← Quay lại trang sách

- II -

TÔI LÀ một người khách... Chúng tôi nhìn Liên Hing có vẻ ngạc nhiên. Nhưng bà Liên Hing đã vội cắt nghĩa thêm : -Dạ, nhà tôi là một người khách lai... Ông Liên Hing lại láy lại : -Dạ, chính tôi là một người khách lai - dầu tôi lấy một người vợ tây lai, và tôi nói tiếng An nam thạo như một người An nam đặc.Trước kia, nhà tôi ở phố Cantonnais - một tòa nhà đồ sộ mà ngày nay người ta vẫn trông thấy. Nhưng mà ngày nay không còn là của tôi nữa. Hiện nay, nó thuộc về một người mà đời người ấy, rất dính líu vào cái sinh mạng của nhà tôi lúc bấy giờ. Tía tôi là một người Tàu ở Triều châu, thuộc tỉnh Quảng đông, qua An nam buôn bán. Lúc đầu, tía tôi bước vào xứ này với một cái nghề rất khinh, rất tồi tàn là nghề tẩm quất. Tẩm quất, nghĩa là đấm xương, cho những người đài các phong lưu đau ốm mỏi mệt vì quá nnàn rỗi. Cái nghề ấy không phải là một nghề có thể đưa người ta đến sự giàu sang được. Mỗi lần đấm xương cho người ta, có giỏi lắm thì được hào bạc là cùng. Thế mà các ngài nghĩ tía tôi đã phải để vào cái nghề ấy biết bao tâm trí, biết bao công phu, biết bao nghệ thuật, mới tập luyện được. Bẻ một đốt xương, thế nào cho thật kêu, mà không đau, tòi tưởng không phải là việc dễ. Thế mà, người ta có ai - ngay cả đến những người cầu đến sự tẩm quất - cũng đem lòng miệt thị cái nghề của tía tôi. Nhưng khi đã trèo non vượt bể qua đây, người ta còn lấy cái sự khen chê làm điều, thì chẳng là hẹp hòi lắm ư ? Và ở cái xấu nào, cũng có mặt tốt cả. Nghề tẩm quất không làm giàu cho tía tôi, nhưng nó là một cái quảng cáo rất mạnh cho tía tôi: khắp thành phố Hội an, ai ai cũng nói đến tía tôi và coi tía tôi như là một hiện tượng kỳ quái của nước Tàu lạc qua xứ Nam Việt vậy. Một hôm, tía tôi được lệnh cụ Thượng ở trên tỉnh gọi lên để ‘‘tầm quất’’ cho bà lớn. Đó là một cái vinh dự lớn nhất trong đời tía tôi và cuộc đời của tía tôi mỗi ngày mỗi thêm vững chãi hơn trước. Vì bà Thượng là người có bệnh đau xương: tía tôi ngày hai buổi, là một sự cần của bà Thượng. Bà lớn đã gần sáu mươi tuổi, mà thuở ấy tía tôi mới vào độ gần ba mươi. Kể thì cũng không thế nào tránh khỏi những điều dị nghị nọ kia. Nhưng mà bà Thượng cũng không thể tẩy ‘‘ tía’’ tôi được. Ai đã có bệnh mỏi xương, hãy chịu để cho người ta tẩm quất trong năm mười bận, sẽ biết cái sự tẩm quất là một cái ‘‘thú’’ rất hiếm ở đời. Một khi đã ‘‘ nghiền’’ khó lòng mà bỏ được. Tía tôi được cụ Thượng nuôi cho ở trong nhà, có lẽ khắp cả tỉnh đều xì xào nói đến tía tôi; nhưng mà cụ ông không thể không chìu cụ bà, mà để giữ tía tôi lại, rồi dần dần tía tôi được cả hai ông bà cùng tín nhiệm. Nguyên từ khi tới nhậm ở tỉnh này, cụ ông có tậu được mấy chục mẫu ruộng ở gần Hội-an độ ba cây số. Ngày thường, tía tôi được cụ bà cắt ra đấy, coi sóc bọn thợ thuyền làm lụng. Nhờ thế, tía tôi được làm quen với nghề đất ruộng. Mỗi năm, đến mùa gặt hay mùa đào bới, thì tía tôi được quyền tự thu nhận các hoa lợi, và đưa đi bán. Vì cụ Thượng không muốn giữ lâu những các thứ khoai lúa ở trong nhà : chắc các ông cũng biết, lúc bấy giờ, sự thủy lợi chưa được phát triển, còn vườn ruộng được một mùa thì mất đến hai ba mùa liên tiếp. Sự đói kém xảy ra luôn luôn. Mà trong lúc dân gian cực khổ đói khát, không lẽ quan cứ để lúa gạo trong kho chẳng đưa ra bán. Mà bán trong những lúc ấy, thì là mang tiếng đầu cơ. Còn như đem ra phát không thì dầu giầu có ức vạn, dầu có lòng từ tâm cho mấy cũng không thể nào làm nổi. Lấy thế cụ Thượng, tía tôi làm quen với nhà Denis Frères ở Tourane, bấy giờ đương cất gạo và khoai ngô nhất là ngô cho những hãng tư bán lớn ở Pháp. Mỗi khi có chuyến tàu đến Tourane, thì nhà Denis lại cho người đi lùng khắp các nhà qnê ở tỉnh Quảng nam để mua ngô gạo và đậu phụng. Năm ấy, là năm thứ nhất, nhà Denis buôn các thứ ấy, cho nên họ thiếu kinh nghiệm, họ phải mua bằng một giá rất hớ. Mà nhiều khi có chuyến tàu đến, nhà Denis lại không thể mua được nữa: nhà hàng cũng lỗ nhiều vì những lẽ đó. Tía tôi cho rằng cơ hội đã đến: là một người ‘‘khách trú’’, tía tôi cũng chỉ có cái chí nguyện là buôn bán một cách to lớn, một ngày kia trở nên một vị đại thương và lúc trở về Tàu sẽ làm rạng rỡ bà con làng nước. Xuất thân bằng nghề ‘‘tẩm-quất’’, tía tôi không bao giờ lại chỉ mong trọn đời vẫn là anh chàng ‘‘tẩm quất’’ Thế rồi, một hôm, lấy tư cách là người nhà của cụ Thượng, tía tôi đến thương lượng với hãng Denis: một ‘‘người khách’’ chỉ cái quốc tịch cũng đủ cho người tây họ tin ở sự ngay thẳng, tính siêng năng, và tài buôn bán của tía tôi. Sau khi đã suy nghĩ kỹ càng, tía tôi bàn với người chủ hãng Denis như thế này: - Sự buôn bán về ngô gạo của ông, xưa nay không phát đạt được như ý của ông, ngộ xét ra là vì lẽ ông không chịu trông xa: ông chỉ đợi kỳ tàu đến, ông mới cho người đi mua, mà đi mua tầng tháng một như thế, nhiều khi lại rất nguy cho ông nữa : giá vật không được thường, tùy sự nhiều ít mà lên xuống, ví dụ như ông mua tháng sáu tháng bảy, thì thế nào cũng đắt gấp đôi, hơn khi mua vào độ tháng chín, tháng mười. ‘‘Sự lên xuống thất thường ấy, tôi tưởng có thể làm sai hỏng cả sự trù tính của ông. Bây giờ tôi xin hiến ông một cách là một năm ông chỉ mua có hai kỳ thôi, vào độ hai mùa gặt ; như thế ông phải trong một lúc bỏ vốn ra thật nhiều, nhưng như thế, ông có thể lãi một cách chắc chắn và lãi được nhiều nữa. Ông chỉ làm một cái kho ở Tourane là đất nhượng địa xa sự trộm cướp để chứa các thứ ngô, gạo mua ở trong lúc hai kỳ mùa. Tàu qua lúc nào, là có sẵn gạo ngô mà chở và cái giá ăn với họ, mỗi năm ông chỉ định độ vài lần thôi.’’ Ông chủ hãng Denis cho lời tía tôi nói có lý lắm. Ông nhận rằng sự buôn bán của ông trong 4, 5 tháng nay, không phát đạt như ý muốn, cũng không ngoài mấy lẽ mà tía tôi nói đó. Tía tôi mỗi lần thuật lại cho tôi nghe, có nhắc đi nhắc lại một câu ‘‘nửa An-nam, nửa khách, nửa tây’’ mà ông chủ hãng Denis nói với tía tôi, khi tiễn tía tôi ra khỏi cửa : -‘‘ Nị nói pải lấm. Nị nói pải lấm. Để ngộ ký lại hợp đồng với người ta đã.’’ Một tháng sau, ông chủ Denis ký lại một bản hợp đống khác với những nhà tiêu thụ Pháp. Và cũng trong khoảng ấy, ông chủ Denis cũng ký với tía tôi một tờ giao kèo, trong ấy thuận cho tía tôi vay một món tiền để đi đặt trước. Một khi đã có một số tiền lớn ở trong tay (đâu đến hai ngàn đồng), tía tôi bèn thuê người lùng khắp vùng Quảng nam; những nhà nào có ruộng, tía tôi cũng cho họ vay một món tiền trước, rồi đến khi mùa gặt tới, tía tôi cho người ra trông nom gặt bới ; tùy theo số tiền họ vay mượn, tía tôi lấy số lúa y như thời giá. Được bao nhiêu, tía tôi gởi ngay Tourane cho ông chủ Denis Frères. Công việc của tía tôi rất chu đáo nên ông chủ hãng Denis lại rất tín nhiệm : hết món tiền này ông lại cho vay món tiền khác, và việc buôn bán của tía tôi đã có vẻ rộn rịp liên-tiếp. Tía tôi không phải là một người phụ bạc, nhất là phu bạc với nghề mình. Nhưng các ngài nghĩ : nếu chết sống với cái nghề ‘‘tẩm quất’’ thì không xứng với một người a khách trú’’ chút nào hết... Nghề ‘‘ tẩm quất’’ cũng như nghề phá xa. Chỉ là cái nhịp cầu thứ nhất để bước qua một nghề khác, không phải vinh hiển hơn nhưng mà có thể đưa người ta đến những sự kinh doanh to tát. Trong bụng của mỗi người An-nam là một ông quan, thì trong bụng của mỗi người Hoa kiều là một vị đại thương. Khi đã có cơ trở nên một nhà đại thương, tía tôi bèn đoạn tuyệt với nghề ‘‘tẩm quất’’ và từ giã dinh cụ Thượng ; tía tôi, từ đấy bước lên con đường thương nghiệp, bước tầng bước một rất chắc chắn, và công việc đều thành-đạt như ý liệu. Ngay lúc đầu, tía tôi đã tỏ ra mình là một người trù tính giỏi. Và chỉ trong vòng tám, chín tháng mà tía tôi đã có một cái lưng vốn hai, ba nghìn đồng ; bắt đầu bằng một cái vốn ấy – đối với người khách trú - là một cái may hiếm có. Tía tôi đã bắt đầu thấy cái ánh sáng của một ngôi sao mới, lòe ra ở trong phủ Triều châu. Cái ngôi sao ấy là tía tôi sau này vậy. Hy vọng ấy lại càng làm cho tía tôi thêm phấn khởi mà làm việc. Tía tôi bèn thuê một căn phố ở đường Japonais - một căn phố lớn - nhưng ngày thường không mua bán gì, chỉ để chứa những ngô, gạo. Cuộc đời cứ thế mà đi ; trong vòng ba năm trời, tía tôi dã giầu non một vạn bạc. Song, đến năm thứ tư thì ở Pháp người ta không tiêu thụ ngô gạo nữa, tía tôi phải xoay nghề. Nhưng khi người ta đã có một vạn bạc ở trong tay, thì người ta lo gì không tìm ra một phương cách để làm lợi. Nhưng đến đây tôi phải mở “một cái dấu ngoặc để nói đến một người đàn bà. Tía tôi cộng tác với ông Denis, được hai năm, một hôm vào mua lúa ở làng Xuân đài, tía tôi thấy có một thiếu nữ vừa gánh nước ở giếng đầu xóm về. Người thiếu nữ ấy không đẹp lắm, nhưng trông có vẻ gọn gàng, sạch sẽ. Mới thoáng thấy, tía tôi đã ưng ý ngay, bèn lén đi theo sau thiếu nữ, mà nàng không biết. Cái nhà mà nàng bước vào là một nhà tranh nhỏ, sơ sài. Tía tôi hỏi thăm thì biết đó là nhà một ông hương bộ ở trong làng. Hai hôm sau, tía tôi mượn người làm mai. Và sau khi ngã giá là hai trăm đồng thì người thiếu-nữ ấy đã là vợ tía tôi. Và người ấy, cũng chính là mẹ ruột tôi - người đã chiếm một phần yếu trọng trong truyện này. Má tôi vẫn ở luôn với ông ngoại tôi, và giúp tía tôi mua những ngô gạo ở khắp vùng đó. Má tôi tỏ ra là một người có tài buôn bán lớn. Tôi có thể nói rằng trong sự nghiệp của tía tôi, cái công gây dựng của má tôi thật hơn phân nửa. Nhưng chao ôi ! người đàn bà cần cù ấy có biết đâu được cái số phận đắng cay đương đợi mình sau này. Sau khi thôi việc buôn bán gạo thóc, tía tôi đưa má tôi về ở cái căn phố dường Japonais mà tôi đã có nói ở trên. Tía và má tôi bây giờ xoay qua bán tạp hóa. Faifoo, trong hồi thịnhvượng có thể nói là một thành phố sàm uất nhất Trung kỳ. Vì Faifoo là một thương khẩu mà người Tàu và người Nhật đến ở đầu tiên để buôn bán và kin doanh to tát. Dưới sông, quanh năm đậu xan xát những tầu bè của người khách đến để đỗ những hàng hóa từ bên Tàu qua, và rồi để tải đi những thổ hóa ở Trung kỳ. Faifoo sẽ nhận cho Trung kỳ những vàng, bạc, hương đèn, bún miến, hàng lụa và tất cả vật hóa của người Tàu bán qua An nam. Còn Faifoo sẽ gởi qua Tàu những thổ hóa ở Quảng nam và nhiều nhất là quế, yến và đường. Đến Faifoo, người ta có cảm giác là như đi lạc vào thành phố Bắc bình hay là Thiên tân vậy. Cũng như Chợ lớn là của Nam kỳ, Hải phòng là của Bắc kỳ, Faifoo là ‘‘thành phố khách’’ của Trung kỳ. Mà ở đâu có khách nhiều, là sự phồn thịnh sẽ ở đấy. Tía má tôi bây giờ chỉ buôn có vàng hương, bạch lạp, trầm mà mỗi ngày tệ lắm, tính ra cũng lãi được hai trăm đồng. Thật là một việc không thể tưởng tượng được: bao nhiêu những người hàng xén từ trên nguồn, dưới bể đều lấy hàng ở nhà tôi cả. Ấy một phần cũng là nhờ cái địa thế quan trọng của Faifoo, mà một phần là ở cái tài trù tính của tía tôi và nhất là cách tiếp đãi niềm nở vui vẻ của má tôi. Cứ thế, sự buôn bán của nhà tôi một ngày một tiến phát. Về ở căn phố đường Japonais được hơn hai năm thì tôi ra đời. Tôi ra đời giữa sự giầu sang như thế, là tôi đã khéo chọn được thời cơ tốt. Hình như trời đã định rằng: tôi sẽ là đứa con cưng và cái sự nghiệp ấy sẽ về tay tôi tiêu pha cho hết. Mà thực vậy, tôi chẳng khác nào một đứa con cầu tự: tôi nhớ khi tôi mới lên mười tuổi, má tôi đã mua thứ yến thượng hạng tám mươi đồng một lạng, ngày hai bữa nấu cho tôi ăn. Còn về sự mặc bận của tôi thì thật là sang trọng Tôi nhớ lúc nhỏ cũng như các trẻ con quan An nam, tôi có được mang một cái khánh vàng - theo thời giá ngày nay cũng đến gần trăm đồng. Nhưng cũng vì cái khánh vàng mà tôi bị giam cầm lại ở nhà suốt ngày ít khi được ra chơi với các trẻ hàng phố: lúc bấy giờ, có bọn mẹ mìn thường bắt cóc các trẻ em, chỉ một cái khánh vàng ấy cũng có thể làm nên tội vạ cho cả nhà, cho nên má tôi lại càng giữ gìn hết sức. Quãng đời niên thiếu của tôi thật là buồn tẻ, nếu không có việc gì xảy đến, thì tôi có lẽ chỉ là một đứa bé ngu ngốc, khờ dại, vì quá được nuông chiều, quá được sung sướng. Cũng may tôi đã sớm làm quen với đau khổ. Năm mười một tuổi thì tía tôi thọ bệnh và từ trần. Nhưng đó chưa hẳn là tai nạn của nhà tôi.