Xảo quyệt ngoại giao 1947-1948 (tt)
Trước khi đi, tôi muốn thông tin cho các nhà đương quyền ở Việt Nam và muốn biết phản ứng của họ.
Tôi liền mời đến Hong Kong, vị Thủ tướng Chính phủ Lâm thời miền Nam Việt Nam Nguyễn Văn Xuân, và Trần Văn Lý, chủ tịch Hội Đồng An Dân ở Huế. Tôi yêu cầu Ngô Đình Diệm đến cùng với họ. Họ đến vào ngày 19 tháng chạp, và chúng tôi hội với nhau trong ba ngày. Tất cả ba đều nhận bản tuyên bố chung thì được, nhưng khi đọc bản văn kiện nói về thể chế đều tỏ vẻ tức giận. Diệm là người nổi sùng nhất. Đối với ông ta, sự nhượng bộ của Pháp ít ỏi rõ rệt còn về sự hạn chế chủ quyền, khi vào Liên hiệp Pháp, thì lại càng vô lý. Lý cũng đồng quan điểm với ông ta. Tất cả hai, đều bị ảnh hưởng của sự giải phóng thuộc địa đang tiếp diễn ở Ấn Độ và ở Miến Điện, đều trình tôi một dự án tạo cho Việt Nam một thể chế tự trị, chỉ còn liên hệ với chính quốc bằng sợi giây văn hóa. Trước mắt họ, đây là một giải pháp duy nhất mà người quốc gia Việt Nam có thể chấp nhận được. Xuân thì kém cương quyết hơn, quan điểm của ông ta gần với quan điểm của Giáo. Tất cả, chúng tôi đặt ra một hình thức, có thể co dãn, trường hợp mà chính phủ Pháp muốn lợi dụng chữ ký của tôi: như điều mà tôi đã báo ông Bollaert lúc mới bắt đầu nói chuyện: tôi đến vịnh Hạ Long để tìm hiểu với tính cách riêng tư, và không được ai ủy nhiệm để đàm phán với Pháp. Thật vậy, những đề nghị của ông Bollaert ở vịnh Hạ Long, chẳng có gì đáng kể hơn những đề nghị đã từng được ông ta đọc ở Hà Đông.
Ngày 24 tháng chạp, sau khi từ chối Cousseau muốn dành cho tôi một chiếc máy bay Pháp, tôi đi chiếc Sunderland của hãng BOC, thuộc hàng không Anh quốc để sang Âu châu. Cùng đi với Vĩnh Cẩn, chúng tôi bất ngờ được dự Noel trên máy bay, xung quanh cây thông đồ sộ dựng trong máy bay. Qua các chặng nghỉ Bangkok, Calcutta, Karachi, Le Caire, các đại sứ hay lãnh sự Pháp đều nhân danh nước Pháp đến chào mừng tôi. Tôi đã không lầm. Hồ Chí Minh trong thời gian sang Pháp năm 1946, để dự hội nghị Fontainebleau, cũng đã được cái vinh dự ấy.
Sau chặng nghỉ cuối cùng Chypre, ngày 29 tháng chạp, chúng tôi đến phi trường Liverpool, ở đó, đại sứ Pháp, ông Massigli đã cho một chiếc ô tô để đưa tôi đến Luân Đôn, mà đã có một số người chờ đợi tôi ở Claridge. Tôi nghỉ ở đây hai ngày, cùng với Vĩnh Cẩn, và lợi dựng cuộc đi nghỉ ngơi ngắn ngủi này, để dự xem một màn xiếc. Mộng cũ ngày xanh, chúng tôi vui thích xem những trò hề. Ngày 1 tháng giêng năm 1948, lại một chiếc máy bay Anh đưa tôi đi Genève, ở đó có màn “xiếc” khác đang đợi. Chúng tôi nghỉ ở khách sạn Richemond.
Tại đó, tôi được biết các tin tức cuối cùng. Ông Cao ủy biết ý nghĩ của tôi, khi sang du lịch Âu châu, và sự phiền hà của tôi không muốn gặp ông ta. Kể từ ngày 23 tháng chạp, ông ta đã được chính phủ cấp cho một lời chấp nhận, chỉ cho phép một mình ông ta độc nhất được tiếp xúc với tôi mà thôi: “Chính phủ đã quyết định trao trọn quyền cho Cao ủy Pháp ở Đông Dương để tiếp tục cuộc đàm phán, ngoại trừ với chính phủ của Hồ Chí Minh, đem lại hòa bình và tự do trên khắp lãnh thổ Việt Nam”. Và trong một cuộc họp báo, khi ông ta trở về Sài Gòn, ông ta không quên nhán mạnh rằng:
- Chính phủ Pháp đã nhận lời từ chối dứt khoát của Việt Minh đối với những điều khoản dành cho dân tộc Việt Nam, và cương quyết gạt ra ngoài vĩnh viễn mọi sự đàm phán tương lai đối với cái gọi là chính phủ Việt Minh ấy, và với cái đảng đã yểm trợ họ, và tiếp tục đàm phán với nhân vật duy nhất, đã hiểu thấu vị trí của mình, đối với những đề nghị của Pháp.
Và như vậy là nói hơi nhanh một chút. Tại Paris, tuy nhiên, sự việc không tiến triển mau lẹ như vậy. Dù sao nữa, ngay trong lòng chính phủ, việc thống nhất quan điểm về giải pháp kia vẫn chưa thực hiện được. Các đảng viên xã hội đã tức giận sự gạt bỏ chính phủ Hồ Chí Minh ra ngoài và không giấu ác cảm của họ đối với tôi. Nhưng phe hữu ở Pháp cũng không phải là không cay cú. Còn lãnh tụ phe De Gaulle Gaston Palervski, trong một cuộc meeting đã cực lực đả kích chính phủ:
- Người ta đang chuẩn bị loại bỏ một phần đất đai của lãnh thổ Pháp. Một chính phủ của thiểu số không đủ tư cách cho việc này. Chọn từng chữ một, tôi báo quí ông rằng, chúng ta cần phải xét lại trường hợp này, cũng như những trường hợp tương tự, là chữ ký của chính phủ thiểu số không thể là tiếng nói của nước Pháp được.
Đó chính là triệu chứng xấu, đối với sự sát nhập Nam kỳ vào sự thống nhất của cả ba kỳ. Và thêm vào đây, đây là lời viên Bộ trưởng Ngoại giao Georges Bidault, chống lại lập trường của Bollaert, mà ông ta coi như là nhũng nhượng bộ quá trớn và ngay hiểm.
Ông ta mãnh liệt chống lại việc sử dụng danh từ “độc lập”, e ngại rằng sẽ đưa đến hậu quả tai hại ở Bắc Phi. Hơn nữa, ông ta cũng không chấp nhận mở rộng cửa cho nền ngoại giao của Việt Nam được tách rời ra khỏi nền ngoại giao của Pháp. Tất nhiên, sự chênh lệch đã quá xa, y như người ta nói ở Việt Nam, mà nghĩ ở Paris. Tôi tự thấy khôn khéo đã đến Thụy Sĩ, vì vừa có chỗ quan sảt tốt vừa đủ ra thoát nanh vuốt của viên Cao ủy, để khỏi bị tù túng nhào nặn. Nhưng ông ta vẫn chưa chịu bỏ cuộc.
Im lặng như tờ, ông ta lấy máy bay đi Paris, nghỉ 48 giờ ở kinh thành hoa lệ và ngày 7 tháng 1 năm 1948, sang Genève và xin gặp tôi.
Chúng tôi hội ở khách sạn Hôtel des Bergues.
Ông ta không cần phải bóng gió gì và cũng không ngừng ngập gì, bảo tôi ngay:
- Thưa Hoàng thượng, tôi đến để mời Ngài trở về Việt Nam để áp dụng những điều khoản đã tuyên bố trong bản thông cáo chung và trong bản thể chế ngày 7 tháng chạp.
- Thưa Ngài Cao ủy, chắc hẳn Ngài cho phép tôi được ngạc nhiên về sự thôi thúc của Ngài. Tôi xin nhắc lại rằng, tôi đến vịnh Hạ Long thể theo lời mời của Ngài, với tư cách tư, và tôi không nhân danh chức vụ gì, ủy nhiệm gì, để hoàn tất bất cứ công tác nào. Sau nữa, Ngài đã có tại chỗ, Tướng Xuân, hiện đang là thủ tướng Chính phủ Lâm thời miền Nam Việt Nam, rất có khả năng điều đình với Pháp.
- Nhưng thưa Hoàng thượng, chính là Hoàng thượng mà chúng tôi muốn, mà nước Pháp muốn điều đình.
- Như vậy thì thưa Ngài Cao ủy, nước Pháp hãy phục lại cho tôi danh hiệu Hoàng đế. Vua nước Việt Nam độc lập, bao gồm cả ba kỳ thống nhất, bao gồm thêm đầy đủ các dân tộc thiểu số miền Bắc, miền Trung và miền Nam, có như vậy, vấn đề mới có thể giải quyết và mọi việc mới thực hiện được.
Hơi ngạc nhiên và bối rốì trước sự đòi hỏi của tôi, ông ta rút lui và nói rằng sẽ xin chỉ thị của chính phủ. Rời Genève về Paris ngay, hôm sau lại trở lại Genève.
Trong khi ông về Paris, tôi liền xác nhận lại lập trường của tôi, qua lời tuyên bố đối với phóng thanh đài AFP: Tôi không thể điều đình bất cứ dưới hình thức nào về Việt Nam, và hơn nữa, những đề nghị mà tôi được biết dưới hình thức tư, trong dịp gặp ông Bollaert ở vịnh Hạ Long trong những ngày 6 và 7 tháng chạp, không cho phép kết hợp nổi mọi xu hướng quần chúng Việt Nam, và như vậy, sẽ không tạo được ảnh hưởng gì trong việc tái lập hòa bình.
Đến lần gặp gỡ thứ hai - có tất cả năm lần - tôi tiếp ông Bollaert có ba cố vấn cạnh ông ta là Phan Huy Đán, Đinh Xuân Quảng và Nghiêm Vàn Trí. Tất cả ba đều là nhà luật pháp, xuất thân từ nền học vấn Pháp. Viên Cao ủy lần này đến với tư cách mạnh. Mới vào đề, tôi hỏi ông ta ngay:
- Thưa Ngài Cao ủy, tôi còn là Hoàng đế nữa không?
- Không thể được nữa rồi, thưa Ngài. Ông ta đáp và không giấu nỗi thất vọng, vì thấy cuộc đổi thoại bắt đầu bằng lời lẽ ấy.
Dự đoán của tôi đứng. Thái tử Sihanouk đã được trả về ngôi do chính phủ Pháp khi ông ta có thái độ như tôi vào năm 1945… Người Pháp muốn “xỏ mũi tôi”. Tôi quả đã không bảo được.
- Như vậy, thưa Ngài Cao ủy, thật vô ích khi tiếp tục cuộc đối thoại này.
Thế là ông Bollaert để lộ ngay cái mặt thật của ông ta:
- Nhưng mà thưa Hoàng thượng, ngày 7 tháng 9, Ngài đã ký bản thông cáo chung rồi. Đây là một thực tế đã xong rồi. Không còn ai có thể thay đổi được gì nữa, kể cả đến nét phẩy vào các bản văn kiện, mà Ngài đã chấp nhận rồi.
Tôi thật đã thất vọng, đau buồn hơn là tức giận trước sự bất tín như vậy. Thành ra, vị đại diện của nước Pháp bất chấp cả đến chuyện lọc lừa, ăn nói sai ngoa ngày hôm nay, với một sự trơ tráo lạ lùng đối với những lời hứa hẹn dỗ dành, mà ông ta đã không ngớt nhắc nhở tôi, hầu xin cho bằng được chữ ký của tôi. Tự dưng, ông Cao ủy của nước Pháp bỗng trở thành nhỏ bé, trước mắt tôi.
Thế nhưng, vẫn chưa hết. Ngày hôm sau, vẫn với luận điệu phi liêm trơ tráo ấy, ông Cao ủy lại còn hạ thấp hơn nữa để mà cả thực sự:
- Thưa Hoàng thượng, cần phải xúc tiến mau hơn nữa nền hòa bình, dân tộc Việt Nam đã đau khổ quá độ rồi. Để giúp Ngài có thể về nước sớm, chúng tôi sẽ mở cuộc đại nghị gồm các nhân sĩ của cả ba kỳ. Các đại diện này sẽ trao cho Hoàng thượng sứ mạng để điều đình với nước Pháp, và thành lập một Chính phủ Quốc gia hầu thực hiện các bản văn kiện mà Ngài đã ký kết. Tôi được ủy quyền để thưa với Ngài rằng về phần liên can đến bản thực hiện thể chế, chính phủ Pháp đã quyết định sẽ áp dụng một cách thật là đân chủ và tự do…
Chính vì hạnh phúc của nhân dân tôi, đã giữ tôi lại, mà không muốn làm cho tan vỡ hẳn. Tôi không còn nghi ngờ gì về giá trị của những điều hứa hẹn của nước Pháp. Tôi nhìn ba đồng bào của tôi (cố vấn của Bollaert). Như tôi, họ cũng giữ yên lặng.
Khi từ giã tôi, như một tên lái trâu đã hả hê bán xong con vật thổ tả, viên Cao ủy nói như giao hẹn:
- Thưa Hoàng thượng, trong một tháng, chúng ta gặp lại nhau ở vịnh Hạ Long, vào ngày rằm tháng hai.
Tôi không đến Hạ Long, chẳng những tháng sau, mà cả về sau nữa. Tôi không trở về nước, khi mà nước Pháp không thỏa mãn các nguyện vọng chính đáng của dân tộc Việt Nam. Tôi không muốn bị làm trò cười lần thứ hai nữa.
Tám ngày sau, tôi đi Cannes, ở đó Hoàng hậu Nam Phương và các con tôi đã về ở trong tòa nhà của chúng tôi ở Thorene rồi.
Càng ngày tôi càng tin tưởng là mình đã đi đúng đường lối.
Nhiều người Pháp đến van nài, cầu khẩn. Thời gian làm việc cho chúng tôi. Một chứng cớ phụ đã báo cho tôi biết, vào đầu tháng hai, tôi nhận được giấy mời lên Paris của chính phủ Pháp.
Vài hôm trước, đại diện của Việt Minh ở Pháp là Trần Ngọc Danh đã bị bắt ở Paris. Và ông Bollaert khi trở về Sài Gòn ngày 30 tháng giêng đã tuyên bố là chính phủ không bao giờ điều đình với Hồ Chí Minh nữa. Trong hoàn cảnh ấy, tôi đến Paris. Tôi nhận thấy dân Pháp lẫn các nhá chính trị đã bị chia rẽ đối với vấn đề Việt Nam không ít. Sự phản đối tôi bắt đầu từ đảng Cộng sản, sự đó rất hợp lý, đến đảng Cộng hòa RPF qua đảng Xã hội, và nhiều đoàn thể Cộng hòa tả phái và Cộng hòa thân hữu của De Gaulle MRP. Theo một số tin tức được phổ biến rộng rãi, hiện đang có một sự khủng hoảng Nội các, và đảng Cộng hòa của De Gaulle RRP chắc chắn sẽ thắng.
Thủ tướng Robert Schuman mời tôi dự tiệc ở điện Matignon. Tại đây, tôi thấy có hơn một chục bộ trưởng, trong đó có George Bidault và Paul Coste Floret là hai người đang không mấy thiện cảm với tôi, nhất là ông Coste Floret đã tuyên bố rằng “hiện nay, chỉ có những hiệp ước ký kết từ ngày xưa với triều đình An Nam là có giá trị mà thôi…” lời tuyên bố ấy tự miệng viên bộ trưởng Pháp quốc hải ngoại tung ra, nên đã đưa dư luận vào một trận hỏa mù hoàn toàn dày đặc.
Bữa ăn diễn ra bầu không khí cởi mở, câu chuyện đưa nhanh chóng đến vấn đề các “điều khoản thỏa hiệp” ở vịnh Hạ Long. Thử tướng Schuman tỏ sự ngạc nhiên về thái độ của tôi đối với những lần gặp gỡ ở Genève với ông Bollaert.
Tôi trả lời ngay:
- Thưa Ngài Thủ tướng, tôi không ký thỏa hiệp nào ở vịnh Hạ Long cả. Theo lời mời của ông Cao ủy, tôi đến Hạ Long để nghe nói về lập trường của chính phủ Pháp. Các Ngài đã quyết định là không điều đình gì với Hồ Chí Minh nữa, nhưng các Ngài cũng không đưa ra một sự đề cử nào mới. Các Ngài có lập trường của các Ngài. Tôi cũng có lập trường của tôi. Tôi đã thưa với Ngài rằng chỉ sự thừa nhận nền độc lập và sự thống nhất của Việt Nam, mới có thể vãn hồi lại được hòa bình. Tôi không muốn đoạn tuyệt với nước Pháp, nhưng tôi vẫn giữ y nguyên lập trường của tôi.
Tất cả mọi người dự tiệc, ai cũng ngạc nhiên về thái độ cương quyết của tôi. Tôi có cảm tưởng rằng điều đó không đúng với tinh thần mà họ tô son điềm phấn vào tôi và vì vậy, họ mới quyết định chọn tôi là người duy nhất để đàm phán. Một người duy nhất ấy nay lại chứng tỏ còn bất trị và nặng ký hơn Hồ Chí Minh nhiều.
Rất nhiều lần, trong bữa ăn, đã có nhắc đến Lời tuyên bố ngày 25 tháng 3 năm 1945. Trước đây, từ ngày tôi sang Paris, tôi đã nghe thấy nói đến, trong nhiều cuộc gặp gỡ. Tôi liền sai Vĩnh Cẩn đi sưu tầm cho tôi bản văn kiện nói về lời tuyên bố này. Trong thời gian có lời tuyên bố ấy, thì nước chúng tôi bị cắt đứt mọi liên lạc với Pháp, và tôi cũng chưa từng nghe thấy nói đến bao giờ. Vì vậy, tôi ngạc nhiên biết bao, khi tôi thấy bản văn có lời tuyên bố này do chính phủ của Thủ tướng De Gaulle tung ra, và vào lúc mà Việt Nam đã độc lập trước đó mười lăm ngày rồi.
Vậy thì bản tuyên bố này nói gì? Thành lập một Liên bang Đông Dương gồm năm xứ rõ rệt: Nam kỳ, Trung kỳ, Bắc kỳ, Ai Lao và Cam Bốt, do viên Toàn quyền Pháp đại diện cho nước Pháp đứng đầu, gồm các bộ trưởng người Pháp và người bản xứ, chịu trách nhiệm dưới quyền điều khiển của Toàn quyền. Chính phủ sẽ có một Quốc hội mà dân chúng tất cả các xứ Đông Dương chiếm 50% số phiếu. Quyền hạn của Quốc hội này được hạn chế trong việc thông qua ngân sách và bàn cãi các đạo luật do Hội đồng Quốc gia soạn thảo.
Như vậy, sau hai tuần lễ mà tôi đã tuyên bố độc lập, lời tuyên bố này tưởng là rộng rãi lắm, thật sự lại còn kém xa những quyền hạn mà chúng tôi đạt được dưới thời của Đô đốc Decoux, vì Decoux còn dành một chỗ nhỏ cho các chính phủ bản xứ. Như vậy không phải là 15 ngày chậm chạp của bản tuyên ngôn, mà là 15 năm. Tuy nhiên, nay tôi mới hiểu vì sao đã có sự im lặng của Tướng De Gaulle, khi tôi gửi thông điệp cho ông ta vào tháng 8 năm 1945. Điều làm tôi buồn hơn nữa, là tôi có cảm tưởng là nhiều kẻ nay vẫn còn tin vào lời tuyên bố đó, dù có đã ba năm về trước. Quả nhiên, người Pháp rất mù tịt về các biến chuyển mới đã xảy ra trong mười năm gần đây ở Á châu, và nhất là ở vùng Viễn Đông.
Đến đây, tôi nhận thấy báo chí ở Paris đã phát động một chiến dịch đầy ác cảm đối với tôi. Họ kết tội tôi là kẻ phản bội hiệp ước bảo hộ, phản bội nước Pháp, đã tiếp tay với phát xít Nhật. Nguyên nhân của sự xúi giục đó tôi thừa đoán ra được. Sự đòi hỏi của tôi trở thành khó chịu, và chẳng ai thực tâm mong muốn tôi đáp lời kêu gọi của viên Cao ủy cả. Nhưng như tôi đã nói, tôi nhất định không để ai có thể muốn làm gì thì làm. Tôi liền tổ chức một buổi họp báo ở khách sạn Ritz, và trước các nhà báo Paris, tôi tuyên bố:
- Ngày 6 tháng 6 năm 1884, khi ông bác Kiến Phước tôi còn là ấu quân, quan phụ chính Vương quốc An Nam đã ký với nước Pháp, một hiệp ước bảo hộ. Theo điều 16 của hiệp ước này, để đổi lại những ưu quyền dành cho nước Pháp, nước Pháp long trọng cam kết che chở cho Vương quốc An Nam, bảo đảm an ninh cho Quân vương, Hoàng đế An Nam chống lại bất cứ nội loạn hay ngoại xâm nào. Thế mà năm 1945, trước sự xâm lăng của Nhật Bản, và trước cuộc nổi dậy của cách mạng Việt Minh, thì đâu là những lời cam kết của Pháp?… Vậy thì ai là người đầu tiên đã không làm tròn bổn phận đối với lời cam kết? Ai làm cho nó trở thành lỗi thời, mất hết hiệu lực? Ai đã vi phạm hiệp ước?
Làm sao mà tôi có thể phản bội nước Pháp, khi Pháp đã ruồng bỏ tôi rồi? Tôi có thể từ ngôi, bỏ chạy ra ngoại quốc, bỏ mặc dân chúng để chạy theo đuôi Đồng minh… Nhưng như vậy, nên nhớ rằng quân Nhật có thể dùng bọn tay sai bất lương, khuấy động loạn lạc để chống người Pháp và tàn sát họ.
Giờ đây, tại sao tôi còn sang Paris? Vì tôi mong muốn hòa bình lập lại ở nước tôi, làm ngưng để máu, vừa máu của nhân dân tôi lẫn máu của binh sĩ Pháp. Thế nhưng, điều kiện để tái lập hòa bình phải là sự công nhận nền độc lập và thống nhất của Việt Nam. Đó chính là lý do mà tôi đến để xin nước Pháp thực hiện, và cũng để nói với nước Pháp rằng nước tôi, dân tộc tôi, một khi hòa bình được lập lại, vẫn cần đến mọi sự giúp đỡ để kiến thiết đất nước.
Sự giúp đỡ đó, sự tựa nương đó, chính vẫn là ở nước Pháp mà chúng tôi muốn yêu cầu, trong tinh thần bình đẳng giữa hai nước như trước kia tổ tiên tôi là Hoàng đế Gia Long, khai sáng triều đại, anh hùng thực hiện nền độc lập và thống nhất nước Việt Nam, là người sáng lập ra tình hữu nghị giữa hai nước Việt Nam và Pháp.
Không chờ đợi phản ứng, tôi trở về Cannes ngay. Tôi bỏ qua đi ngày 15 tháng 2 mà ông Bollaert đã hẹn để gặp tôi ở vịnh Hạ Long. Rồi cùng Hoàng hậu và năm con của chúng tôi, sau gần 30 tháng xa cách, chúng tôi làm một cuộc du hành trên khắp đất Pháp thời niên thiếu cũ. Chúng tôi giữ ẩn danh, đi bằng xe lửa, và tôi rất sung sướng chỉ cho con trai cả tôi, Hoàng thái tử Bảo Long, lúc đó gần mười hai tuổi, những phong cảnh mà tôi đã đi qua khi còn thơ ấu. Tất nhiên, chúng tôi đến Paris, để thăm bà Mémé Charles, lúc nào cũng hiền từ và tiếp đón chúng tôi rất ân cần, và chúng tôi đã đến mặc niệm trước mộ cụ Charles, cựu Toàn quyền Đông Pháp, đã mất trong thời gian chiến tranh. Chúng tôi cũng đến Lourdes mà Hoàng hậu muốn, để cầu nguyện cho hòa bình ở Việt Nam, và khấn vái Đức Mẹ Đồng trinh Massabielle che chở cho dân chúng Việt Nam.