Chương 1
Ngôi nhà lạnh lẽo và trống trải. Cái lạnh đã xâm lấn tới từng ngóc ngách nơi đây. Trong bồn tắm đã hình thành một màng băng mỏng. Cô ấy cũng đã có những biểu hiện tím tái.
Hắn thấy cô nằm đó trông giống một nàng công chúa. Công chúa băng.
Sàn nhà nơi hắn ngồi đã lạnh cóng, nhưng hắn chẳng bận tâm. Hắn đưa tay chạm vào cô.
Máu trên hai cổ tay cô đã đông lại từ lâu.
Chưa bao giờ hắn thấy yêu cô hơn lúc này. Hắn vuốt ve cánh tay cô như thể ve vuốt linh hồn lúc này đã rời thân xác cô.
Lúc bỏ đi, hắn không quay lại nhìn. Không phải là ‘vĩnh biệt’, chỉ là ‘cho đến lúc gặp lại’ mà thôi.
—★—Eilert Berg không phải là một người hạnh phúc. Ông hô hấp một cách khó nhọc, hơi thở từ miệng phả ra thành những cụm khói trắng, nhưng đối với ông sức khoẻ không phải là vấn đề đáng lo ngại nhất.
Thời trẻ, Svea đẹp đến mức ông thật khó có thể chờ tới đêm tân hôn. Khi ấy, bà thật dịu dàng, đáng yêu và có phần rụt rè. Nhưng giai đoạn trẻ trung tràn trề ham muốn ấy thật vô cùng ngắn ngủi vì bản chất thực của Svea đã nhanh chóng lộ ra. Bà trở thành người nắm quyền trong nhà và kìm kẹp ông trong suốt gần năm mươi năm hôn nhân. Nhưng Eilert có một bí mật. Đây là lần đầu tiên ông thấy một cơ hội để giành lấy chút tự do trong những năm tháng hoàng hôn của cuộc đời và ông không muốn bỏ lỡ nó.
Là một ngư phủ, ông đã lao động cật lực cả đời nhưng chỉ vừa đủ cung cấp cho Svea và các con. Sau khi ông nghỉ hưu, cả gia đình họ chỉ sống dựa vào số tiền lương hưu còm cõi của ông. Không một xu dính túi, có muốn bỏ đi đâu đó sống một mình cũng không được. Thế rồi cơ hội đó đột nhiên xuất hiện, giống như một món quà từ trên trời rơi xuống, mà yêu cầu lại vô cùng đơn giản. Nếu ai đó muốn trả cho ông một món tiền kếch xù chỉ để làm việc vài tiếng một tuần thì đâu phải là vấn đề của ông. Ông chẳng có gì phải thắc mắc. Chỉ trong một năm, số tiền ông tích trữ trong chiếc hộp gỗ phía sau thùng phân xanh đã dày lên đáng kể và chẳng mấy chốc ông sẽ gom đủ số tiền để bỏ trốn tới một nơi có khí hậu ôn hoà hơn.
Ông dừng lại một chút để lấy hơi trước con dốc cuối dẫn lên ngôi nhà và nắn bóp hai bàn tay vốn bị viêm khớp của mình. Khí hậu ở Tây Ban Nha, hay cũng có thể là Hy Lạp sẽ làm tan đi cơn giá buốt tới từ sâu trong tâm khảm ông. Eilert nhận ra rằng ông còn ít nhất mười năm nữa trước khi đi sang thế giới bên kia và ông những muốn tận hưởng tối đa những năm tháng đó. Hoạ có điên mới ở lại với mụ già nanh độc kia.
Những cuộc đi dạo vào sáng sớm chính là thời điểm yên bình và tĩnh lặng nhất trong ngày của ông, cũng là một cách rèn luyện sức khoẻ cần thiết. Ông luôn đi theo một lộ trình và những người biết thói quen đó vẫn thường tới chào hỏi và trò chuyện với ông trong chốc lát. Ông đặc biệt thích nói chuyện với cô gái xinh đẹp trong ngôi nhà trên đỉnh đồi, cạnh trường Håkebacken. Cô chỉ tới đây vào cuối tuần, lúc nào cũng chỉ có một mình, nhưng rất vui vẻ dành thời gian nói chuyện với ông về thời tiết. Alexandra cũng quan tâm tới những chuyện trước đây ở Fjällbacka, một chủ đề mà Eilert rất thích thảo luận. Cô lại rất ưa nhìn. Mặc dù đã lớn tuổi nhưng ông vẫn rất khoái điều đó. Dĩ nhiên, xung quanh cô có rất nhiều lời đồn thổi nhưng nếu tin vào những chuyện ngồi lê đôi mách của đám đàn bà thì sẽ chẳng làm nên cơm cháo gì.
Một năm trước, trong lúc ông đi dạo cô đã nhờ ông ghé vào kiểm tra nhà cô một chút vào các buổi sáng thứ Sáu. Căn nhà đã cũ, hệ thống sưởi và ống nước hoạt động hơi thất thường. Cô không muốn cuối tuần trở về trong một ngôi nhà lạnh lẽo. Cô sẽ đưa cho ông một chiếc chìa khoá để ông có thể kiểm tra xem mọi thứ có ổn thoả không. Gần đây trong vùng cũng có nhiều vụ đột nhập trái phép nên ông tiện thể sẽ để ý xem cửa sổ và cửa ra vào có dấu hiệu xâm nhập từ bên ngoài không.
Công việc chẳng có vẻ gì là nặng nhọc, nhưng hằng tháng một chiếc phong bì hậu hĩnh đề tên ông sẽ nằm chờ trong hộp thư. Bản thân ông cũng cảm thấy vui vẻ vì mình vẫn còn hữu dụng. Với một người cả đời làm việc chăm chỉ như ông, những ngày tháng nhàn rỗi như thế này quả là khó sống.
Cánh cửa xập xệ kêu cọt kẹt khi ông đẩy cửa bước vào vườn. Tuyết vẫn chưa được dọn, có lẽ ông phải nhờ một thanh niên hàng xóm tới giúp, đó vốn không phải là công việc của phụ nữ.
Ông thò tay vào túi tìm chìa khoá, cẩn thận không làm rơi xuống lớp tuyết dày. Nếu lúc này phải quỳ xuống tìm chìa khoá thì chắc ông sẽ không đứng dậy nổi nữa. Các bậc thang dẫn lên cửa trước đã đóng băng và rất trơn nên ông phải bám vào tay vịn. Vừa định tra chìa vào ổ thì ông phát hiện là cửa đã mở. Ngạc nhiên, ông đẩy cửa bước vào trong tiền sảnh.
“Xin chào, có ai ở nhà không vậy?”
Có lẽ cô ấy về sớm hơn một ngày. Nhưng không có ai trả lời. Ông nhìn thấy làn hơi trắng phả ra từ miệng mình và nhận thấy không khí bên trong nhà lạnh đến kinh người. Thoạt đầu ông không biết phải làm gì. Có gì đó không ổn, cực kỳ không ổn, nhưng không phải là do hệ thống sưởi bị trục trặc.
Ông đi qua các phòng. Không có gì xáo trộn. Ngôi nhà vẫn ngăn nắp như thường lệ. Đầu máy video và ti vi vẫn ở nguyên chỗ cũ. Sau khi đã kiểm tra toàn bộ tầng dưới, Eilert đi lên cầu thang. Các bậc thang dốc ngược khiến ông phải bám chặt lấy tay vịn. Lên tới tầng trên, trước hết ông đi vào buồng ngủ. Nữ tính, đầy gu thẩm mỹ và ngăn nắp như những phần còn lại của ngôi nhà. Chăn đệm đã được trải ra và cuối chân giường có một chiếc va li. Có vẻ như đồ vẫn chưa dỡ ra. Lúc này ông lại thấy mình hơi ngớ ngẩn. Cô ấy hẳn tới sớm hơn một chút, phát hiện ra hệ thống sưởi không hoạt động nên đi tìm ai đó tới giúp mà thôi. Nhưng thực lòng, ông cũng không tin vào cái lý do này lắm. Có gì đó không ổn. Ông có thể cảm nhận nó trên các khớp xương của mình, giống như đôi khi ông vẫn cảm nhận được khi một cơn bão tới gần. Thế nên ông vẫn thận trọng tiếp tục kiểm tra ngôi nhà. Căn phòng kế tiếp rất rộng, trần nghiêng áp mái với những thanh xà bằng gỗ. Hai chiếc sofa kê đối diện hai bên lò sưởi. Ngoài vài quyển tạp chí nằm rải rác trên mặt bàn thì mọi thứ đều không xê dịch. Ông quay trở xuống tầng trệt. Ở đây cũng vậy, tất cả đều ở nguyên chỗ cũ. Từ bếp cho tới phòng khách không thấy gì bất thường. Chỉ còn lại duy nhất phòng tắm. Có gì đó khiến ông khựng lại trước khi đẩy cửa bước vào. Trong nhà vẫn không có lấy một tiếng động. Ông đứng đó một lúc, hơi do dự, cho rằng hành động của mình có phần lố bịch, nhưng rốt cuộc vẫn kiên quyết đẩy cánh cửa phòng tắm ra.
Vài giây sau đó, ông vội vã lao ra cửa với hết tốc lực mà tuổi tác của ông cho phép. Cho tới phút cuối ông mới nhớ ra rằng các bậc thang rất trơn, ông vội bám vào tay vịn bên cạnh để khỏi ngã lộn cổ.
Ông gần như lê qua đống tuyết trong vườn và buột miệng chửi thề, khi mãi mới đẩy cánh cửa bị kẹt. Ra được tới hè đường thì ông dừng lại, không biết phải làm gì tiếp theo. Ông chợt nhìn thấy dưới phố có ai đó đang tiến nhanh về phía mình và nhận ra Erica, con gái của Tore. Ông liền cất tiếng gọi.
—★—Cô rất mệt. Mệt chết đi được. Erica Falck tắt máy tính và ra bếp rót một tách cà phê mới. Cô cảm thấy áp lực từ mọi phía. Bên nhà xuất bản muốn cô nộp bản thảo vào tháng Tám mà cô thì gần như chưa đụng bút. Đó là một cuốn sách vết về Selma Lagerlöf, quyển tiểu sử thứ năm về các nữ văn sĩ Thuỵ Điển của cô, cũng được kỳ vọng là tác phẩm xuất sắc nhất, nhưng cô hầu như chẳng còn chút hứng thú nào để bắt đầu. Đã hơn một tháng kể từ khi bố mẹ cô qua đời nhưng nỗi đau thương vẫn y nguyên như cái ngày cô nhận được tin dữ. Việc dọn dẹp ngôi nhà của bố mẹ cũng không diễn ra nhanh gọn như cô hy vọng. Mọi thứ đều khơi dậy ký ức. Phải mất hàng giờ để xếp đầy một thùng đồ, bởi mỗi vật phẩm trong đó đều tràn ngập những hình ảnh về một cuộc đời đôi khi vô cùng gần gũi, nhưng đôi khi lại rất xa vời. Việc đóng đồ cũng không thể vội vàng. Căn hộ của cô ở Stockholm đã cho người khác thuê và có lẽ sẽ tốt hơn nếu cô ở lại đây trong căn nhà của bố mẹ mình tại Fjällbacka mà sáng tác. Ngôi nhà nằm ở Sälvik, một khu ngoại vi của thị trấn, khung cảnh yên bình.
Cô ngồi ngoài hiên nhà vây kín, nhìn về phía các hòn đảo và rặng đá ngầm ở ngoài khơi. Cô vẫn luôn ngây ngất trước khung cảnh đó. Mỗi mùa là một phong cảnh riêng, vô cũng mỹ lệ, giống như ngày hôm nay, vạn vật tắm dưới ánh mặt trời rực rỡ và những thác ánh sáng lấp lánh trên lớp băng dày ngoài mặt biển. Cha cô hẳn sẽ yêu thích một ngày như thế.
Cô có cảm giác cổ họng như đang thít lại và không khí trong nhà đột nhiên trở nên bí bức. Cô quyết định ra ngoài đi dạo một lúc. Nhiệt kế cho thấy nhiệt độ bên ngoài đang vào khoảng âm mười lăm độ nên cô mặc rất nhiều quần áo. Cô vẫn cảm thấy lạnh khi bước ra khỏi cửa nhưng đi được một lúc thì bắt đầu ấm dần lên.
Bên ngoài vô cùng yên tĩnh. Không một bóng người. Âm thanh duy nhất cô nghe thấy chính là hơi thở của mình. Thật là một cảnh tượng hoàn toàn đối nghịch với mấy tháng mùa hè khi cả thị trấn tràn ngập sức sống. Erica thật muốn tránh xa Fjällbacka khi mùa hè đến. Tuy biết sự sống còn của thị trấn này phụ thuộc vào khách du lịch nhưng cô vẫn không tài nào xoá bỏ được cái cảm giác mỗi khi mùa hè tới nơi này lại bị một đội quân châu chấu xâm chiếm. Năm nào cũng vậy, một con quái vật nhiều đầu dần dần nuốt trôi khu làng chài cũ bằng cách mua trọn nhưng nhà bên mép nước tạo ra một thị trấn ma suốt chín tháng còn lại.
Nghề cá vốn là sự sống của Fjällbacka trong nhiều thế kỷ. Môi trường khắc nghiệt và cuộc đấu tranh sinh tồn dai dẳng khi mọi thứ đều phụ thuộc vào việc luồng cá trích có lộn ngược dòng hay không đã khiến cho người dân thị trấn trở nên mạnh mẽ và gai góc. Rồi Fjällbacka trở thành một điểm du lịch thu hút các du khách lắm tiền. Đó cũng là khi nghề cá mất đi tầm quan trọng và Erica có thể nhìn thấy những người dân địa phương ngày càng cúi thấp đầu. Những người trẻ tuổi thì chuyển đi nơi khác còn những người lớn tuổi thì mơ mộng về những ngày xưa cũ. Cô cũng chính là một trong những người lựa chọn rời đi.
Cô rảo bước, rẽ trái lên con dốc dẫn tới trường Håkebacken. Lên tới đỉnh dốc thì Erica nghe thấy Eilert Berg đang la hét gì đó, không tài nào đoán được ông muốn nói gì. Ông vẫy tay và tiến về phía cô.
“Cô ấy chết rồi.”
Eilert thở hổn hển một cách khó nhọc, từ trong lồng ngực, ông phát ra một thứ âm thanh khò khè đáng sợ.
“Xin bác hãy bình tĩnh, bác Eilert. Đã xảy ra chuyện gì?”
“Cô ấy nằm ở đó! Đã chết.”
Ông vừa nhìn cô vẻ van lơn vùa chỉ về cánh cửa lớn màu xanh nhạt của ngôi nhà trên đỉnh đồi.
Phải mất một lúc Erica mới hiểu ông định nói gì. Lúc này cô đã xô cánh cổng kẹt cứng phía trước và leo lên cửa chính của ngôi nhà. Eilert vẫn để cửa mở và Erica thận trọng bước qua ngưỡng cửa vào trong, không dám chắc điều gì đang chờ đợi mình. Cũng không nghĩ đến chuyện đưa ra câu hỏi.
Eilert theo sau một cách nặng nhọc, vừa đi vừa chỉ về phía phòng tắm dưới tầng trệt. Erica không vội. Cô quay lại nhìn Eilert vẻ dò hỏi. Mặt ông tái mét và giọng ông thều thào: “Ở trong đó.”
Đã lâu rồi Erica không tới đây nhưng cô từng rất quen thuộc với ngôi nhà này và biết đích xác vị trí buồng tắm. Giá lạnh khiến cô rùng mình dù đã mặc rất nhiều quần áo. Cánh cửa phòng tắm từ từ mở ra và cô bước vào bên trong.
Cô không biết mình có thể đúc kết gì từ những thông tin ngắn ngủi của Eilert nhưng cô thực sự không trông chờ việc phải nhìn thấy máu. Toàn bộ phòng tắm đều lát gạch men trắng nên hiệu ứng càng rõ rệt khi nhìn thấy máu ở bên trong và xung quanh bồn tắm. Trong giây lát cô còn cảm thấy sự tương phản giữa hai màu sắc đó thật là đẹp cho tới khi cô phát hiện ra trong bồn tắm có người.
Bất chấp những vệt trắng và tím tái bất thường trên cơ thể nạn nhân, Erica lập tức nhận ra đó là Alexandra Wijkner, nhũ danh Carlgren, con gái của gia đình chủ nhân ngôi nhà này. Khi còn nhỏ hai người bọn họ là bạn chí thân, nhưng đó đã là chuyện từ lâu lắm rồi. Người phụ nữ đang nằm trong chiếc bồn tắm kia trông thật xa lạ.
Ơn giời, mắt người chết đã khép, còn đôi môi có màu xanh hơi lấp lánh. Một lớp băng mỏng đã hình thành xung quanh cơ thể, hoàn toàn che khuất hạ thân. Cánh tay phải, ngang dọc vết máu, khẽ rủ trên thành bồn tắm, màu từ những ngón tay rỏ xuống thành nhưng bãi máu đông trên sàn. Trên thành bồn có một lưỡi dao cạo. Cánh tay trái chỉ để lộ phần từ khuỷu trở lên, phần còn lại đã bị chôn dưới lớp băng. Hai đầu gối nhô lên khỏi bề mặt nước đông cứng. Mái tóc dài màu vàng của Alex trải rộng như một cánh quạt phủ kín một đầu bồn tắm, trông mỏng manh thê lương và đã đông cứng lại trong giá lạnh.
Erica đứng đó nhìn Alex một lúc lâu. Cả người cô run lên, vì lạnh và vì sự cô độc phơi bày trong cảnh tượng rùng rợn kia. Và rồi cô lặng lẽ ra khỏi đó.
—★—Sau đó, trong đầu óc cô chỉ còn lại những hình ảnh mờ tịt. Cô lấy điện thoại di động gọi cho bác sĩ trực ban rồi ngồi chờ với Eilert cho tới khi bác sĩ và xe cứu thương xuất hiện. Cô nhận ra bản thân đang có dấu hiệu bị sốc nặng, giống những triệu chứng đã xảy ra khi nghe tin bố mẹ cô bị tai nạn nên khi về tới nhà, việc đầu tiên cô làm là rót một ly cognac đầy. Bác sĩ chắc sẽ không khuyên cô làm thế thế nhưng thực sự làm cô hết run rẩy.
Hình ảnh của Alex khiến cô nhớ lại những kỷ niệm thời thơ ấu. Hơn hai mươi lăm năm trước hai người bọn họ là bạn chí thân, cho dù sau đó có bao nhiêu người xuất hiện rồi biến mất trong cuộc đời cô thì Alex vẫn giữ một vị trí quan trọng. Hồi ấy họ chỉ là hai đứa trẻ. Lúc trưởng thành thì lại giống như hai kẻ xa lạ. Cho dù là vậy Erica cũng không tài nào thuyết phục được bản thân tin rằng Alex đã tự sát, bất chấp cảnh tượng cô vừa chứng kiến. Alexandra mà cô biết là một mẫu người tự tin, tràn trề sức sống. Một người phụ nữ quyến rũ, quyết đoán, biết cách toả sáng và lay động lòng người. Theo những gì cô nghe được thì Alex có một cuộc sống rất dễ chịu, xứng với cô ấy. Alex điều hành một phòng tranh ở Göteborg, kết hôn với một người đàn ông vừa thành đạt vừa tử tế và sống trong một ngôi nhà to như dinh thự trên đảo Särö. Nhưng rõ ràng, có chuyện tồi tệ gì đó đã xảy ra.
Erica cảm thấy đã đến lúc phải thay đổi chủ đề liền bấm điện thoại gọi cho em gái.
“Em đang ngủ đấy à?”
“Chị nói đùa à? Adrian làm em dậy từ lúc ba giờ sáng và tới gần sáu giờ mới chịu ngủ lại, thì lại tới lượt Emma thức giấc và đòi chơi.”
“Lucas không thể dậy giúp em một lần sao?”
Đáp lại cô chỉ là cái im lặng tới lạnh người từ phía đầu dây bên kia, và Erica cố nhịn không nói gì.
“Anh ấy có một cuộc họp quan trọng ngày hôm nay nên anh ấy cần phải ngủ. Dạo này công việc của anh ấy có quá nhiều đảo lộn. Công ty đang trong giai đoạn chiến lược sống còn.”
Anna càng lúc càng lớn tiếng và Erica có thể nghe thấy chút cáu giận trong giai điệu của em gái mình. Lucas lúc nào cũng có sẵn lý do và Anna có lẽ chỉ nhắc lại y nguyên những gì anh ta đã nói. Nếu không phải là một cuộc họp quan trọng hay đầu óc căng thẳng bởi những quyết định có tầm vóc lớn lao thì là thần kinh bị áp lực nặng nề khi phải nắm giữ trọng trách của một doanh nhân thành đạt, toàn những lời từ chính miệng anh ta phun ra. Thế nên mọi trách nhiệm đối với lũ trẻ đều đổ xuống đầu Anna. Khi hai chị em gặp nhau trong lễ tang của bố mẹ, Anna trông phải già đi đến chục tuổi. Với một đứa con gái ba tuổi luôn chân luôn tay và một đứa trẻ sơ sinh mới bốn tháng, Anna trông già hơn rất nhiều so với tuổi ba mươi của mình.
“Cục cưng, không được sờ vào đó,” Anna chợt hét lên bằng tiếng Anh.
“Thật tình, em không nghĩ là đến lúc phải nói chuyện với Emma bằng tiếng Thuỵ Điển rồi ư?”
“Lucas cho rằng ở nhà nên nói tiếng Anh. Anh ấy bảo đằng nào thì bọn em cũng sẽ chuyển về London trước khi con bé đi học.”
Erica đã quá ngán khi nghe thấy những cụm từ kiểu “Lucas nghĩ thế này”, “Lucas nói thế nọ”, “Lucas cho rằng”… Trong mắt cô, người em rể ấy chính là một tên khốn hạng nhất.
Anna đã gặp anh ta khi đang làm nghề giữ trẻ ở London và ngay lập tức bị quyến rũ trước sự tấn công dồn dập từ nhà kinh doanh chứng khoán thành đạt Lucas Maxwell, hơn cô mười tuổi. Cô từ bỏ mọi kế hoạch lên đại học để toàn tâm toàn ý phấn đấu trở thành một người vợ lý tưởng, hoàn hảo. Nhưng Lucas là một người không bao giờ mãn nguyện, và thế là Anna, một cô gái từ nhỏ chỉ làm theo ý mình, sau khi kết hôn đã hoàn toàn huỷ diệt cá tính của bản thân. Trước khi lũ trẻ ra đời, Erica vẫn nuôi hy vọng rằng em gái cô sẽ tỉnh ra, bỏ Lucas và sống cuộc đời của chính mình. Nhưng khi Emma rồi Adrian ra đời thì Erica đành phải thừa nhận rằng cái gã em rể đáng ghét kia, thật không may, vẫn còn ở đó.
“Chị đề nghị không nói tới Lucas và những ý kiến nuôi dạy con của anh ta nữa. Hai đứa cháu chị dạo này có quậy phá gì không?”
“Thì vẫn thế, chị biết đấy… Hôm qua thì Emma lên cơn gào khóc rồi nghịch ngợm cắt hỏng một đống quần áo trẻ con trước khi em phát hiện ra. Còn Adrian suốt ba hôm nay, nếu không nôn thì la hét ầm ĩ cả ngày.”
“Có vẻ như em đang cần thay đổi không khí một chút đấy! Sao không mang hai đứa trẻ tới đây một tuần đi? Chi cũng có một đống việc cần nhờ em đấy. Sau đó còn một loạt giấy tờ phải giải quyết nữa.”
“À, thật ra thì… Bọn em cũng đang định bàn với chị về chuyện đó.”
Như thường lệ, theo thói quen mỗi khi có chuyện khó nói thì giọng của Anna lại trở nên run rẩy. Erica lập tức chuẩn bị tinh thần. Nghe thấy từ “bọn em” là cô đã có dự cảm xấu rồi. Lucas mà dính vào việc gì thì chỉ anh ta có lợi còn những người khác đều sẽ bị thiệt.
Erica đợi Anna nói tiếp.
“Lucas và em đang tính quay trở về London ngay khi chi nhánh Thuỵ Điển có thể tự vận hành. Chúng em thật tình không định mất thời gian với việc giữ lại một ngôi nhà ở đây. Mà chị cũng thế, phải trông coi một ngôi nhà lớn ở quê cũng chả có gì hay ho. Ý em là, không có gia đình, một thân một mình…”
Bên kia đầu dây bỗng trở nên yên lặng.
“Ý em là gì?”
Erica vặn một lọn tóc xoăn quanh ngón trỏ của mình, một thói quen có từ thời thơ ấu, cho thấy cô đang tức giận.
“Thì… Lucas cho là chúng ta nên bán ngôi nhà của bố mẹ đi. Giữ lại và phải trông nom nó thật không dễ dàng. Bên cạnh đó, bọn em đang muốn mua một ngôi nhà ở Kensington khi về Anh và mặc dù Lucas kiếm được bộn tiền thì số tiền bán nhà vẫn giúp được đáng kể. Ý em là một ngôi nhà trên bãi biển phái Tây ở khu vực đó sẽ phải bán được mấy triệu kronor là ít. Người Đức đang cuồng lên vì những ngôi nhà nhìn ra biển và có không khí đại dương đấy thôi.”
Anna tiếp tục đưa ra các lý lẽ nhưng Erica cảm thấy cô đã nghe đủ, liền lặng lẽ dập máy nửa chừng. Như thường lệ, Anna đã thành công trong việc giúp cô thay đổi chủ đề.
Đối với Anna, cô vẫn luôn giống như một người mẹ hơn là chị gái. Từ khi còn nhỏ, cô đã luôn bảo vệ và trông chừng con bé. Anna là một đứa bé rất bản năng, một cơn lốc luôn xoay theo cảm hứng của bản thân bất chấp hậu quả. Không biết bao nhiêu lần Erica đã buộc phải giúp Anna thoát khỏi những tình huống tồi tệ. Nhưng Lucas đã huỷ diệt tính bốc đồng và niềm vui sống của Anna. Đó là điều mà Erica sẽ không bao giờ có thể tha thứ cho anh ta.
—★—Cho tới khi thức dậy vào sáng hôm sau thì những sự kiện ngày hôm trước chỉ còn giống như một cơn ác mộng. Erica đã ngủ một giấc thật sâu và không mộng mị, nhưng vẫn có cảm giác như chưa hề chợp mắt. Cô mệt tới mức toàn thân nhức nhối. Bụng réo ầm ĩ nhưng sau khi nhòm vào tủ lạnh cô mới phát hiện ra muốn ăn thì phải ghé qua siêu thị của Eva mua ít đồ.
Cả thị trấn vắng tanh, ngay cả quảng trường Ingrid Bergman cũng chẳng còn bất kỳ dấu vết nào của những phiên chợ mùa hè tấp nập. Tiết trời thoáng đãng, không có sương hay mây mù và Erica có thể nhìn ra xa tận mũi ngoài của đảo Valö sừng sững phía chân trời, cùng với đảo Kråkholem tạo thành một dải hẹp đi ra quần đảo phía ngoài.
Cô không gặp ai cho tới khi đi được nửa đường tới phố Galärbacken. Đó là một người mà cô không muốn gặp nên theo bản năng cô định tìm cách tránh đi.
“Xin chào,” Elna Persson đã ríu rít lên tiếng, giọng điệu hớn hở, chẳng có chút ngượng ngùng nào. “Ái chà, đây không phải là nữ tác giả bé nhỏ của chúng ta đang đi dạo trong nắng mai đó sao?”
Erica khẽ rên lên trong lòng.
“Vâng ạ, cháu đang trên đường tới chỗ Eva mua một ít đồ.”
“Đứa trẻ đáng thương, cháu hẳn bị ảnh hưởng dữ lắm bởi sự việc khủng khiếp kia.”
Nói tới đây, chiếc cằm của Elna rung lên đầy phấn khích khiến cô liên tưởng tới một con chim sẻ béo ú. Cả người bà ta quấn trong chiếc áo khoác len màu xanh lá cây, trùm từ vai xuống chân trông giống như một khối thù lù không hình dáng. Hai tay bà ta túm chặt túi xách. Trên đầu là một chiếc mũ nỉ, quá nhỏ so với kích thước của chủ nhân, cũng một màu xanh rêu không lẫn vào đâu được. Hai mắt ti hí, gần như biến mất dưới những tầng mỡ kiên cố trên khuôn mặt. Lúc này, hai con mắt ấy đang dán chặt vào người Erica. Và rõ ràng là đang chờ câu trả lời của cô.
“Vâng, đúng thế ạ, thật chẳng dễ dàng gì.”
Elna gật đầu vẻ thông cảm. “Đúng thế, ta tình cờ gặp bà Rosengren và bà ấy bảo trong khi lái xe qua thì có nhìn thấy cháu và một chiếc xe cứu thương bên ngoài ngôi nhà của gia đình Carlgren, bọn ta ngay lập tức đoán là có chuyện khủng khiếp đã xảy ra. Rồi buổi chiều, lúc tình cờ gọi điện cho bác sĩ Jacobsson thì ta mới biết sự việc bi thảm đó. Tất nhiên ông ấy không nói chi tiết. Các bác sĩ đã thề phải giữ bí mật nghề nghiệp mà, chúng ta phải tôn trọng điều đó.”
Cô liền gật lấy gật để nhằm thể hiện sự tôn trọng của mình đối với lời thề giữ bí mật nghề nghiệp của bác sĩ Jacobsson.
“Còn trẻ như thế mà! Ai cũng ngạc nhiên không hiểu là nguyên do gì. Riêng ta, ta vẫn nghĩ có lẽ con bé làm việc nhiều quá. Ta quen mẹ con bé, Birgit, đã nhiều năm, đó là một phụ nữ thần kinh không ổn định, mà bệnh này rất có tính di truyền. Bà ấy cũng trở nên tinh vi, Birgit ấy, kể từ khi Karl-Erik nhận chức giám đốc ở Göteborg. Fjällbacka lập tức trở nên kém cỏi trong mắt bà ấy. Bà ấy thì phải sống ở thành phố lớn cơ. Nhưng ta phải nói với cháu rằng, tiền không mang lại hạnh phúc. Nếu đứa con gái kia tiếp tục được lớn lên ở đây thay vì nhổ hết gốc rễ dọn tới thành phố lớn thì mọi chuyện đã không kết thúc theo chiều hướng này. Ta biết, họ thậm chí còn tống con bé tới một trường tư ở Thuỵ Sĩ, mà cháu biết rồi đó, ở những nơi như thế, chả có gì hay ho. Và dĩ nhiên điều đó sẽ để lại một dấu ấn vĩnh viễn trong tâm hồn con bé. Trước khi họ chuyển khỏi đây, đó là một đứa con gái vui vẻ, hạnh phúc nhất mà chúng ta có thể hình dung ra. Mà không phải hai đứa bọn cháu đã từng chơi với nhau hồi bé đấy sao? Theo quan điểm của ta…”
Elna tiếp tục màn độc thoại của mình còn Erica đáng thương chịu trận bắt đầu suy nghĩ tìm cách thoát khỏi cuộc đối thoại càng lúc càng trở nên khó nghe này. Thế nên tranh thủ cơ hội Elna ngừng lại lấy hơi, cô liền lên tiếng:
“Cháu rất vui được nói chuyện với bác nhưng rất tiếc, cháu phải đi rồi. Cháu đang có quá nhiều việc phải giải quyết. Cháu biết là bác sẽ thông cảm cho cháu.”
Erica vừa nói vừa trưng ra vẻ mặt tội nghiệp nhất có thể, hy vọng Elna mủi lòng.
“Dĩ nhiên rồi, cô gái. Ta thật vô ý. Toàn bộ câu chuyện này quá nặng nề đối với cháu, lại xảy ra ngay sau thảm kịch của gia đình cháu. Cháu phải tha thứ cho sự bất cẩn của bà già này nhé.”
Nói tới đây, Elna chực chảy nước mắt khiến Erica khẽ cúi đầu hàm ơn rồi vội vàng nói lời tạm biệt. Cô khẽ thở phào, tiếp tục con đường tới siêu thị của Eva, hy vọng không phải chạm trán với các bà già ngồi lê đôi mách nữa.
Nhưng vận may không mỉm cười với cô. Cô đã bị phần lớn những người dân tò mò ở Fjällbacka tra khảo một cách không thương tiếc tới mức chẳng còn dám thở mạnh cho tới khi nhìn thấy ngôi nhà của mình. Thế nhưng cô cũng thu được một thông tin. Đó là bố mẹ Alex đã tới đêm trước và hiện tại đang ở nhà của bà dì.
Erica đặt túi đồ lên bàn bếp và bắt đầu phân loại thức ăn. Dù đã có chủ định trước nhưng rốt cuộc cô lại không mua nhiều đồ ăn kiêng như dự định. Xét cho cùng, trong một ngày tồi tệ như thế này mà cô không định ăn cho sướng miệng thì còn chờ tới khi nào? Vừa lúc, bụng cô cứ như nhận được tín hiệu, bắt đầu gào réo. Cô liền lấy ra hai chiếc đĩa bánh quế tương đương với mười hai điểm trên biểu điểm Weight Watchers* rồi dùng chúng với một ly cà phê.
Ngồi đây ngắm khung cảnh quen thuộc bên ngoài cửa sổ là một cảm giác tuyệt vời nhưng cô vẫn chưa hẳn quen với sự tĩnh mịch của ngôi nhà. Trước đây cô từng ở nhà một mình, nhưng không giống như thế này. Khi đó ngôi nhà vẫn luôn có một sự hiện diện, một sự cảm nhận, rằng ai đó sẽ bước vào cửa bất cứ lúc nào. Còn bây giờ, như thể linh hồn của ngôi nhà đã không còn nữa.
Chiếc tẩu hút của bố vẫn nằm cạnh cửa sổ, chờ người tới nhồi thuốc. Hương vị của nó vẫn lẩn quẩn trong bếp, nhưng mỗi ngày lại nhạt đi một chút.
Cô vẫn luôn thích mùi của chiếc tẩu thuốc. Khi còn nhỏ, cô thường ngồi trong lòng bố, tựa vào ngực ông và nhắm mắt lại. Mùi tẩu thuốc quanh quất trên quần áo của ông, là hương vị đặc trưng cho sự ấm áp yên bình của tuổi thơ.
Quan hệ của Erica với mẹ cô phức tạp hơn rất nhiều. Cô không thể nhớ nổi dù chỉ một lần cô nhận từ mẹ mình một cử chỉ dịu dàng, một cái ôm, một cái vuốt ve hay một lời từ ái. Elsy Falck là một người phụ nữ cứng rắn, không khoan nhượng, luôn chăm sóc nhà cửa hoàn hảo nhưng không bao giờ cho phép mình hạnh phúc với bất kỳ sự kiện nào trong đời. Bà là một người sùng đạo và giống như những cộng đồng duyên hải ở Bohuslän, bà lớn lên trong một thị trấn bị những bài giảng đạo của mục sư Schartau ảnh hưởng sâu sắc. Ngay từ lúc còn bé bà đã được giáo dục rằng cuộc đời kiếp này chỉ là một chuỗi bất hạnh, sự báo đáp chỉ đến ở kiếp sau. Erica vẫn thường tự hỏi một người bản chất tốt đẹp và hài hước như cha cô đã tìm thấy gì ở mẹ cô và có một lần, trong cơn giận dữ cô đã buột miệng hỏi ông như thế. Nhưng ông không hề phật lòng. Ông ngồi xuống, đặt tay lên vai cô rồi bảo không nên phán xét mẹ cô gay gắt quá. Có một số người không có khả năng bộc lộ tình cảm như những người khác, ông vừa nói vừa vuốt má cô, lúc đó đang đỏ bừng lên vì giận dữ. Cô từ chối nghe ý kiến của ông và vẫn một mực tin rằng ông làm thế chỉ để che giấu sự thật đã quá hiển nhiên rằng mẹ cô chưa bao giờ yêu cô và cô sẽ phải chấp nhận điều đó suốt đời mình.
Erica đột nhiên nổi hứng muốn tới thăm bố mẹ Alexandra. Mất đi bố mẹ là một nỗi đau nhưng đó cũng là một phần của quy luật tự nhiên. Nhưng mất đi một đứa con hẳn là vô cùng khủng khiếp. Dù sao, cô và Alexandra cũng từng là bạn chí thân. Dĩ nhiên, đó là chuyện của gần hai mươi lăm năm về trước nhưng có biết bao nhiêu kỷ niệm đẹp đẽ thời thơ ấu của Erica gắn liền với Alex và gia đình của cô ấy.
—★—Ngôi nhà trông giống như bị bỏ hoang. Dì và dượng của Alexandra sống ở Tallgatan, một con phố nằm giữa trung tâm Fjällbacka và khu cắm trại Sälvik. Các ngôi nhà ở đây đều nằm vắt vẻo trên đồi với những bãi cỏ dốc nghiêng xuống con đường dọc theo mép nước. Cửa chính nằm ở đằng sau ngôi nhà và Erica đã không do dự chút nào trước khi nhấn chuông. Tiếng chuông vang lên rồi tắt ngấm. Không nghe thấy tín hiệu gì từ phía bên trong, nhưng khi cô vừa định quay đầu bỏ đi thì cánh cửa từ từ mở ra.
“Có việc gì?”
“Xin chào, cháu là Erica Falck. Là người đã…”
Cô không nói hết câu, cảm thấy thật ngốc khi giới thiệu bản thân một cách khách khí như vậy. Dì của Alex, Ulla Persson, biết thừa cô là ai. Mẹ của Erica và Ulla cùng tham gia một nhóm hoạt động tôn giáo ở nhà thờ trong nhiều năm và Ulla thi thoảng có rẽ qua nhà cô dùng cà phê vào những ngày Chủ nhật.
Ulla đứng sang bên cạnh nhường chỗ cho Erica bước vào. Cả ngôi nhà không có lấy một ngọn đèn. Dù vẫn còn vài tiếng nữa mới đến buổi tối nhưng hoàng hôn đã bắt đầu buông xuống, bóng tối bắt đầu lan toả. Từ căn phòng phía cuối hành lang vang lên những tiếng khóc nghẹn. Erica cởi giày và áo khoác. Cô di chuyển một cách lặng lẽ, thận trọng vì không khí trầm lặng trong ngôi nhà. Ulla rẽ vào bếp để Erica tự tìm đường tới phòng khách. Khi cô đặt chân vào phòng khách thì tiếng nức nở dừng lại. Trên chiếc sofa hình chữ L trước một bức tranh treo tường kích thước khổng lồ, Birgit và Karl-Erik Carlgren ngồi cầm tay nhau với vẻ tuyệt vọng. Trên mặt họ là những vệt nước mắt vẫn còn ướt khiến Erica có cảm giác như cô đã xâm phạm vào chốn riêng tư của người khác. Có lẽ cô không nên xông đến đây. Nhưng bây giờ mới nghĩ tới thì đã quá muộn.
Cô cẩn thận ngồi xuống đối diện với họ, hai tay khép lại trên đùi. Không ai lên tiếng kể từ khi cô bước vào phòng.
“Con bé trông như thế nào?”
Lúc đầu, Erica không hiểu Birgit nói gì. Giọng của bà rất khẽ, cứ như một đứa trẻ đang thì thầm. Erica không biết phải trả lời ra sao nữa.
“Trông rất cô đơn,” rốt cuộc cô buột miệng nói ra và ngay lập tức cảm thấy hối hận. “Cháu không cố ý…” nhưng cô lại không nói hết được cả câu.
“Nó không tự sát đâu.”
Giọng của Birgit đột nhiên trở nên mạnh mẽ và dứt khoát. Karl-Erik khẽ siết chặt tay vợ và gật đầu đồng tình. Có lẽ nhìn thấy vẻ hoài nghi trên nét mặt của Erica nên Birgit nhắc lại: “Con bé không tự sát! Ta hiểu nó rõ hơn ai hết và ta biết nó sẽ chẳng bao giờ có khả năng tự lấy đi mạng sống của mình. Nó sẽ chẳng bao giờ có can đảm để làm điều đó. Cháu hẳn cũng nhận thấy điều đó! Cháu cũng biết rõ con bé mà!”
Mỗi từ nói ra, Birgit lại ngồi thẳng lưng lên một chút, và Erica nhìn thấy trong mắt bà loé lên một tia sáng. Bà không kiềm chế được, hết nắm rồi lại duỗi tay ra, đồng thời nhìn trừng trừng vào Erica cho tới khi một trong hai người bọn họ phải quay mặt đi. Erica chính là người bỏ cuộc trước. Cô quay đi nhìn quanh căn phòng để tránh đối diện với vẻ thương đau của mẹ Alex.
Căn phòng khá ấm cúng nhưng trang trí hơi quá cầu kì so với gu của Erica. Những tấm rèm cửa được treo một cách công phu với những nếp gấp li lớn, cùng một loại hoa văn với vỏ gối sofa. Các đồ vật trang trí bày khắp nơi. Những chiếc bát gỗ chạm khắc thủ công với những dây nơ thêu hình chữ thập và những con chó bằng sứ, hai mắt ướt át. Cũng may là căn phòng còn có ô cửa sổ lớn cứu vãn lại. Khung cảnh nhìn từ cửa sổ thật vô cùng diễm lệ. Erica những muốn dừng lại khoảnh khắc này, có thể tiếp tục nhìn ra phía bên ngoài cửa sổ thay vì quay trở lại với nỗi đau thương tang tóc của những người trong phòng. Nhưng cô không có cách nào khác là trở về với họ.
“Birgit, cháu thật sự không dám chắc. Cháu và Alexandra bạn bè với nhau đã là chuyện của hai mươi lăm năm trước. Hiện giờ, cháu không biết gì về cô ấy cả. Đôi khi, chúng ta thật không thể hiểu rõ một người như chúng ta vẫn tưởng…”
Khi nói những từ ấy, ngay cả Erica cũng cảm thấy xấu hổ. Những lời của cô giống như bị dội trở lại từ bốn bức tường. Lúc này, Karl-Erik mới lên tiếng. Ông gỡ khỏi vòng tay kìm chặt, run rẩy của Birgit, hơi cúi người về phía trước như thể muốn Erica nghe rõ từng từ ông sắp nói.
“Ta biết, nghe thì có vẻ như chúng ta đang muốn chối bỏ thực tế và có lẽ vào thời điểm này chúng ta không phải là những người có thể đưa ra những kết luận chính xác nhất. Nhưng nếu Alex tự sát vì một lý do nào đó thì con bé sẽ không bao giờ, ta nhắc lại, không bao giờ, lựa chọn phương thức đó. Chỉ cần một vết xước nhỏ cũng đủ khiến con bé toàn hoàn mất tự chủ và phải chờ người khác tới dán băng cứu thương. Đôi khi chỉ nhìn thấy máu thôi là nó đã muốn ngất rồi. Đó là lý do tại sao ta hoàn toàn có thể khẳng định rằng con bé hẳn sẽ chọn những phương thức khác, như uống thuốc ngủ chẳng hạn. Không đời nào có chuyện con bé lại dùng dao cạo tự rạch tay mình, hết tay này đến tay khác. Và rồi, như vợ ta nói đấy, Alex rất yếu đuối. Nó không phải dạng người can đảm. Một người có đủ dũng khí tự kết liễu đời mình phải là một người có nội tâm mạnh mẽ. Con bé không có được cái nội tâm mạnh mẽ ấy.”
Giọng nói của ông rất thuyết phục. Mặc dù cho rằng đó chỉ là chút hy vọng của hai con người tuyệt vọng nhưng trong lòng Erica cũng không khỏi nảy sinh chút nghi ngờ. Nghĩ lại mới thấy trong cái phòng tắm đó có gì rất bất thường lúc cô bước vào. Không phải chỉ là trong đó có một xác chết mà còn là thứ không khí kỳ lạ trong căn phòng. Giống như là còn có một sự hiện diện nào đó, một bóng ma. Cô chỉ có thể nghĩ ra ba từ ấy. Cô vẫn con rằng có một nguyên nhân nào đó đã khiến Alexandra Wijkner phải tự sát nhưng không thể phủ nhận thái độ kiên quyết của ông bà Carlgren đã phần nào tác động tới suy nghĩ của cô.
Cô chợt nhận ra rằng lớn lên Alex rất giống mẹ. Birgit Carlgren cũng nhỏ bé, mảnh mai, tóc vàng giống hệt con gái mình, chỉ khác là tóc Alex thì dài còn tóc của Birgit thì cắt ngắn theo kiểu đầu vuông thời thượng. Birgit mặc toàn đồ đen, dù đang đau buồn nhưng vẫn ý thức được vẻ ngoài nổi bật của mình, nhờ sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối. Những cử chỉ nhỏ đã bộc lộ bản chất phù phiếm của bà. Một bàn tay cẩn thận vuốt tóc, dựng thẳng lại chiếc cổ áo cho hoàn hảo. Erica nhớ lại tủ quần áo của Birgit ngày xưa thật giống như thánh địa Mecca đối với những đứa con gái tám tuổi thích chưng diện còn hộp trang sức của bà thì chẳng khác nào một vương quốc chốn thiên đường.
Bên cạnh Birgit, ông chồng trông rất bình thường. Không thể dùng từ không hấp dẫn để miêu tả, chỉ là trông ông chẳng có gì đáng chú ý. Karl-Erik Carlgren có một khuôn mặt ô van dài đầy nếp nhăn khắc khổ, phía trước đỉnh đầu tóc đã thưa dần. Ông cũng mặc toàn màu đen, nhưng trái ngược với vợ, trông ông lại càng xám xịt. Erica cảm thấy đã tới lúc phải rời đi. Cô tự hỏi mình thực sự trông đợi gì ở cuộc gặp gỡ này.
Cô đứng dậy và ông bà Carlgren cũng thế. Birgit ném cho chồng một cái nhìn giục giã như thể hối thúc ông đưa ra một yêu cầu gì đó. Rõ ràng hai người bọn họ đã thảo luận chuyện đó trước khi Erica xuất hiện.
“Chúng ta muốn hỏi cháu có thể viết một bài cáo phó cho Alex để đăng trên tờ Bohusläningen. Về cuộc đời của nó, về những giấc mơ và cái chết. Một sự tưởng niệm đối với con bé. Điều đó rất có ý nghĩa đối với ta và Birgit.”
“Hai bác không muốn đăng cáo phó trên tờ Göteborg-Posten à? Ý cháu là, cô ấy vốn sống ở Göteborg, và hai bác cũng vậy?”
“Fjällbacka vẫn luôn là nhà của chúng ta, và sẽ luôn là vậy. Đối với Alex cũng thế. Cháu có thể bắt đầu bằng việc liên lạc với chồng con bé, Henrik. Chúng ta đã nói chuyện với nó và Henrik rất sẵn lòng giúp cháu. Tất nhiên, chúng ta sẽ chi trả mọi phí tổn.”
Nói vậy rồi, họ đương nhiên cho rằng câu chuyện thế là đã định. Còn chưa kịp mở miệng nhận lời hay từ chối thì Erica đã thấy mình ngoài cầu thang với số điện thoại và địa chỉ của Henrik Wijkner trên tay. Cánh cửa đã khép lại sau lưng cô. Nhưng dù cô không muốn nhận trọng trách này thì một ý tưởng cũng đã bắt đầu len lỏi trong cái đầu văn sĩ của cô. Erica cố gắng đẩy ý tưởng đó ra khỏi đầu, có cảm giác mình thật là một người không ra gì khi dám nghĩ tới chuyện đó, nhưng nó dứt khoát không buông tha cô. Ý tưởng cho một quyển sách mới mà cô đã tìm kiếm bao lâu nay giờ sừng sững hiện ra trước mắt. Hành trình cuộc đời và số phận của một người phụ nữ. Một lời lý giải cho việc tại sao một phụ nữ trẻ trung, xinh đẹp, rõ ràng được cuộc đời ưu đãi lại tìm tới cái chết. Cô sẽ không nhắc tới tên của Alex, nhưng đó sẽ là một câu chuyện dựa trên những gì cô có thể tìm thấy về quá khứ và hành trình đã dẫn cô ấy tới cái chết. Cho tới nay Erica đã xuất bản bốn quyển sách nhưng tất cả đều là tiểu sử các nhà văn nữ nổi tiếng. Cô vẫn chưa có can đảm viết nên một câu chuyện của riêng mình nhưng cô biết những quyển sách vẫn luôn tồn tại đâu đó trong đầu cô, chờ ngày được in ra giấy. Đây có lẽ chính là thứ động cơ mà cô đang cần, nguồn cảm hứng mà cô mong chờ bấy lâu. Chưa kể việc cô từng quen biết Alex sẽ là một lợi thế. Về phương diện làm người, ý tưởng đó khiến cô hổ thẹn, nhưng với tư cách nhà văn, cô lại cảm thấy vô cùng hưng phấn.
—★—Cây cọ vẽ quết lên bức tranh những vạt màu đỏ. Hắn đã vẽ từ bình minh và lần đầu tiên, sau nhiều tiếng đồng hồ, hắn ngừng tay rồi lùi lại chiêm ngưỡng tác phẩm. Dưới con mắt nghiệp dư, đó chỉ là một mảnh hỗn độn những vệt màu đỏ, vàng, và cam, được sắp đặt một cách lộn xộn trên một bức tranh lớn. Còn với hắn, đó chính là sự bẽ bàng và bất lực được tái hiện dưới sắc màu của đam mê.
Hắn vẫn luôn vẽ với những gam màu đỏ. Từ trong bức tranh, quá khứ như đang gào thét, chế nhạo hắn. Hắn lại cắm bút và vẽ một cách điên cuồng.
Một tiếng nữa lại trôi qua, hắn nhận ra đã tới lúc phải thưởng cho buổi sáng của mình một ngụm bia. Hắn với lấy lon bia bên cạnh, phớt lờ việc đã dùng nó làm gạt tàn đêm trước. Tàn thuốc bám lên môi hắn nhưng hắn vẫn hăng hái uống hết chỗ bia thiu còn sót lại cho tới giọt cuối cùng rồi ném chiếc lon rỗng xuống sàn nhà.
Chiếc quần lót, thứ duy nhất hắn hiện mang trên người đã ố vàng hết phần đằng trước không biết là do bia hay nước tiểu. Mà cũng có thể là cả hai. Mái tóc dài nhờn bẩn của hắn xoã xuống vai. Ngực hắn xanh tái và hõm xuống. Ấn tượng toàn thể về vẻ ngoài của Anders Nilsson chính là thảm hoạ nhưng bức tranh trên giá vẽ của hắn lại thể hiện một tài năng hoàn toàn đối nghịch với sự bệ rạc của người hoạ sĩ.
Hắn ngồi bệt xuống sàn, dựa lưng vào bức tường đối diện với bức tranh. Bên cạnh hắn còn một lon bia chưa mở và hắn thích thú nghe tiếng lép bép lúc bật nắp. Những màu sắc trên bức tranh tiếp tục cười nhạo hắn một cách ầm ĩ, nhắc nhở một điều mà hắn muốn dành phần lớn thời gian trong đời để quên đi. Thế quái nào mà cô ta lại muốn phá huỷ mọi thứ vào lúc này! Sao cô ta không thể để mặc mọi thứ như trước đấy? Cái con điếm thối tha ích kỷ ấy, lúc nào cũng chỉ nghĩ cho mình. Ngọt ngào và ngây thơ tựa một nàng công chúa khốn khiếp. Nhưng hắn biết thừa phía sau bộ mặt đó. Hai người bọn họ là cùng một khuôn đúc ra. Những năm tháng khốn khổ đã rèn giũa, tôi luyện họ cùng với nhau vậy mà đột nhiên cô ta cho rằng cô ta có thể đơn phương thay đổi trật tự của mọi thứ.
“Mẹ nó chứ!”
Hắn gầm lên rồi ném thẳng lon bia vẫn còn một nửa vào bức hoạ. Nhưng bức tranh vẫn không bị rách, khiến hắn càng lộn ruột. Nó chỉ hơi méo đi còn lon bia thì lăn xuống sàn. Chất lỏng từ lon bia phun tứ tung trên bức hoạ và những màu cam, vàng, đỏ bắt đầu chảy lăn vào với nhau, tạo thành những vệt màu mới. Hắn sung sướng quan sát hiện tượng đó.
Hắn vẫn chưa thực sự tỉnh táo sau hai mươi tư tiếng đồng hồ tuý luý ngày hôm qua. Chỗ bia hắn vừa nốc nhanh chóng phát huy hiệu quả bất chấp tửu lượng và thói quen nhiều năm uống rượu nặng của hắn. Hắn từ từ chìm vào trạng thái lờ mờ quen thuộc với mùi của những bãi nôn oẹ cứ xộc lên mũi.
—★—Bà có chìa khoá riêng của căn hộ. Ở sảnh ngoài, bà cẩn thận chùi sạch giày của mình dù biết rằng làm thế chỉ tốn thời gian. Mọi thứ ở ngoài còn sạch hơn bên trong căn hộ. Bà đặt túi đồ ăn xuống, treo áo gọn gàng lên mắc. Cũng chẳng cần phải báo trước làm gì. Lúc này, chắc thằng bé đã ngủ rồi.
Căn bếp phía tay trái cửa ra vào vẫn ở trong tình trạng thê thảm như thường lệ. Bát đĩa bẩn từ nhiều tuần lễ chất thành đống, không chỉ trong bồn rửa mà còn cả trên bàn, ghế, thậm chí dưới sàn. Đầu lọc thuốc lá, lon bia, chia rỗng vứt khắp nơi.
Bà mở tủ lạnh cho thức ăn vào và nhận ra mình tới thật đúng lúc. Trong tủ rỗng không. Bà dọn dẹp một lúc rồi chất đầy thức ăn vào trong tủ. Sau đó bà đứng im một lúc để lấy lại sức.
Căn hộ chỉ có một phòng vừa dùng làm phòng khách vừa là phòng ngủ. Một số ít đồ đạc trong phòng cũng là do bà trang bị, và bà cũng chẳng thể làm gì hơn. Căn phòng bị một giá vẽ khổng lồ đặt cạnh cửa sổ chiếm cứ. Một tấm đệm bẩn thỉu ném trong góc. Bà chẳng bao giờ có đủ tiền mua cho thằng bé một cái giường tử tế.
Lúc đầu, bà cũng cố gắng giúp thằng bé duy trì mọi thứ ngăn nắp, căn hộ và bản thân nó. Bà quét dọn, nhặt nhạnh mọi thứ sau lưng con trai, giặt quần áo, tắm rửa cho nó. Lúc đó bà vẫn còn hy vọng rằng mọi chuyện sẽ thay đổi. Đâu sẽ vào đó. Nhưng đó đã là chuyện của rất nhiều năm trước. Rồi đến một ngày bà không còn có thể đối mặt với việc ấy nữa. Bây giờ bà chỉ có thể tự bằng lòng với việc ít nhất thằng bé không thiếu thức ăn.
Bà vẫn thường mong là bà còn có đủ sức lực. Tội lỗi đè nặng trên vai và trong lương tâm của bà. Trước đây, khi quỳ xuống lau dọn những bãi nôn của thằng bé, đôi khi bà có cảm giác như đã trả được phần nào món nợ do tội lỗi ấy gây ra. Nhưng bây giờ, bà chỉ còn biết tiếp tục gánh vác nó mà không còn chút hy vọng nào.
Bà nhìn thằng bé nằm thù lù một đống dưới chân tường. Một đống giẻ rách nặng mùi nhưng đằng sau vẻ ngoài bẩn thỉu ấy lại che giấu một tài năng hiếm có. Không biết bao nhiêu lần bà đã tự chất vấn bản thân rằng nếu ngày hôm đó, bà lựa chọn khác đi thì mọi chuyện sẽ như thế nào. Mỗi ngày trong suốt hai mươi lăn măm qua bà đều băn khoăn tự hỏi liệu cuộc đời có đổi thay, nếu bà hành động khác đi. Hai mươi lăm năm thật là một quãng thời gian dài để tự vấn.
Đôi khi bà cứ để mặc thằng bé nằm trên sàn mà rời đi. Nhưng giá lạnh từ bên ngoài đã tràn vào, sàn nhà như đóng băng dưới chân bà. Bà túm lấy một cánh tay đang thõng xuống như không có chút sinh khí nào của thằng bé. Chẳng có phản ứng gì. Bà liền túm lấy hai cổ tay và bắt đầu kéo thằng bé về phía chiếc đệm. Bà cố gắng vần thằng bé lên đệm và khẽ rùng mình khi phải áp tay lên lớp da nhệu nhão nơi thắt lưng của nó để dùng sức đẩy lên. Xoay sở một lúc bà cũng gần như thành công, phần lớn cơ thể thằng bé đã nằm trên đệm. Vì trong nhà không có chăn nên bà lấy chiếc áo khoác treo gần cửa đắp lên người nó. Xong việc, bà ngồi xuống, thở hồng hộc. Nếu không nhờ sức mạnh của hai cánh tay nhiều năm làm công việc lau chùi, quét dọn, bà sẽ không thể nào giúp được thằng bé ở độ tuổi như thế này nữa.
Một lọn tóc cáu bẩn rớt xuống khuôn mặt thằng bé và bà dịu dàng dùng ngón trỏ hất nó sang bên cạnh. Cuộc đời không diễn ra theo chiều hướng bà đã hình dung cho hai người bọn họ nhưng bà sẽ tận hiến phần còn lại của đời mình để gìn giữ những thứ ít ỏi mà họ đang có.
Mọi người thường đảo mắt đi chỗ khác khi thấy bà trên phố, nhưng cũng đủ để bà nhận ra vẻ thương hại trong ánh mắt của họ. Tai tiếng của Anders vốn vang dội khắp thị trấn, một thành viên thường trực của nhóm những người nghiện rượu nặng. Người ta khinh bỉ thằng bé và thương hại bà. Thật ra, phải ngược lại mới đúng. Bà mới chính là người đáng khinh còn thằng bé là người đáng thương. Chính bản tính mềm yếu của bà đã tạo ra kết cục này cho thằng bé. Bà không nên mềm yếu mới phải.
Bà ngồi đó nhiều giờ, vuốt ve vầng trán của con trai. Đôi khi nó sẽ cựa quậy trong giấc ngủ nhưng được vỗ về bởi sự âu yếm của bà. Bên ngoài cửa sổ, cuộc sống vẫn diễn ra bình thường, nhưng trong căn phòng, thời gian như đang dừng lại.
—★—Thứ Hai, thời tiết bớt băng giá hơn một chút nhưng bầu trời nặng trĩu những đám mây đen. Erica vốn là một người lái xe cẩn thận, nhưng giờ còn lái chậm hơn thường lệ để có thể dễ dàng phản ứng nếu đường bị trơn trượt. Lái xe vốn không phải là thế mạnh của cô nhưng cô thà một mình lái xe còn hơn chen chúc trên tàu hay xe buýt tốc hành tuyến E6.
Khi cô rẽ phải để nhập vào đường cao tốc, chất lượng tuyến đường tốt hơn nên cô có thể tăng tốc thêm một chút. Cô phải tới gặp Henrik Wijkner vào buổi trưa nhưng vì cô rời Fjällbacka từ sớm nên giờ có dư thời gian để tới Göteborg một cách thong thả.
Kể từ khi nhìn thấy Alex trong căn phòng tắm băng giá đó, đây là lần đầu tiên cô suy nghĩ về cuộc trò chuyện với Anna trên điện thoại. Cô vẫn không tin nổi là Anna có thể thực sự xúc tiến việc bán nhà. Dù sao đó cũng là ngôi nhà thời thơ ấu của họ và bố mẹ sẽ buồn xiết bao nếu biết điều đó. Nhưng hễ dính tới Lucas là chuyện gì cũng có thể xảy ra. Vì quá rõ thói vô trách nhiệm của Lucas nên cô thực sự cho rằng khả năng họ muốn bán ngôi nhà là có thật. Lucas không ngừng làm cô thất vọng nhưng hành động lần này quả thật vượt xa những gì anh ta đã làm trước đó.
Nhưng trước khi có thể cân nhắc chuyện này một cách cẩn thận thì cô phải tìm hiểu vai trò của cô về mặt pháp lý đối với ngôi nhà. Cho tới lúc ấy, cô sẽ không để âm mưu của Lucas hạ gục. Còn bây giờ, cô phải tập trung vào cuộc gặp sắp tới với chồng Alex.
Trên điện thoại, Henrik Wijkner có vẻ là một người dễ chịu và rõ ràng đã biết về nhiệm vụ của cô trước khi cô gọi đến. Dĩ nhiên là cô có thể tới rồi hỏi những việc liên quan đến Alex khi mà bố mẹ cô ấy coi trọng bài điếu văn đến vậy.
Dù muốn nhìn thấy ngôi nhà của Alex nhưng cô không hào hứng khi phải đối mặt với nỗi đau của người khác. Cuộc gặp gỡ với bố mẹ Alex đã rất thương tâm. Là một nhà văn, cô những muốn quan sát hiện thực từ một khoảng cách nhất định. Nghiên cứu nó từ xa một cách an toàn và khách quan. Đồng thời đây cũng lại là cơ hội để cô tìm hiểu về con người thật của Alex lúc trưởng thành.
Từ ngày đầu tiên đi học, Erica và Alex đã là hai người bạn không thể tách rời. Erica đã rất tự hào vì Alex chọn cô làm bạn. Alex lúc đó giống như một thỏi nam châm đối với tất cả những ai lại gần. Ai cũng muốn chơi với Alex và cô bé hoàn toàn nhận thức được sự nổi tiếng của mình. Nhưng Alex lại rất giữ kẽ, với một lòng tự tin mà cho tới bây giờ Erica mới nhận thấy có phần quá bất thường đối với một đứa trẻ. Tuy nhiên Alex luôn cởi mở, rộng rãi hào phóng, không có bất cứ dấu hiệu nào của một đứa trẻ nhút nhát, bất chấp bản tính kín đáo của mình. Chính cô ấy đã chọn Erica làm bạn. Chứ Erica chẳng bao giờ dám tự mình tiếp cận Alex. Họ là đôi bạn không thể chia cắt cho tới năm cuối cùng trước khi Alex chuyển đi và vĩnh viễn biến mất khỏi cuộc đời của cô. Alex ngày càng thu mình lại và Erica đã nhốt mình trong phòng nhiều giờ liền để khóc thương cho tình bạn đã mất. Rồi một ngày cô nhấn chuông nhà Alex và không có ai trả lời. Hai mươi lăm năm sau Erica vẫn nhớ như in cảm giác đau đớn khi cô phát hiện ra rằng Alex rời đi mà không hề nói với cô một câu dù chỉ là một lời tạm biệt. Cô không hề biết chuyện gì đã xảy ra. Là một đứa trẻ, cô tự trút hết mọi lỗi lầm lên đầu mình, đơn giản cho rằng Alex đã chán cô mà thôi.
Erica có chút khó khăn khi phải xuyên qua thành phố Göteborg để tới Särö. Cô khá thuộc đường phố ở đây, nơi dù cô đã trải qua bốn năm đại học nhưng hồi đó chưa có ô tô nên kinh nghiệm lái xe gần như con số không. Nếu có thể lái xe trên đường dành cho xe đạp thì còn được. Göteborg đúng là một cơn ác mộng đối với những người lái xe thiếu tự tin với hàng loạt đường một chiều, những nút giao hình xuyến lớn dày đặc xe cộ và những tiếng còi tàu điện không ngừng réo rắt bên tai. Mà mọi con đường dường như đều dẫn đến Hisingen, nằm ở phía Tây Bắc của thành phố. Chỉ cần rẽ sai một lần là chắc chắn thế nào cô sẽ phải đến đó.
Những chỉ dẫn của Henrik rất chính xác, cô ngay lập tức tìm đúng địa chỉ và lần này đã thoát khỏi cảnh đi nhầm tới Hisingen.
Ngôi nhà của họ thực sự vượt quá mọi tưởng tượng của cô. Đó là một dinh thự màu trắng khổng lồ từ cuối thế kỷ trước, nhìn ra biển với một chòi vọng lâu nhỏ, hứa hẹn những đêm mùa hè cuồng nhiệt. Khu vườn ẩn giấu dưới lớp tuyết dày hẳn được chăm sóc một cách cẩn thận. Chỉ nhìn riêng diện tích của nó thôi cũng biết là phải nhờ tới một bàn tay thợ làm vườn chuyên nghiệp, lành nghề.
Erica lái xe xuống một con đường với những hàng liễu rủ, xuyên qua một chiếc cổng sắt uốn cao và dừng lại trong khoảnh sân rải sỏi phía trước ngôi nhà.
Những bậc thang bằng đá dẫn lên một cánh cửa bằng gỗ sồi vững chãi. Không có chuông cửa theo kiểu hiện đại mà là một chiếc kiểng gõ lớn bằng kim loại. Cánh cửa được mở ra tức thì. Cô suýt cho rằng mình sẽ được một gia nhân khoác tạp dề trắng, đầu đội mũ tiếp đón thì một người đàn ông xuất hiện và ngay lập tức cô nhận ra đó hẳn là Henrik Wijkner. Anh ta thật sự rất điển trai và Erica thầm hài lòng vì đã dành chút thời gian chăm chút vẻ bề ngoài trước khi đi.
Cô bước vào một tiền sảnh rộng, thậm chí còn lớn hơn cả căn hộ của cô ở Stockholm.
“Xin chào, Erica Falck!”
“Xin chào, Henrik Wijkner! Nếu tôi không nhầm thì mùa hè năm ngoái chúng ta đã gặp nhau. Tại nhà hàng ở quảng trường Ingrid Bergman.”
“Phải, đúng thế. Ở quán Café Byggan. Cứ như chúng ta đã cách mùa hè cả một thế kỷ. Nhất là với thời tiết băng giá lúc này.”
Henrik lẩm bẩm gì đó nhằm đáp lại một cách lịch sự. Anh ta giúp cô cởi áo khoác rồi dẫn cô vào phòng khách phía cuối hành lang. Cô thận trọng ngồi xuống một chiếc sofa. Dù cho kém hiểu biết về đồ cổ đến đâu thì cô cũng có thể nhận biết