dạo trong rừng sâu, tôi trở về chòi, cảm thấy khoan khoái trước sự yên lặng của rừng, sau khi mặt trời vừa lặn. Trước khi bóng đêm phủ xuống, mặt trời đi ngủ, thì đó là một tràng than van tê tái của loài côn trùng, như loài giun dế đã đồng thanh ca ngợi một ngày đã qua. Sau đó là tĩnh mịch hoàn toàn. Sự hiện diện của đất đai, như chỉ còn có mùi thơm ẩm ướt của cây rừng và của rong rêu trước mịt mùng vô tận…