← Quay lại trang sách

Ngô Đình Diệm cầm quyền

Tổng thống Mỹ Eisenhower cũng ra một lời tuyên bố, sau khi Hiệp định Genève được ký kết. Lời tuyên bố này tiên đoán những hậu quả đáng ngờ. Ông nói:

- Hoa Kỳ không dính dấp gì về những quyết định của Hội nghị và cũng không bị ràng buộc gì bởi những quyết định đó. Tuy nhiên, chúng tôi mong rằng nó sẽ đưa đến việc xây dựng một nền hòa bình thích ứng với những nhu cầu của các nước liên hệ. Nhưng thỏa hiệp vẫn mang nhiều dự kiện mà chúng tôi không mấy hoan nghênh. Nhiều khoản sẽ tùy thuộc vào những yếu tố này khi được áp dụng.

Trong khi chờ đợi, người Mỹ bắt đầu đặt cơ sở. Tại Sài Gòn, người ta đã thấy một đoàn cố vấn mang danh hiệu là MAAG (Military Aid Advisory Group) tức Cơ quan Viện Trợ Quân sự Mỹ, do Tướng O’Daniel lãnh đạo, nhưng thực tế là ở tay chủ chốt Đại tá Landsdale, nhân viên CIA, vốn là tay tổ chống Cộng sản, khi đặt ra đủ các vại trò, như tân Tổng thống Phi Luật Tân Ramon Masaysay… sau khi đã là cố vấn rất được Hồ Chí Minh tin nghe năm 1945.

Thực tế, ông Diệm rất cần đến nhân vật này, vì vị trí của ông rất bấp bênh. Khi mới lên cầm quyền, đó là một người hoàn toàn đơn độc, chỉ có một người phụ tá đắc lực là em của ông ta, qua phong trào Mặt trận Cứu Quốc Quốc gia. Tự giam mình trong một phòng nhỏ của Dinh Gia Long, ông sửa soạn chương trình của mình. Nhãn quan của ông về Việt Nam là cách mạng, tức phải cải tổ lại guồng máy xã hội. Một nước mạnh, có uy tín cần phải có một đạo quân mạnh và kỷ luật. Việc đầu tiên của ông, là chống lại tất cả cái gì là phân tán, là chia rẽ. Những giáo phái với đạo quân của họ là điều không thể tha thứ được. Quân đội phải đặt dưới quyền của ông ta. Hinh vốn có tiếng ở đây, là quá thừa.

Ngày 10 tháng 9, ông Diệm ra một nghị định cử viên Tổng Tham mưu trưởng sang Pháp để học thêm, và ra lệnh cho Hinh phải cấp tốc đi ngay. Hinh từ chối. Những giáo phái đều biết số phận của mình, nên chống lại ông Diệm.

Để đem lại tin tưởng cho quân đội, ông Diệm bổ Xuân làm Quốc vụ khanh, phụ trách Quốc phòng. Tám ngày sau, ông này từ chức, và chín vị bộ trưởng khác cũng từ chức tập thể.

Bảy Viễn lânh tụ Bình Xuyên đến Cannes để gặp tôi, và xin tôi nhân danh ba giáo phái để chấm dứt sự lộng quyền của ông Diệm. Cũng trong thời gian ấy, tướng Hinh gửi cho tôi một thông điệp, và cho biết sự hợp tác giữa quân đội và chính phủ không thể đi đôi với nhau được.

Ông Diệm dùng hình thức biểu tình với mấy ngàn người di cư Công giáo. Lực lượng cảnh sát Bình Xuyên, lấy cớ là không được thông báo trước, đã giải tán họ rất tàn bạo và có người chết. Quân đội liền can thiệp, để tránh xáo trộn do Cộng sản có thể lợi dụng. Ngày 26 tháng 10, Hinh cho bao vây dinh Gia Long và chiếm đài phát thanh.

Tướng Ely can thiệp đến gần Hinh và bảo “Đừng làm gì. Nếu có sự nổi dậy gì, người Mỹ sẽ cắt mọi viện trợ tài chánh, và mọi đồ tiếp dụng cho quân đội”. về phần họ, người Mỹ làm áp lực cạnh các giáo phái.

Tướng Hinh hỏi tôi nên làm thế nào. Bằng điện tín, tôi nói rõ cho ông ta biết, tôi chống lại tất cả mọi bạo động, chỉ đưa đến sự sứt mẻ của quân đội, và nhiều tai họa khác cho dân tộc.

Hinh đành khuất phục, và rời Sài Gòn đi Paris.

Quân đội đã tòng phục, ông Diệm tự dựng cho mình một đạo quân cận vệ, gồm toàn những người tình nguyện, để phụ trách an ninh cho bản thân, và giữ dinh thự, rồi bắt đầu cải tổ chính phủ (20).

Hai tháng sau các thỏa hiệp Genève, tại Manille được ký kết hiệp ước SEATO. Đây là hiệp ước về an ninh quân sự, bao gồm chính các nước Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Thái Lan, Phi Luật Tân và Pakistan. Nước Việt Nam, Lào và Cam Bốt không ở trong hiệp ước ấy, nhưng được thụ động che chở.

Về cuối kỳ đệ tứ tam cá nguyệt, không tháng nào mà giới hữu trách Pháp và Mỹ không gặp nhau.

Ngày 24 tháng 10, Tổng thống Eisenhower gởi một bức thư cho Ngô Đình Diệm, để hứa hẹn với ông ta sự bảo đảm vô điều kiện của Mỹ.

Sau rốt, ngày 13 tháng chạp, hai Tướng Ely và Collins đã ký với nhau những thỏa hiệp ấn định quyền hạn và trách nhiệm giữa nhà binh Pháp và Mỹ trong việc thành lập quân đội quốc gia Việt Nam.

Mỗi ngày, miền Nam Việt Nam đi sâu vào giải pháp Mỹ. Thật vô ích khi nói rằng tôi tự đặt ra ngoài tất cả những chuyện thay Tề đổi Sở này. Giải pháp Pháp đã chấm dứt, và Washington trở thành người bảo trợ chính thức cho chế độ của ông Diệm.

Tại chỗ, quân đội viễn chinh Pháp tiếp tục cuốn gói, Ngày 9 tháng 10, quân đội Liên hiệp Pháp bắt đầu triệt thoát ra khỏi thủ đô miền Bắc Hà Nội.

Vào tháng 11, tôi tiếp ở Paris Tướng Salan, vừa tự ý dời Đông Dương do một mâu thuẫn với Tướng Ely. Viên cựu Tổng Tư lệnh nói với tôi, về sự bãi bỏ Tướng Hinh, mà ông thấy là đáng tiếc, và về hành động của Thủ tướng Diệm đối với các giáo phái mà ông cho rằng rất độc hại, bởi vì họ còn có thể dùng được ở miền Nam Việt Nam. Thật sự, tôi rút tướng Hinh ra khỏi vị trí quyền hành của ông ta, là để che chở cho ông ta, vì người của ông Diệm muốn sát hại ông ta.

Ngày 30 tháng chạp, tại Paris, các hiệp ước nhất định giữa nước Pháp, Lào, Cam Bốt và Việt Nam được ký kết. Nhưng nước Pháp đang có nhiều vấn đề khác: kể từ ngày 1 tháng 11, người Algeri bắt đầu nổi dậy.

Trong các thung lũng của vùng Hoàng triều cương thổ miền Bắc, nhiều nhóm người dân tộc, vẫn tiếp tục chiến đâu, với sự thất vọng điên cuồng.

Tại Cannes, ngày 24 tháng giêng năm 1955, nhân dịp tết năm Ất Mùi, tôi gửi một thông điệp cho đồng bào của tôi. Bức thông điệp này gồm năm đoạn. Việc chia xẻ đất nước Việt Nam không nên coi là một cớ để thất vọng; chúng ta phải biết đoàn kết với nhau trong thử thách mới này, nước Việt Nam đã được thế giới tự do giúp đỡ thì nền ngoại giao quốc tế sẽ do mình tự chọn. Chúng ta phải đi vào nền cách mạng kỹ nghệ hóa của Âu châu.

Đầu tiên, tôi nhắc lại, kết quả chua cay của hội nghị Genève:

“Việc chia cắt nước Việt Nam ra làm đôi, ám ảnh đầu óc đồng bào. Đồng bào nghĩ đến sự ngoan cường và kiêu hãnh của những người ở miền Bắc đã từ chối tất cả hình thức sống và nghĩ vốn không phải là của họ. Đồng bào lo ngại rằng ngày mai đây họ sẽ đưa tới đến miền Nam này, ý đồ ghê gớm của họ. Sự chán nản làm đồng bào thất vọng, trước nỗi chia cắt đau thương của đất nước. Những kẻ hoài nghi, kẻ vô tích sự, bọn giả đạo đức, đứng vào phe những tên gián điệp để vu cáo rằng miền Nam không đủ lực để chống lại cái thác lủ của miền Bắc kéo vào… Tại sao lại chịu để mất lòng tin tưởng vào tương lai của chúng ta?”

Tôi kể lại mấy điều tỉ dụ trong sự kháng chiến của dân tộc trong lịch sử, rồi tôi mời đồng bào vào nghĩa vụ và đoàn kết. Tôi nhắc cho họ biết những đảm bảo của các đại cường trong khối tự do, trên bình diện quốc tế, và sự cần thiết phải dựa vào Tây phương. Rồi tôi kết luận:

“Nhưng trước khi từ giã đồng bào, tôi chắc rằng, tôi đã làm tròn sứ mạng của người thông ngôn, truyền đạt sự chúc mừng nồng nhiệt của tôi cho các đồng bào ở miền Bắc, kém may mắn hơn đồng bào, đã không thể thoát được một chế độ mà họ không ưa thích. Mong rằng họ sẽ hiểu biết là hàng ngày tư tưởng của chúng ta vẫn hướng lòng về họ, để giúp họ chịu đựng được sức đè nặng đang quàng lên đầu lên cổ họ. Mong rằng sự cầu nguyện của chúng ta sẽ đem đến cho họ nguồn an ủi mà họ đang cần, để chờ ngày mà chúng ta lại cùng nhau xum họp lại”.

Đầu tháng 2 năm 1955, ông Mendès France bị thiểu số, phải đưa đơn từ chức. Ông ta được thay thế bằng ông Edgar Fauré, đã đề cử ông Henri Laforet làm bộ trưởng các Quốc gia Liên kết.

Tại Sài Gòn, do lời yêu cầu của ông Diệm, người Mỹ nhận trách nhiệm huấn luyện quân đội Việt Nam kể từ ngày 12 tháng 2.

Theo sáng kiến của Giáo chủ Cao Đài là Phạm Công Tắc, Mặt trận Quốc gia Thống nhất bao gồm các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên và đảng Dân chủ Xã hội Việt Nam được thành lập.

Tôi cảm thấy một sự thử lửa giữa ông Diệm với các khối võ trang của các giáo phái khó lòng tránh khỏi. Trong đầu tháng 3, một phái đoàn của Mặt trận Thống nhất đã sang Pháp để liên lạc. Nhưng không cần phải đợi sự trở về của đoàn đại biểu này, các lãnh tụ của Mặt trận đã gửi cho Diệm một tôi hậu thư, buộc Diệm trong vòng năm ngày phải lập lại chính phủ bao gồm trong hàng ngũ những đại diện của lực lượng dân chủ đối lập.

Ông Diệm tìm cách trì hoãn để lợi thời gian, để thảo luận với đại diện của Mặt trận nhưng không chịu nhượng bộ về điểm chính. Những giáo phái không chịu bị mất mặt, tập họp lại xung quanh Sài Gòn. Một biến cố thứ nhất đã xảy ra ngày 30 tháng 3, mà quân Bình Xuyên phải chịu thiệt hại. Ông Diệm lợi dụng sự xáo trộn đang xảy ra để chia rẽ phe Cao Đài.

Vì vậy, một người trong giới chỉ huy quân sự của họ, Trình Minh Thế, từ giã Mặt trận để liên kết với chính phủ.

Trong suốt thời gian đó, ông Diệm không ngớt gởi cho tôi các điện tín. Mỗi ngày tôi nhận được nhiều điện tín đại ý: “Tên này nói xấu Hoàng thượng. Tôi đã cho nó vào tù. Tên này đã làm thế này...”

Về phần tôi, tôi gửi cho ông ta ngày 4 và 12 tháng 4 mấy thông điệp khuyên ông tạ nên cẩn thận, và cho ông ta những lời khuyên giải khôn ngoan.

Mặc dù, đã thắng phe Cao Đài, tình thế bắt đầu suy nhược xung quanh ông Diệm, chỉ còn có mấy người trong gia đình. Ngày 28 tháng 4, mười bốn bộ trưởng cùng nhau từ chức nhất loạt. Ông ta vẫn cương quyết, ra lệnh cấm tụ họp trong ngày lễ Lao động 1 tháng 5, và tung ra một cuộc hành quân đánh thẳng vào đại bản doanh của Bình Xuyên.

Tôi gửi cho ông ta bức điện sau đây:

“Có nhiều xáo trộn mới và nặng nề đang đưa đến một tình trạng khó thở, không có lợi cho sự đoàn kết quốc gia, mà ta đang cần đến. Điều chủ đích chính buộc tôi nhận thấy rằng, đối với những cuộc từ chức mới và quan trọng chứng tỏ vị trí không ổn định của chính phủ… Hẳn ông đồng ý với tôi rằng không phải bằng những biện pháp có tầm hoạt động hạn chế, có thể giải quyết được sự việc gấp rút cấp thời. Nó sẽ là nguồn móng của những xáo trộn có hạn định dài hay ngắn, mà sự khủng hoảng hiện nay, rất đáng tiếc đã xảy ra, nhưng có thể giải quyết được… Đồng ý với những giả thuyết ấy, tôi đã quyết định dùng hình thức tham khảo các nhà trí thức, chính trị, tôn giáo. Cùng lúc đó, tôi lại triệu tập các đại biểu của giới nhà nông, rất có uy tín, giới thợ thuyền, mà điều kiện sống vẫn được tôi chú trọng đặt lên hàng đầu, và những người có nhiệm vụ bảo vệ xứ sở bằng súng đạn… Nơi tham khảo ấy nên để tại Pháp, để giúp cho sự trao đổi ý kiến được xảy ra xa vị trí của những tham vọng sôi nổi. Theo vị trí của ông là Thủ tướng chính phủ, và vẫn quí trọng những đức tính cao quí của ông, tôi mời ông tham dự cạnh tôi cuộc hội thảo dự trù này… Cuộc khủng hoảng hiện tại, cần phải giải tỏa không trì hoãn, theo lời tôi hửa hẹn với quốc dân, tôi triệu tập ngày 5 tháng 5 năm 1955 tại Cannes, những nhân vật mà tôi cho rằng có thể là đại diện có lực lượng của dân tộc Việt Nam… Tôi yêu cầu ông sẽ đến bên tôi bằng mọi cách thật sớm trước ngày mùng 3 tháng 5, đề góp chung ý kiến với tôi. Chiếc phi cơ của hoàng gia sẽ đặc biệt dưới quyền sử dụng của ông vào việc ấy...”

Chính phủ Pháp như lại bắt đầu chú ý đến mọi hoạt động của tôi, và ông Edgar Fauré ngày hôm sau, trong một cuộc họp báo, đã tuyên bố rằng “ông theo dõi với tất cả nhiệt tình và với cảm tình đặc biệt, đối với lời kêu gọi hội họp của Quốc trưởng Việt Nam”.

Vừa lúc tôi nhận được một bức điện của Tướng Vỹ xin tôi cho phép ông ta hoàn tất điều mà Tướng Hinh, đã không thể đạt vào tháng 10 trước đây.

Nói rõ hơn, ông ta xin phép tôi lật đổ ông Diệm.

Hiểu biết sự khôn ngoan của Vỹ, tôi đoán rằng, trước khi gửi bức điện cho tôi, ông ta đã được sự chấp thuận, hay ít ra được sự hứa hẹn của các nhân vật có trách nhiệm Pháp và Mỹ. Nhất là tôi càng tin chắc, vào ngày hôm trước, có gặp ông Gibson, đệ nhất bí thư của Tòa Đại sứ Hoa Kỳ ở Paris, ông này đã khuyến khích tôi hành động gấp, và chính Thủ tướng Edgar Fauré, trong buổi họp báo đã kín hở nói ra là ông ta không chống lại bất cứ một sự thâu đoạt lại quyền hành nào.

Tin vào sự đó, quả là nhầm lẫn lớn nếu không kể đến các sự can thiệp của cơ quan Hoa Kỳ ở Sài Gòn. Sáng ngày 29, họ đã thúc đẩy Diệm thanh toán cho xong với đám Bình Xuyên. Các cố vấn chính trị và quân sự của cơ quan MAAG, chính tự tay mình đảm nhiệm công tác này, và đến chiều thì những tàn quân của Bảy Viễn bắt buộc phải rút vào vùng sình lầy Rừng Sát. Cuộc chiến thật khốc liệt, đã có đến hơn 500 người chết, nhưng Diệm đã thắng theo như ý muốn.

Lấy cớ đó, ông ta trả lời bức điện của tôi ngày 28 bằng cách không đến được, lý do Hội đồng bộ trưởng đã ngăn cản ông ta đến Cannes, vì không một ai trong hoàn cảnh này, có thể thay thế ông ta được.

Đến ngày 30 tháng 4, tôi lại gửi một bức công điện khác, có tính chất quyết liệt hơn:

“Những lý lẽ của ông viện dẫn trong bức điện tín, chứng tỏ rằng chính phủ của ông thật sự ra đã thật mỏng manh, đã mất đường hướng, vốn chú trọng đến việc thực hiện đoàn kết quốc gia, chứ không phải gom góp hận thù.

“Những cộng sự viên cuối cùng của ông, cũng như chính ông, đã chỉ cho tôi thấy hình như ông chỉ thich hợp với sự đào sâu hố chia rẽ giữa các đồng bào, và theo đuổi một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn. Ngược lại, ông cố gắng né tránh kỹ càng sự báo cáo trung thực với tôi về mọi tổn thất về nhân mạng. Tuy nhiên, đã có hàng ngàn người chết và bị thương, không kể hàng ngàn người khác bị vong gia thất thổ, mà họ đều là đồng bào ruột thịt của chúng ta. Và danh sách này còn tiếp tục dài lê thê, với chính sách sắt máu mà ông đang theo đuổi.

“Tôi cũng được biết rằng, ông không hề phổ biến những thông điệp của tôi, vốn là những lời kêu gọi đoàn kết, và hòa giải quốc gia. Cũng như, hình như ông không thông báo các chỉ thị của tôi cho các Tướng Nguyễn Văn Vỹ và Lê Văn Tỵ. Làm cho tôi có cảm tưởng rằng, những lệnh ấy rất phù hợp với quân đội, vốn không bao giờ dùng để phục vụ cho ý đồ của một nhóm người muốn tạo phản.

“Những lý do mà ông nêu lên trong bức điện tín như vậy, không đủ hiệu năng, ông chỉ cần thi hành các lệnh của tôi. Tôi nhắc lại lần nữa, và lần cuối cùng, lệnh mà tôi gửi cho ông, là phải sang Cannes ngay tức khắc”.

Chiều hôm ấy, Tướng Vỹ tin tưởng vào đặc quyền của tôi, một mình vào dinh Thủ tướng để đặt các điều kiện, thì bị ông Diệm ra lệnh bắt nhốt tức khắc. Ông này chỉ được trả lại tự do nhờ Đại tá Đỗ Cao Trí can thiệp, vốn là bạn của ông, vừa thắng quân Bình Xuyên trở về hợp tác với chính phủ. Ngay sau khi được thả, Vỹ lên ẩn trên Đà Lạt.

Như vậy, ông Diệm đã loại trừ được hai người trong các phần tử chống lại ông ta. Lập tức, ông thừa thế làm tới, và tất nhiên có các cố vấn Mỹ sau lưng. Ngày 1 tháng 5, ông ta tổ chức một cuộc hội họp gọi là Hội Nghị Các Lực Lượng Nhân Dân, mà người ta đã vội vã mời đến hầu hết các giới quốc gia cực đoan ở Sài Gòn. Hội nghị này quyết định, sẽ vận động mời đến Sài Gòn ngày 5 tháng 5, tất cả “các lực lượng chung” của toàn thể Việt Nam gồm khoảng 1.000 đại biểu cho miền Nam và miền Trung.

Trong bức điện đầu tiên của tôi đề ngày 1 tháng 5, tôi lưu ý Thủ tướng là sự can thiệp của tôi nhằm vào hai mục đích: tránh nội loạn, hay ít ra là ngăn cản sự bành trướng của nó, vì do hàng loạt đơn từ nhiệm, đứa chính phủ đến chỗ chỉ còn lại ba hoặc bốn người, để tìm một giải pháp hết sức rộng rãi, bao gồm tất cả mọi khuynh hướng quần chúng. Chính vì thế mà tôi thấy cần thiết phải tham khảo với ông ta, nên tôi đã nhất định ra lệnh cho ông ta phải đến Cannes ngay tức khắc.

Bức điện tín thứ hai được gửi đi ngày 3 tháng 5, trong khi Thủ tướng chính phủ báo cáo với tôi về sự triệu tập của “những lực lượng quần chúng”. Đây là bản tường trình:

“Tiếp theo bức điện tín của Hoàng thượng hôm nay, tôi xin thành cẩn báo cáo với Ngài rằng, tôi phủ nhận cái Hội nghị đó, mà sự bất hợp pháp không cần phải chứng minh nữa. Trong hoàn cảnh hiện tại, và giữa lúc nội chiến đang bùng nổ, một hội nghị được tổ chức ở Sài Gòn, cầm đầu bởi một số cách mạng, quá khích, không thể nào chứng tỏ được là do ý muốn của nhân dân, và loại hội nghị ấy cũng không quyết định được gi cho số phận đất nước, và những nghị quyết của nó có thể có những hậu quả tai hại cho an ninh xứ sở. Tôi nghĩ rằng vì quyền uy của Hoàng thượng, cũng như vì địa vị của Ngài, không thề để cho họ lợi dụng được, vì nó dìm đắm dân tộc chúng ta vào sự khổ ải mới, và biến Việt Nam thành hỏa ngục ở Đông Nam Á, sẽ đưa quốc gia vào sự bại vong”.

Rất được người Mỹ nâng đỡ, ông Diệm giữ vững vị trí. Ông ta gặp phải hai điều bất mãn. Tướng Trịnh Minh Thế, thuộc phe Cao Đài ly khai, vừa trở về theo chính phủ, vốn là tay phò trợ trung thành của ông ta, ngày 4 tháng 5, bị tử trận trong một cuộc đụng độ với quân đội Bình Xuyên. Thứ nữa, ngày mùng 5 tháng 5, trong hội nghị của “các lực lượng quần chúng” nếu những đại biểu các tỉnh miền Trung nhắm mắt nghe theo ông ta, thì các đại biểu các tỉnh miền Nam, lại bỏ phiếu bất tín nhiệm ông ta, và từ chối tham dự vào các hoạt động của hội nghị.

Dữ kiện thứ hai này là sự thất bại lớn cho ông Diệm, nhưng ông ta biết cách đối phó.

Không trả lời các bức điện của tôi, và cũng không đếm xỉa gì đến cái gọi là dự trù hội nghị, do chính ông ta dựng nên, ông Diệm lập một chính phủ, lấy cớ là kêu gọi đến chuyên viên, một chính phủ chỉ bao gồm những tay chân, thủ hạ của ông ta. Rồi ông ta lần lượt thủ tiêu cái gì còn lại ở các giáo phái.

Chẳng bao lâu, quân đội chỉ còn là vài mảnh tả tơi, các cấp chỉ huy quân sự thuộc các giáo phái tập trung lại xung quanh Tướng Hinh, người của tôi cử về, đóng ở biên giới Cam Bốt. Ở đây có Trần Vàn Soái, Ba Cụt, là thuộc phe Hòa Hảo, Bảy Viễn và Đại tá Leroy của Lực Lượng Dân Chủ Cách Mạng (UDMC). Họ đợi trong tuyệt vọng chiến tầu chở khí giới, mà cơ quan tình báo Pháp hứa hẹn, do Bảy Viễn đã bao thuê trước. Tuyệt vọng, điên cuồng, họ đành chia tay. Hinh sang Pháp ngày 19 tháng 6 năm 1955. Leroy rồi Bảy Viễn tiếp tục theo gót ông ta. Trần Văn Soái, ít lâu sau phải trở về theo Diệm. Riêng có Ba Cụt là tiếp tục chiến đấu, và bị bắt vào tháng 4 năm 1956, và bị chém.

Cố gắng giữ mình, Diệm không dám sang Pháp, phải cử một phái đoàn sang Paris để điều đình sự rút quân của Pháp, và điều đình với những điều khoản mới, sự hợp tác giữa Pháp và Việt Nam. Nhưng cuộc đàm thoại đã diễn ra trong một không khí bực bội. Phái đoàn được Thủ tướng gọi về vào trung tuần tháng 10, không đạt được kết quả gì. Tình giao hảo Pháp Vịệt mỗi ngày một thêm trầm trọng.

Tướng Ely xin được gọi về, đã rời Sài Gòn ngày 2 tháng 6. Ông ta được Tướng Jacquet thay thế, làm Tổng Tư lệnh quân đội Pháp, và ông Hoppenot làm Thượng sứ. Ông này sau mang danh vị là Đại sứ. Đó là sự thanh toán của nước Pháp ở Viễn Đông.

Ngày 19 tháng 7 năm 1956, theo như dự trù của hiệp định Genève, Hà Nội yêu cầu Sài Gòn cử đại diện của miền Nam tham dự Uỷ ban dự thảo về tổng tuyển cử định vào tháng 7 năm 1956. Hà Nội cũng yêu cầu chỉ định một nơi làm chỗ gặp gỡ của Uỷ ban này.

Thay vì trả lời, ông Diệm cho tổ chức ở Sài Gòn những cuộc diễn hành cấp tốc và những cuộc xuống đường chống lại tổng tuyển cử. Vào ngày 5 tháng 8, trong một lời tuyên bố trên đài phát tranh, ông ta loan báo rằng, nước Việt Nam tự coi mình không có ràng buộc gì với hiệp ước Genève, mà ông ta không phải là người ký kết.

Bất cứ cách nào, ông ta giải thích, những điều kiện về tự do của cuộc sống, và tự do về bầu cử, đã không thỏa mãn được ai ở miền Bắc thì sự đó cũng đủ là lý do để từ chối với mọi sự điều đình với miền Bắc.

Ông ta vừa được sự ủng hộ to lớn của Washington, khi ông Foster Dulles cũng tuyên bố về phần Hoa Kỳ:

“Hoa Kỳ rất đồng ý với chính phủ Diệm, để nhận định rằng các điều kiện hiện hữu ở miền Bắc Việt Nam chưa thích ứng được trong hiện tại để bầu cử tự do trên toàn quốc Việt Nam đồng nhất”.

Đó tức là sự từ chối hoãn vô hạn định, bất thành văn, về tổng tuyển cử.

Gạt bỏ được sự chống đối của các giáo phái, hất bỏ cái di sản ám ảnh về tổng tuyển cử sắp đến ngày cận kề, với quân đội trong tay, vào cuối hè năm 1955, Diệm đã là kẻ đắc thắng, và chỉ còn có một trở ngại cần loại trừ để thỏa mãn tham vọng của mình: làm Quốc trưởng…

Trong giới thân cận tôi, người ta liền khuyên tôi, khi tôi hãy còn quyền lực trong tay, là truất phế Thủ tướng, trở về Sài Gòn để tự tay cầm đầu một chính phủ mới. Nhưng tôi không còn tin vào một sự phiêu lưu mới trong tình trạng hiện tại của quốc gia. Sau cuộc thất bại của giải pháp Pháp, một giải pháp Mỹ như đang được thực hiện, chỉ có thể đưa đến một sự thất bại mới, còn to lớn, nặng nề và sâu đậm cho dân tộc Việt Nam hơn nữa. Nước Việt Nam chỉ được tự mình cứu rỗi, có lẽ phải qua đến bước đường cùng, để lấy làm nguồn để bắt đầu

Tại Paris, từng nhóm nhỏ chính khách hoạt động. Ngày 7 tháng 10, có mở cuộc đại hội ở khách sạn Raphael. Chung quanh cựu Thủ tướng Trần Văn Hữu có Tướng Xuân, Tướng Hinh, vốn rất thất vọng về cuộc phiêu lưu vừa qua, Đại tá Leroy, ông William Baze… Cả hình ảnh của xứ Nam kỳ cũ. Người ta nói đến chính phủ lưu vong, đến trung lập hóa, nhưng tất cả những sự bàn phiếm ấy chẳng đi tới đâu.

Về phần tôi, tôi muốn tách rời hẳn với Ngô Đình Diệm, mà tôi không thể đi chung đường được. Nhất là tôi không muốn liên hệ vào với chính sách chống Cộng, thanh trừng ở Việt Nam, nó làm cho nước tôi trở thành một quốc gia cảnh sát trị. Chính ông ta đã cho tôi cơ hội, để đoạn tuyệt với nhau vĩnh viễn.

Thật vậy, ông Diệm loan báo vào ngày 20 tháng 10 cái gọi là trưng cầu dân ý, do ý chí của dân chúng Việt Nam quyết định. Câu hỏi trong cuộc trưng cầu dân ý là:

“Tôi truất phế Bảo Đại và chấp thuận Ngô Đình Diệm làm Quốc trưởng Việt Nam, với nhiệm vụ đặt nền móng dân chủ”

“Tôi không truất phế Bảo Đại, và không chấp nhận Ngô Đình Diệm là Quốc trưởng để đặt một nền móng dân chủ”.

Sự trình bày thật khôn khéo, sự lựa chọn của cử tri đã được hướng dẫn rõ ràng.

Dựa vào công tác, chức Thủ tướng không được trao cho nhiệm vụ tổ chức loại thăm dò liên can đến chế độ, ngày 18 tháng 10, tôi chấm dứt nhiệm vụ của Ngô Đình Diệm.

Ngày hôm sau, tôi lệnh cho văn phòng tôi trao cho các chính phủ Pháp, Mỹ, Anh, Ấn Độ và Nga, một công văn, yêu cầu sự giao hảo giữa hai miền Bắc và Nam Việt Nam phải được bình thường hóa, và hướng vào sự hợp tác chân thành, mặc dù mỗi bên không cần phải từ chối vị trí chính trị của mình.

Cũng trong thời gian ấy, tôi gửi cho dân chúng Việt Nam một bức thông điệp.

Trước hết, tôi giải thích lý do nào tôi đã chọn Diệm vào tháng 6 năm 1954; và nhất là tính chất giao hảo của ông ta với người Mỹ. Sau rồi, tôi tỏ ý thất vọng trước những biện pháp độc tài mà mỗi ngày ông ta càng đi sâu vào, biện pháp mà tôi kết án một cách dứt khoát. Cuối cùng, tôi kết luận là cảnh giác dân chúng Việt Nam phải đề phòng con người có thể đưa họ tới một tương lai đen tối của tàn phá, đói khổ và chiến tranh.

Tôi không có ảo tưởng nào, tôi không còn hậu thuẫn ở Sài Gòn nữa. Vả lại bức thông điệp này cũng không được phổ biến ở Việt Nam. Như mọi người từng biết chắc, Ngô Đình Diệm được bầu làm Quốc trưởng.

Ngày 26 tháng 10 năm 1955, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa được tuyên bố thành lập.

Nhưng nó không phải là nước Việt Nam, nước mà tổ tiên tôi và triều đại của tôi đã dầy công xây dựng, bảo vệ và tái thiết. Quân đội mà tôi tạo nên để giữ vứng nền độc lập ấy, đã trở thành một thứ lính bảo chính, nhằm để thực hiện các công tác mật vụ, nếu tối còn là Hoàng đế, tôi lại phải thoái ngôi lần nữa.

Chú thích:

(20) Chính phủ thứ hai của Diệm:

- Thủ tướng kiêm bộ Quốc phòng và Nội vụ: Ngô Đình Diệm

- Bộ trưởng phủ Thủ tướng: Trần Văn Soái và Nguyễn Thành Phương

- Bộ trưởng Ngoại giao: Trần Văn Đỗ

- Bộ trưởng Tư pháp: Bùi Văn Thinh

- Bộ trưởng Thông tin: Phạm Xuân Thái

- Bộ trưởng Tài chánh: Trần Hữu Phương

- Bộ trưởng Kinh tế: Lương Trọng Tường

- Bộ trưởng Canh nông: Nguyễn Công Hầu

- Bộ trưởng Công vụ: Trần Vạn Bách

- Bộ trưởng Kế hoạch: Nguyễn Văn Thoại

- Bộ trưởng Y tế: Huỳnh Kim Hữu

- Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục: Nguyễn Dương Đôn

- Bộ trưởng Xá hội: Nguyễn Mạnh Bảo

- Bộ trướng Lao động và Thanh niên: Nguyễn Tăng Nguyên

- Quốc vụ khanh đặc trách Quốc phòng: Hồ Thông Minh

- Quốc vụ khanh đặc trách Công vụ: Trần Ngọc Liên

- Quốc vụ khanh đặc trách Nội vụ: Huỳnh V Nhiệm và Nguyễn Văn Cát

- Phát ngôn viên chính phủ: Phạm Duy Khiêm và Bùi Kiện Tín.