← Quay lại trang sách

Chương 4.

PHẦN I

QUAN NIỆM VỀ CÔNG BÌNH

(327a-354c)

Triết phẩm Cộng Hòa bắt đầu với câu hỏi vừa có nghĩa chính trị vừa có nghĩa đạo đức: Thế nào là dikaiosunè? Tiếng Pháp dịch chữ này là justice, tiếng Anh justice, tiếng Tây Ban Nha justicia, tiếng Đức Gerechtigkeit, tiếng ta là công bình. Chữ này trong tiếng Hy Lạp không những nghĩa như vậy mà còn có nhiều nghĩa nữa: giữ gìn phong tục, bảo vệ tập quán, thi hành bổn phận, cư xử chính trực; ăn ở công bình, lương thiện, thành thật; đúng lý, phải lẽ, hợp pháp; cái phải làm cho người khác hoặc cái người khác đối lại phải làm cho mình; những gì đáng được hưởng; cái mình phải làm. Như vậy chữ này bao hàm toàn diện đạo đức cá nhân liên hệ với tha nhân, những gì người khác có quyền đòi hỏi cá nhân đó hoặc cá nhân đó có quyền đòi hỏi người khác; bất kể cái gì là phải, là đúng trái với bất kể cái gì là sai, là trái. Công bình tóm lại là tổng số đức tính cần có để sống trong cộng đồng. Chữ này bao gồm đạo đức cá nhân và đạo đức xã hội, và từ căn nguyên câu trả lời liên hệ vừa với cá nhân vừa với xã hội, cả đạo đức lẫn chính trị. Bởi thế câu hỏi đặt ra sẽ là: Thế nào là bổn phận đạo đức và bổn phận xã hội? Công bình nghĩa là gì, và làm thế nào thực hiện công bình trong xã hội loài người?

Đòi hỏi định nghĩa công bình dường như hàm ngụ có quan niệm theo đó mọi ứng dụng của chữ này sẽ như đường thẳng gặp nhau ở tâm điểm, hoặc nói một cách cụ thể, có nguyên tắc theo đó cuộc đời con người có thể tổ chức để có xã hội công bình gồm người công bình. Công bình xã hội sẽ đảm bảo cá nhân trong xã hội phải thực hiện bổn phận và đón nhận quyền lợi. Như phẩm chất tàng ẩn trong cá nhân, công bình nghĩa là đời tư, hoặc nói theo cách nói của người Hy Lạp, tâm hồn sắp xếp tương ứng với quyền lợi và bổn phận của mỗi phần trong bản chất cá nhân.

Xã hội tổ chức như thế sẽ là lý tưởng, nghĩa là đưa ra tiêu chuẩn toàn bích có thể sử dụng để so sánh, đánh giá xã hội hiện tại theo mức độ xã hội đó ra sao. Dù thay đổi thế nào, khuynh hướng của thay đổi có mang xã hội loài người tới gần hay đẩy xã hội loài người xa khỏi mục đích đó. Triết phẩm Cộng Hòa là cố gắng đầu tiên trong lịch sử nhân loại trình bày có hệ thống miêu tả lý tưởng đó, không phải giấc mơ hão huyền, mà là khung sườn khả dĩ, bản chất con người, với đòi hỏi bất biến, có thể tìm thấy ấm no, hạnh phúc. Không nhìn thấy mục đích như thế, việc quản lý nhà nước sẽ bế tắc, vô dụng, hoặc dẫn tới mục đích sai lầm, hậu quả tai hại.

Xã hội ở đâu cũng vậy là đám đông gồm người hiểu biết và người không hiểu biết. Giả thử trong đó có người đầu óc hoài nghi, ưa tìm hiểu, vì lợi ích chung, đặt câu hỏi yêu cầu mọi người định nghĩa đúng, phải, công bình. Đương nhiên nhiều người tham dự. Tuy vậy, câu trả lời, do thực tế thúc đẩy, có thể khách quan hoặc chủ quan; một đằng vòng vo, hời hợt, nông cạn; một đằng thẳng thắn, gay gắt, sâu sắc; dẫu vậy xem ra cả hai do men theo ngoại diên chỉ đáp ứng phần nào ý tưởng nội hàm. Bởi cả hai cho thấy khác biệt cơ bản về lòng tin đối với cái Socrates gọi là quan trọng hơn hết trong các câu hỏi: Làm người ta phải sống thế nào cho phải ở đời?

Theo Cephalus công bình là thành thật trong lời nói cũng như việc làm. Toàn bộ cuộc đối thoại tưởng

tượng Socrates kể lại cho khán giả không nêu rõ danh tính. Người tham dự tụ tập ở nhà Cephalus, thương gia về hưu, sống ở Piraeus, phố cảng cách Athens khoảng mười cây số. Ngoài Glaucon, Adeimantus (anh Plato) còn có Polemarchus, Euthydemus, Lysias nổi tiếng viết diễn văn văn hoa (ba người là con Cephalus), Thrasymachus, người vùng Chalcedon, mạn tây bắc Tiểu Á gần eo biển Bosphoros (Dardanelles) nối Hắc Hải với biển Marmara, dài 29 km, giáo sư lừng danh về nghệ thuật hùng biện, tóm tắt định nghĩa công bình là ‘phục vụ quyền lợi kẻ quyền thế’ và một số bạn trẻ của Socrates. Thời gian là lễ hội Bendis, nữ thần khả kính du nhập từ Thrace. Cephalus tiêu biểu từng trải cuộc đời dài dặc, làm ăn đàng hoàng trong thương trường. Lão giàu có, song coi đồng tiền chỉ là phương tiện dẫn tới đầu óc thanh thản, tâm hồn thư thái, trạng thái tâm linh bắt nguồn từ sống lương thiện, thành thật có khả năng đền đáp những gì nhận từ thần linh và thế nhân. Lão hiểu cư xử phải phép hoặc ăn ở công bình là thế.

Phần đầu là đối thoại điển hình kiểu Plato. Theo học giới Tây Âu có lẽ triết gia viết riêng biệt, không dính dáng với phần còn lại của triết phẩm. Ông không đi tới kết luận cụ thể đối với mục đích hiển nhiên của cuộc tìm hiểu – khám phá bản chất đạo đức – mặc dù tranh luận sống động và ý nghĩa, ý kiến đưa ra nêu rõ chủ đề sẽ diễn ra sau này trong tác phẩm. Cảnh đã dàn dựng, Socrates lướt qua thái độ. chấp nhận không suy nghĩ quan niệm cổ truyền về đạo đức (Cephalus và Polemachus tiêu biểu) trước khi bàn bạc hăng say, tấn công quyết liệt quy ước (và cả Socrates) do Thrasymachus thành viên triết phái Sophist đề xướng. Socrates không chấp nhận quan niệm cổ truyền hay quan niệm trái với cổ truyền nếu quan niệm đó không đương cự nổi cuộc mổ xẻ biện chứng của ông; nền đã chuẩn bị, triết nhân sẽ nhấn mạnh suốt triết phẩm tầm mức quan trọng của nhận thức đối với đạo đức.

Trên đường từ bến cảng Piraeus trở về thành phố Athens Socrates dừng lại vì gặp Polemarchus, anh này mời về nhà, đến nơi ông gặp thân phụ anh này, lão nhân Cephalus vui mừng tiếp đón. Hai người hàn huyên với nhau, dù ngắn ngủi, song lý thú, chuyện xoay quanh tuổi già là gánh nặng dư thừa vô ích. Cephalus công nhận năm tháng đè nặng trên vai có phần nhẹ bớt, nhờ tiền của kiếm được sau thời gian dài dặc cần cù làm ăn, vì thế con người có thể nói thật, đồng thời đền ơn trả nghĩa thế nhân và thần linh. Đến đây độc giả đi vào mà không hay ý định định nghĩa công bình chính trực (nghĩa là cư xử phải lẽ với người khác). Rút lui khỏi cuộc tranh luận Cephalus bảo con trai Polemarchus thay thế tiếp chuyện quý khách. Muốn dẫn chứng để bênh vực quan điểm anh này kể thi sĩ Simonides nói công bình chính trực là phần của người nào trả lại người nấy. Định nghĩa khiến Socrates quay ra chất vấn vì cho rằng nói như vậy không thỏa đáng - bắt bẻ chỗ này là nét điển hình tiêu biểu phương thức Socrates sử dụng trong đối thoại. Mặc dù chuyển hướng mấy lần, song Polemarchus công nhận định nghĩa anh này đưa ra không chính xác.

Tới đây Thrasymachus, thành viên triết phái Sophist xen lời có vẻ nhiệt tình. Anh ta chê phương thức Socrates sử dụng, song lúc bị hối thúc đưa ra định nghĩa, dáng vẻ miễn cưỡng, anh ta nói công bình chính trực là quyền lợi của kẻ mạnh (nghĩa là sức mạnh là lẽ phải). Càng lúc anh ta càng trở nên chống đối quyết liệt hơn Polemarchus, mặc dù chẳng mấy chốc Socrates đưa đẩy anh ta rơi vào mâu thuẫn. Dẫu vậy anh ta vẫn ra khỏi vũng lầy khá khéo léo, và do vậy Socrates mất thì giờ, gặp khó khăn cho thành viên triết phái Sophist thấy anh ta sai lầm. Thrasymachus phản bác, trưng nêu sự kiện chống lại quan niệm lý thuyết của Socrates về công bình chính trực. Đến đây nhân vật thay nhau trao đổi ý kiến, thảo luận sôi nổi. Bởi thế thái độ châm biếm của Socrates và cuối cùng Thrasymachus, nếu chưa tin tưởng, ít nhất cũng tỏ vẻ nguôi ngoai và phục tòng, dẫu thế Socrates vẫn cho thấy tranh luận chưa đưa đến kết quả – chưa định nghĩa công bình chính trực thực sự là thế nào.

***

Hôm qua [327a] cùng Glaucon, quý tử Ariston, bản nhân xuống bến cảng Piraeus để cầu nguyện nữ thần, đồng thời cũng muốn xem lễ hội diễn ra thế nào, vì đây là lần đầu người ta tổ chức dâng cúng. Bản nhân cảm kích trước vẻ long trọng dân địa phương thực hiện lễ rước, song phải ghi nhận dân vùng Thrace dịp này cũng chứng tỏ chẳng thua kém tí nào. Dâng lễ và quan sát xong xuôi [b] ngô bối lần bước trở về thành phố. Đúng lúc đó, từ xa nom thấy ngô bối rảo gót trên đường, Polemarchus, quý tử Cephalus, sai nô lệ theo hầu chạy tới bảo dừng lại chờ công tử. Thiếu niên hớt hơ hớt hải phía sau phóng tới nắm áo thốt lời: ‘Bẩm, công tử Polemarchus muốn tiên sinh nán bước.’ Bản nhân quay lại hỏi chủ nhân nô lệ ở đâu. Thiếu niên đáp: ‘Thưa, đang tới đằng sau. Xin tiên sinh vui lòng chờ.’

‘Ờ được, ngô bối chờ,’ Glaucon nói.

Chẳng mấy chốc Polemarchus đuổi kịp, cả Adeimantus lẫn bào huynh Glaucon, [c] Niceratus quý tử Nicias và mấy người nữa; tất cả có vẻ như vừa tham dự rước lễ.

‘Socrates tiên sinh,’ Polemarchus hối hả cất lời, ‘tiểu điệt thấy dường như nhị vị đang trên đường trở về thành phố.’

‘Đúng thế,’ bản nhân đáp.

‘Nhưng,’ đương sự tiếp tục, ‘tiên sinh có thấy bọn tiểu điệt bao nhiêu người không hở?’

‘Thấy chứ.’

‘Vậy tiên sinh nên chọn,’ đương sự nhấn mạnh, ‘một là coi nhẹ bọn tiểu điệt, hai là chiều ý ở lại.’

‘Dù sao cũng còn cách khác,’ bản nhân giải thích. ‘Ngô bối có thể thuyết phục quý hữu để ngô bối lên đường.’

‘Làm sao tiên sinh có thể thuyết phục người không chịu nghe tiên sinh?’ Đương sự hỏi.

‘Bất khả,’ Glaucon đáp.

‘Vậy tiểu điệt nghĩ tiên sinh nên hiểu bọn tiểu điệt không chịu nghe tiên sinh đâu.’

‘Quyết định thế nào không biết,’ [328a] Adeimantus chêm lời, ‘song tiên sinh có hay tối nay sẽ có cưỡi ngựa, rước đuốc, chạy thi hiến dâng nữ thần không hở?’

‘Cưỡi ngựa?’ Bản nhân tỏ vẻ ngạc nhiên. ‘Như vậy là đặc biệt. Quý hữu muốn nói có cuộc đua cưỡi ngựa chạy thi, người ta cầm đuốc, trao đuốc cho nhau phải không?’

‘Vâng, đúng thế,’ Polemarchus đáp. ‘Và người ta còn tế lễ suốt đêm, nên xem cảnh đó chớ bỏ qua. Cơm chiều xong bọn tiểu điệt sẽ đi ra quan sát, vô số thanh niên cũng có mặt, bọn tiểu điệt sẽ trò chuyện. [b] Bởi thế nhị vị nên làm như bọn tiểu điệt đề nghị, ở lại đừng về.’

‘Xem ra thì ngô bối nên ở lại,’ Glaucon nhượng bộ.

‘Ờ, nếu quý hữu quyết định như vậy,’ bản nhân tiếp lời, ‘vậy đó là điều ngô bối nên theo.’

Bởi thế ngô bối cất bước tới nhà Polemarchus. Đến nơi ngô bối gặp hai em đương sự, Lysias, Euthydemus, cả Thrasymachus người vùng Chalcedon, Charmantides người thị xã Paeania và Cleitophon con trai Aristonymus. Cephalus, thân phụ Polemarchus, cũng ở nhà; bản nhân nghĩ lão trông có vẻ già lắm, [c] vì sau lần đó, lâu rồi, bản nhân không gặp nữa. Lão ngồi trên ghế, lưng dựa vào chiếc gối, đầu đội vòng nguyệt quế, vì vừa ra ngoài sân dâng lễ. Gần đó có mấy chiếc ghế đặt thành vòng tròn, ngô bối ngồi xuống bên cạnh.

Vừa nom thấy bản nhân, Cephalus liền cất tiếng chào hỏi, rồi nói như không muốn ngừng: ‘Socrates, trời ơi bất hạnh quá chừng, tiên sinh không chịu quá bộ xuống bến cảng Piraeus thăm ngô bối. Tiên sinh nên, tiên sinh ạ. Lão hủ muốn nói, nếu thân này vẫn còn đủ sức cuốc bộ xuống thành phố dễ dàng, tiên sinh chẳng phải vác xác tới đây, lão hủ sẽ thân chinh đến thăm.[d] Oái oăm thay như sự thể cho thấy tiên sinh lại phải tới đây nhiều hơn. Phần riêng lão hủ thấy về già khi thú vui thể xác không còn hương vị, đam mê tinh thần gia tăng mãnh liệt, lão hủ thích chuyện trò, bàn bạc. Bởi thế tiên sinh đừng từ chối, trái lại xin tới mạn đàm với đám thanh niên có ý mong chờ, coi tất cả như thân hữu, cố tri, quá bộ tới nơi này gặp gỡ ngô bối.’

‘Muốn lắm, lão nhân,’ bản nhân đáp. ‘Thực lòng bản nhân rất thích trò chuyện với bậc tuổi hạc trăng khuya, vì trộm nghĩ mình phải học họ [e] rất nhiều. Họ đi trước ngô bối, rõ ràng là vậy, đường họ đi có lẽ ngô bối cũng phải bước vào, qua họ ngô bối phải tìm hiểu đường thế nào, gập ghềnh, trắc trở, hay phẳng phiu, êm ái. Bản nhân đặc biệt muốn hỏi lão nhân nhận định ra sao, bởi lão nhân đã tới thời gian trong cuộc đời thi nhân miêu tả là “ngưỡng cửa tuổi già.” Phải chăng đó là giai đoạn khó khăn trong đời con người, theo lão nhân, hay thế nào?’

‘Dĩ nhiên, Socrates, lão hủ sẽ nói tiên sinh hay quan niệm của lão hủ,’ Cephalus đáp. ‘Bởi ngưu tầm ngưu, mã tầm mã, [329a] bọn tuổi cao tác lớn cùng trang lứa thường gặp nhau như ngạn ngữ nói, đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Gặp gỡ phần lớn hầu như bất di bất dịch thường than vãn, bộc lộ thèm khát vì bỏ lỡ cơ hội hưởng lạc lúc đầu còn xanh tuổi còn trẻ, hồi tưởng bày tỏ tình yêu, nhậu nhẹt, tiệc tùng như thế nào, và hậm hụi tiếc nuối không thể làm vậy được nữa. Họ nghĩ đời lúc đó thú vị, còn bây giờ chẳng thể nói có sống hay không. Có người cằn nhằn gia đình coi tuổi già chẳng khác món nợ, bởi thế [b] cứ rên rỉ như không muốn ngừng bất hạnh, khốn khổ tuổi già mang lại. Nhưng theo chỗ lão hủ nhận xét, tiên sinh ơi, họ than trách không đúng chỗ. Bởi nếu tuổi già thực sự tồi tệ, đáng ghét, đáng trách, lão hủ cũng nếm mùi như họ, người khác tới cỡ đó có khác gì đâu. Trái lại, trong quá khứ rất may lão hủ đã gặp nhiều người như lão hủ không cảm thấy như thế. Đặc biệt lần gặp Sophocles có người cất tiếng hỏi: “Sophocles, cảm nghĩ của thi sĩ về tình dục thế nào [c]? Vẫn có thể trao đổi với phụ nữ chứ?” Sophocles đáp: “Nói tới chuyện đó làm quái gì, quý nhân! May mắn khôn xiết và vui mừng vô cùng, tháo xích gỡ xiềng, bản nhân không còn vướng mắc, như người nô lệ thoát khỏi chủ nhân tàn bạo, dã man.” Lão hủ nghĩ lúc đó trả lời như vậy là đúng, và bây giờ lão hủ thấy vẫn đúng. Bởi về già hầu như không còn dính líu tới chuyện tương tự, mình thảnh thơi như mây, tự do như gió. Khi thèm muốn không còn gay gắt mà suy giảm cường độ, lúc đó mình sẽ hiểu điều Sophocles muốn nói [d] thoát khỏi bàn tay biết bao bạo chúa điên rồ. Tuy nhiên, đối với chuyện này, và đối với việc gia đình coi rẻ người già, chỉ có một điều nên trách; không phải tuổi già, mà tính tình người già, tiên sinh ạ. Bởi nếu con người tự giác, tự chế, tuổi già sẽ không là gánh nặng khốn khổ, khốn nạn. Ngược lại, nếu không thế, tuổi trẻ cũng như tuổi già sẽ là gánh nặng khốn nạn, khốn khổ, tiên sinh ơi.’

Quý mến, thán phục không những con người mà cả lời nói, nhất là vì [e] muốn lão tiếp tục, tìm cách châm ngòi gợi ý, bản nhân nhỏ nhẹ: ‘Cephalus, bản nhân nghĩ nhiều người sẽ nghi ngờ điều lão nhân vừa phát biểu; họ nghĩ lão nhân cho rằng tuổi già không phải gánh nặng, không phải vì tính tình lão nhân, mà vì lão nhân tiền dư bạc để. Họ nói người giàu có có nhiều thứ để yên thân.’

‘Vâng, đúng thế,’ lão đáp, ‘họ nghi ngờ. Và họ có cớ, mặc dù cớ đó không quan trọng như họ tưởng. Nhân đây để làm sáng tỏ vấn đề xin nhắc lại chuyện Themistocles. Gặp nhau người từ Seriphus chẳng đắn đo, cân nhắc tuôn lời bảo ông này nổi tiếng thực ra không phải [330a] do uy tín cá nhân mà do thành phố xuất thân. Ông này phản bác tức thì: “Ờ, đúng rồi, tôi sẽ không nổi tiếng nếu là người Seriphus, nhưng anh cũng chẳng lừng danh nếu xuất thân từ Athens.” Nguyên tắc tương tự áp dụng với người không giàu có và thấy tuổi già là gánh nặng dư thừa. Đương nhiên, nếu nghèo khó, người đàng hoàng cũng sẽ thấy tuổi già là gánh nặng khó mang. Ngược lại, dù giàu có, người quay quắt sẽ không bao giờ bằng lòng với chính mình.’

‘Phần lớn tài sản do thừa hưởng hay tự tay làm ra, hở lão nhân?’ Bản nhân hỏi.

‘Tiên sinh [b] nói gì vậy?’ Lão vặn lại. ‘Lão hủ có tự tay làm ra không? Là thương nhân lão hủ xếp hàng giữa ông nội và bố đẻ. Ông nội (lão hủ được đặt tên theo) thừa hưởng của cải gần như ngang với tài sản lão hủ sở đắc hiện nay, sau đó gia tăng, phát triển đáng kể, gấp bội nhiều lần, nhưng bố đẻ Lysanias tiêu hao, giảm thiểu ngang với số lượng bây giờ. Phần riêng lão hủ sẽ mãn nguyện nếu để lại cho mấy đứa con ở đây không kém, song nhiều hơn chút đỉnh số lượng lão hủ thừa hưởng.’

‘Lý do dọ hỏi,’ bản nhân tiếp lời, ‘ấy là vì bản nhân có cảm tưởng lão nhân không đặc biệt quan tâm tới tiền bạc [c], thái độ đó thường là dấu hiệu của người không tự tay làm ra, trong khi người tự tay làm ra gắn bó mật thiết, khắng khít với đồng tiền gấp bội như bất kể ai sống trên cõi đời. Thi nhân gắn bó với bài thơ sáng tác, thân phụ gắn bó với bầy con sinh đẻ; cùng chiều hướng thương nhân quan tâm tới tiền bạc làm ra, không những chỉ vì tiền bạc hữu dụng (đó là lý do tại sao ai trên cõi đời cũng ham thích, để ý), mà còn vì tiền bạc là sản phẩm họ lao tâm khổ trí mới có. Sự thể khiến gặp nhau thường cằn nhằn, tẻ nhạt, vì họ không nghĩ tới gì mà chỉ nghĩ tới tiền bạc.’

‘Tiên sinh nói chí phải,’ lão nói.

‘Thưa, đúng thế [d],’ bản nhân đáp. ‘Nhưng còn điều nữa bản nhân muốn hỏi. Theo lão nhân cái gì mang lại cho lão nhân lợi ích lớn lao hơn cả nhờ giàu có?’

‘Cái nhiều người thấy có vẻ không hợp lý,’ lão đáp. ‘Socrates, tiên sinh thừa biết, khi tâm trí nhen nhúm ý nghĩ về cái chết, con người quay ra hoảng sợ, lo lắng về những điều chưa hề xảy ra với mình. Trước kia lúc nghe chuyện thế giới bên kia, chuyện dưới âm phủ, chuyện trừng phạt đời sau vì sai trái làm ở đời này, con người thường cười, bây giờ chuyện đó bắt đầu khuấy động, tâm tư quằn quại, [e] con người đâm ra lo lắng, biết đâu sự thật thế thật. Sự thể là do tuổi già sức yếu, gần đất xa trời, xa dần cõi trần đến gần cõi âm, nhận định càng thêm rõ ràng, nên nghi ngờ, lo sợ, con người bắt đầu tính sổ, rà xét xem mình có làm điều sai trái với ai không. Bây giờ nhận ra trong khi sống ở đời đã làm nhiều điều không phải, gây nên vô vàn tội ác, ban đêm bừng tỉnh, như trẻ con thức giấc sau ác mộng, chẳng những kinh hoàng, con người còn sống trong khiếp đảm. Ngược lại, [331a] nếu biết không hề làm gì tội lỗi, con người nhìn tương lai với vẻ tươi vui và hy vọng. Pindar bảo đó là “nhũ mẫu tuổi già”. Lão hủ mê đoạn thơ diễn tả ngoạn mục khôn xiết thi sĩ nói người sống cuộc đời đạo đức và công

bình “mang trong lòng hy vọng lâng lâng,/ như bạn đồng hành, nâng niu tâm hồn,/ sưởi ấm trái tim, an ủi tuổi hạc/ hy vọng lèo lái, đẩy đưa, hơn bất kể cái gì, tâm trạng thế nhân ngất ngư, bất ổn.” Câu thơ tuyệt diệu! Đó là bối cảnh lão hủ nghĩ của cải đáng giá lớn lao, không phải với mọi người mà với người đàng hoàng, tử tế. Bởi của cải giúp đỡ rất nhiều, giữ vai trò hết sức quan trọng [b], nếu biết nhận định sáng suốt, con người sẽ tránh xa một cách cố ý hoặc vô tình rơi vào vòng dối lừa, bịp bợm, hay lo sợ khi từ giã cõi đời mà vẫn chưa làm lễ tế sinh dâng thần linh, hoặc trả món nợ còn mang đối với ai đó. Tiền bạc còn dùng vào nhiều việc khác nữa, song cân nhắc mọi mặt, lão hủ thấy đối với người sáng suốt, tiên sinh ơi, tiền bạc đặc biệt hữu dụng trong bối cảnh chẳng hề tầm thường, không chút vô nghĩa.’

‘Ý kiến khả ái vô cùng, Cephalus,’ bản nhân nói [c]. ‘Nhưng điều lão nhân vừa đề cập cư xử phải lẽ thì sao? Phải chăng ngô bối muốn nói cư xử phải lẽ là ăn ở chân thật và trả lại bất kể cái gì mượn của người khác, hoàn toàn là vậy, vỏn vẹn là vậy, không hơn không kém? Hoặc phải chăng việc làm như thế có lúc đúng, có lúc sai? Đó là điều bản nhân muốn nói. Bản nhân tin chắc mọi người sẽ đồng ý nếu lão nhân mượn vũ khí của người bạn hoàn toàn sáng suốt, tỉnh táo, nhưng sau đó loạn trí, hóa điên người bạn đòi lại, lão nhân không nên trả lại; nếu trả lại, lão nhân đã làm điều không phải, hơn thế cũng chẳng nên nói huỵch toẹt cho ai đó ở tình trạng tương tự hay sự thật.’

‘Đúng thế,’ lão đáp. [d]

‘Như vậy là,’ bản nhân tiếp lời, ‘nói sự thật và trả lại bất kể cái gì mượn của người khác không phải định nghĩa của cư xử phải lẽ.’

‘Ấy, phải, phải chứ, tiên sinh,’ Polemarchus cắt ngang. ‘Dù thế nào đi nữa nếu ngô bối tin lời Simonides.’

‘Ờ,’ Cephalus ậm ừ, ‘lão hủ xin để hai người tiếp tục cuôc tranh luận, vì đến giờ phải đi làm lễ.’ ‘Con thế chân bố phải không?’ Polemarchus hỏi.

‘Ừ, đúng rồi, con thay ta,’ vừa nói vừa mỉm cười Cephalus nhanh nhẹn bước đi làm lễ.

***

Bước vào tranh luận Polemarchus khẳng định công bình là của người nào trả người nấy. Socrates rút ra một lô kết luận chứng minh quan niệm cổ truyền không thích đáng. Suy diễn về đạo đức (nguyên tắc xử thế), Socrates cho rằng đạo đức là lĩnh vực chuyên môn, cái gì đúng với lĩnh vực chuyên môn, bất kể chuyên môn nào, cũng đúng với đạo đức. Dường như muốn bác bỏ Polemarchus nại lý đạo đức là địa hạt hoạt động riêng biệt, như công nghệ. Nhưng đạo đức có chức năng rộng hơn trong liên hệ nhân sinh, mục đích của đạo đức vì thế sẽ rộng lớn, như đề cao hạnh phúc. Nhìn vấn đề thiếu sâu sắc Polemarchus rơi vào vòng nghịch lý. Cuối cùng Socrates kết luận làm hại người khác trong bất kể cảnh huống nào tuyệt đối là điều không nên, không phải. Tranh luận bắt đầu. Nói sự thật và nợ người nào trả người nấy thông thường là phải, là đúng; nhưng việc làm đối ngoại như vậy không giúp ta hiểu thế nào là công bình, tên gọi phẩm chất việc làm đối ngoại thường mang. Không biết đối phó với phản bác ra sao, Polemarchus nhắc lại câu châm ngôn mượn của thi sĩ nổi tiếng. Hy Lạp không có linh thư như Kinh Thánh ở Tây Âu, ở đó thời ấy thi sĩ được coi như cứ liệu thiên phú về tôn giáo và đạo đức;

song khi gạn hỏi Socrates thấy thi sĩ không thể giải thích hợp lý về phát biểu của họ. Polemarchus cũng không hề nghĩ tới ẩn ý trong việc định nghĩa công bình là ‘nợ người nào trả người nấy’. Nợ ấy là gì và trả cho ai?

Plato thường so sánh ứng dụng đạo đức với công nghệ, nghề hữu dụng (không phải mỹ nghệ): Y khoa, hàng hải, đóng giày. Ông còn nói tới ‘vì đền bù, vì lợi ích’. Ông chấp nhận quan niệm của Socrates cho rằng ở đời cần có quan niệm sống, tương tự hiểu biết và khả năng của nghệ nhân nhằm đạt mục đích đề xướng. Thợ nề xây ngôi nhà hiểu mình sẽ làm gì và làm thế nào; thợ nề có thể giải thích việc làm của mình nhằm đóng góp vào mục đích. Hiểu biết và khả năng cấu tạo tay nghề thể hiện trong người thợ nề và trình độ tuyệt hảo đặc biệt hoặc ‘đạo đức’ (areté), với tư cách là thợ nề. Sự thể cũng như một người chỉ có thể sống sung sướng nếu hiểu rõ mục đích cuộc đời là gì, cái gì có giá trị thực sự và làm thế nào đạt cái đó. Hiểu biết như vậy là đạo đức của con người, với tư cách con người, và cấu thành nghệ thuật sống. Nếu con người nghĩ mục đích cuộc đời là làm giàu, nắm quyền cai trị, hai khát vọng tự chúng không có giá trị, mọi việc làm của con người sẽ lệch hướng, sai đích. Học thuyết này là nền tảng triết phẩm Cộng Hòa. Học thuyết dẫn tới luận đề chính yếu: xã hội phải điều khiển bởi người đã nghiên cứu, do đào luyện nghiêm túc, lâu dài, không những mục đích thực sự của đời người, mà cả ý nghĩa của đạo đức dưới mọi hình thức.

***

‘Vâng, không sao,’ [e] bản nhân đỡ lời, ‘ờ, thay thân phụ tham gia đàm luận, vậy cho bản nhân hay Simonides nói gì mà hiền điệt nghĩ là phát biểu chính xác về cư xử phải lẽ?’

‘Thưa, nợ người nào trả người nấy là cư xử phải lẽ,’ Polemarchus đáp, ‘làm vậy theo tiểu điệt ông ấy giải quyết vấn đề hợp lý.’

‘Đúng rồi, xem ra khó lòng phủ nhận ý kiến Simonides,’ bản nhân tiếp lời, ‘ông ấy là thi sĩ, trí óc uyên bác, cảm hứng bén nhạy, thuộc hàng siêu nhân; qua lời phát biểu hiền điệt hiểu ông ấy muốn nói gì, nhưng phần riêng thành thực mà nói bản nhân không hiểu. Vì rõ ràng ông ấy không đả động điều ngô bối vừa nói, trả lại bất kể cái gì dẫu người đòi hóa điên. [332a] Và đương nhiên cái trao cho người nhận là cái phải trả lại người trao, phải không?’

‘Thưa, phải.’

‘Nhưng bất luận thế nào chẳng nên trả lại nếu người đòi hóa điên, đúng không?’

‘Vâng, đúng thế.’

‘Như vậy là Simonides dường như hàm ý khác, không phải ý này, khi ông ấy nói phần của người nào trả lại người nấy là hợp lý phải lẽ.’

‘Vâng, dĩ nhiên ý khác,’ thanh niên tiếp lời. ‘Vì ông ấy nghĩ giữa bạn bè đền đáp, cư xử, ăn ở với nhau phải làm điều tốt lành, không làm điều xấu xa.’

‘Đúng thế,’ bản nhân phụ họa, ‘trả lại tiền bạn cho mượn không phải là trả lại cái cần trả lại, nếu hai người là bạn, nếu việc trả lại và việc nhận lại không có lợi mà có hại đối với người cho mượn, [b] có

phải hiền điệt định nói Simonides hàm ý như vậy không?’

‘Thưa, phải.’

‘Như vậy ngô bối cũng phải trả lại bất kể cái gì thuộc về kẻ thù?’

‘Thưa, phải,’ thanh niên đáp, ‘cái thuộc về kẻ thù, vâng đúng thế, cái phải trả lại kẻ thù, theo tiểu điệt, cái kẻ thù nợ kẻ thù cũng là cái hợp với kẻ thù, đó là cái hại.’

‘Xem ra dường như Simonides sử dụng từ ngữ với ẩn ý, định nghĩa công bình chính trực mơ hồ,’ bản nhân nhận xét, ‘cung cách thi sĩ là vậy! [c] Ông ấy muốn định nghĩa công bình chính trực là của người nào trả lại người nấy là phải, song ông ấy lại gọi cái đó là “cái phải trả.”’

‘Tiểu điệt ngạc nhiên tiên sinh nghĩ khác,’ thanh niên tỏ vẻ thảng thốt.

‘Dẫu thế vui lòng lắng nghe,’ bản nhân tiếp lời, ‘giả dụ có người hỏi ông ấy: “Như vậy khả năng y học gọi là gì hở thi sĩ Simonides? Khả năng đó phải thế nào, thích hợp ra sao và phục vụ ai?” Hiền điệt nghĩ ông ấy sẽ trả lời thế nào?’

‘Dĩ nhiên đó là khả năng cung cấp cho thể xác thuốc men, thực phẩm, nước uống.’

‘Nếu có người hỏi ông ấy cũng câu hỏi như thế về làm bếp, nấu ăn thì sao? Ngô bối gọi khả năng đó là gì? Khả năng đó có cung cấp cái cần trả lại và cái thích hợp hay không, và khả năng đó cho cái đó cái gì?’

‘Thưa, đó là khả năng [d] cung cấp hương vị cho thức ăn.’

‘Vậy khả năng ngô bối gọi là công bình chính trực cung cấp cái gì và cung cấp cho ai?’

‘Thưa, tiên sinh, để cho phù hợp với những gì đã nói,’ thanh niên đáp, ‘đó là khả năng mang lợi cho bạn, đem hại cho thù.’

‘Bởi thế Simonides chủ trương công bình chính trực là làm lợi cho bạn, làm hại cho thù, phải không?’ ‘Tiểu điệt nghĩ vậy.’

‘Vậy về chuyện ốm đau và khỏe mạnh, ai có thể mang lợi cho bạn, đem hại cho thù?’

‘Y sĩ.’

‘Nguy hiểm khi đi biển [e]?’ ‘Thuyền trưởng.’

‘Thế người công bình chính trực thì sao? Ở môi trường hay hoạt động nào trong cuộc sống người đó có khả năng đem lợi cho bạn, hại cho thù?’

‘Khi có chiến tranh, tiểu điệt nghĩ, người đó đánh lại kẻ thù và bênh vực bằng hữu.’

‘Đồng ý, nhưng Polemarchus quý mến ơi, y sĩ vô dụng trừ phi người ta ốm đau, phải không?’

‘Vâng, đúng thế.’

‘Thuyền trưởng vô dụng trừ phi người ta vượt biển ra đi, đúng không?’

‘Thưa, đúng thế.’

‘Vậy hiền điệt có nghĩ người công bình chính trực vô dụng khi ngô bối không đi vào chiến tranh không?’

‘Không, tiểu điệt không nghĩ vậy.’

‘Như vậy công bình chính trực cũng ích dụng trong thời bình?’

‘Vâng.’ [333a]

‘Nghề nông cũng vậy, phải không?’

‘Thưa, phải.’

‘Cung cấp cho ngô bối hoa màu, lúa gạo.’

‘Vâng.’

‘Cả nghề làm giày nữa?’

‘Vâng.’

‘Cung cấp giày cho ngô bối, bản nhân nghĩ hiền điệt sẽ nói.’

‘Thưa, đúng thế.’

‘Ờ, vậy ngô bối dùng công bình chính trực để làm gì? Công bình chính trực đem lại cho ngô bối cái chi? Hiền điệt có nghĩ công bình chính trực ích lợi trong thời bình không hở?’

‘Thời đó ích dụng cho việc làm ăn, buôn bán, thưa tiên sinh.’

‘Như vậy là hiền điệt muốn nói hợp đồng, hợp tác, giao dịch giữa con người với con người, hay thế nào?’

‘Vâng, khi con người bước vào hợp tác với nhau.’

‘À, nếu giao dịch là cuộc đấu cờ, người công bình chính trực [b] là người cộng tác tốt đẹp và ích dụng hay người chơi cờ?’

‘Người chơi cờ.’

‘Nếu là việc đặt gạch trộn vữa, người công bình chính trực có là người cộng tác đắc ý và ích dụng hơn người thợ nề không?’

‘Không.’

‘Ờ, thế đi vào loại giao dịch nào thì người công bình chính trực là người cộng tác khá hơn người thợ nề hoặc người nhạc sĩ? Người đó hơn người nhạc sĩ ở chỗ nào trong khi người nhạc sĩ hơn người đó ở âm nhạc?’

‘Ở chỗ dính dáng đến tiền bạc, tiểu điệt thiển nghĩ.’

‘Ờ, trừ ra có lẽ, Polemarchus ơi,’ bản nhân nói, ‘khi sử dụng tiền bạc. Chẳng hạn ngô bối mua hay bán con ngựa, người luyện ngựa sẽ là người cộng tác tốt hơn phải không [c]?’

‘Tiểu điệt nghĩ vậy.’

‘Nếu hiền điệt muốn mua hay bán chiếc thuyền, người đóng thuyền hay người lái thuyền là người cộng tác tốt hơn?’

‘Dường như tương tự.’

‘Vậy khi sử dụng vàng bạc để giải quyết dịch vụ hợp tác trong trường hợp nào người công bình chính trực ích dụng hơn người khác?’

‘Khi ngô bối ký thác hay giữ kín để dành, thưa tiên sinh.’

‘Hiền điệt muốn nói khi hiền điệt không muốn đem ra sử dụng, mà để vào kho giữ kín chứ gì?’ ‘Thưa, phải.’

‘Như vậy là khi không sử dụng tiền bạc, ngô bối thấy công bình chính trực ích dụng phải không?’ [d] ‘Xem ra có vẻ vậy.’

‘Và khi hiền điệt cất dao tỉa cây vào nơi an toàn, công bình chính trực sẽ ích dụng cho cả người cộng tác lẫn bản thân hiền điệt; nhưng khi hiền điệt đem ra sử dụng, dao tỉa cây ích dụng với việc trồng trọt phải không?’

‘Tiểu điệt nghĩ vậy.’

‘Hiền điệt có nghĩ nếu muốn bảo vệ chiếc khiên hoặc cây đàn cho an toàn, hiền điệt cần người công bình chính trực, trái lại nếu đem ra sử dụng, hiền điệt cần binh sĩ hoặc nhạc sĩ phải không?’

‘Thưa, cần.’

‘Bởi thế đối với mọi chuyện cũng vậy, khi hiền điệt đem đồ ra sử dụng, công bình chính trực trở nên vô dụng, khi hiền điệt không đem đồ ra sử dụng, công bình chính trực trở nên hữu dụng phải không?’

‘Có lẽ.’

‘Nếu vậy, thân hữu ơi, công bình chính trực [e] không thể là thứ có giá trị, nếu chỉ hữu dụng khi đồ không dùng. Còn điều nữa ngô bối nên suy ngẫm. Trong đấu võ, đấu quyền hoặc bất kể hình thức đấu nào, người giỏi tấn công cũng là người giỏi phòng thủ phải không?’

‘Thưa, đúng.’

‘Và người biết phòng bệnh cũng là người bí mật gây bệnh chứ gì?’

‘Thưa, phải.’

‘Người [334a] có tài dẫn đội quân trở về an toàn sau chiến dịch cũng là người có khả năng đánh lừa, ăn trộm kế hoạch, phá tan âm mưu quân thù phải không?’

‘Thưa, tiểu điệt nghĩ vậy.’

‘Vậy người tài canh gác cũng là người giỏi ăn trộm.’

‘Thưa, chắc thế.’

‘Nếu vậy người công bình chính trực giỏi cất giữ cũng là người khéo ăn trộm tiền bạc.’ ‘Thưa, ít nhất đó là kết luận tranh luận cho thấy.’

‘Như vậy người công bình chính trực có vẻ là một loại kẻ trộm,’ bản nhân tiếp lời, ‘quan niệm này có lẽ hiền điệt rút ra từ Homer [b]. Thi sĩ đề cao Autolykos, ông ngoại Odysseus, đồng thời cũng cho thấy lão già vượt xa mọi người về tài ăn trộm và thề gian. Bởi thế công bình chính trực theo hiền điệt, Homer và Simonides là loại ăn trộm mặc dù thực hiện là nhằm giúp bạn hoặc hại thù. Hiền điệt nghĩ vậy phải không?’

‘Thưa, không hẳn vậy,’ thanh niên đáp, ‘song tiểu điệt không còn nắm vững mình định nói gì. Dẫu vậy tiểu điệt vẫn nghĩ công bình chính trực là giúp bạn hại thù.’

‘Khi nói bạn, hiền điệt có hàm ý người có vẻ tử tế [c] hoặc người thực sự tử tế dù họ không có vẻ như vậy không? Và với thù cũng thế hả?’

‘Thưa, sự thể dường như cho thấy ưa hay ghét tùy theo con người nghĩ, coi bạn là tốt, coi thù là xấu.’

‘Phải chăng người đời thường lầm chuyện này, nghĩ con người tốt trong khi con người không tốt, và ngược lại?’

‘Thưa, đúng thế.’

‘Vậy khi chuyện như thế xảy ra, con người có coi người tử tế là thù và người xấu xa là bạn không hở?’ ‘Nên.’

‘Vậy nghĩa là nên giúp người xấu xa hại người tử tế. [d]

‘Tiểu điệt nghĩ nên.’

‘Nhưng người tử tế là người công bình chính trực, không phải loại người làm điều sai trái.’

‘Thưa, đúng thế.’

‘Như vậy theo chiều hướng lý luận của hiền điệt, hại người không làm điều sai trái là phải.’

‘Ô, không, không phải thế, thưa tiên sinh,’ thanh niên nói. ‘Xem ra có vẻ lý luận của tiểu điệt sai lầm.’ ‘Vậy,’ bản nhân tiếp lời, ‘hại kẻ làm điều sai trái, giúp người làm điều đúng đắn là phải, phải không?’ ‘Thưa, vậy nghe hợp lý hơn.’

‘Nhưng vì trong nhận định có nhiều người lầm, Polemarchus ơi, nên thường thấy xảy ra chuyện [e] người đời cho rằng hại bạn họ coi là xấu, giúp thù họ coi là tốt là phải. Nếu khẳng định điều này, ngô bối sẽ mâu thuẫn với điều Simonides muốn nói.’

‘Thưa,’ thanh niên tiếp lời, ‘đó là kết quả những gì ngô bối đang bàn. Bởi thế nên đặt lại vấn đề thay đổi những gì đã định từ đầu. Vì định nghĩa của ngô bối về bạn và thù có lẽ không đúng.’

‘Không đúng thế nào, Polemarchus?’

‘Khi ngô bối nói người có vẻ tử tế là bạn.’

‘Thay vì thế nên thay đổi ra sao?’ Bản nhân hỏi.

‘Nên định nghĩa người không phải chỉ tỏ vẻ tử tế, mà thực sự tử tế là bạn; người có vẻ tử tế, song thực sự không tử tế, [335a] là bạn bề ngoài, không phải bạn đích thực. Với kẻ thù cũng vậy.’

‘Theo lối lý luận như thế người tử tế là bạn, người xấu xa là thù.’ ‘Vâng.’

‘Như vậy là hiền điệt muốn ngô bối thêm vào định nghĩa trước đây về công bình chính trực (công bình chính trực là làm tốt cho bạn, làm hại cho thù), bằng cách khẳng định nên làm điều tốt với bạn miễn bạn là người tốt, làm điều xấu với thù miễn thù là người xấu, phải không?’

‘Thưa, tiểu điệt nghĩ nói như thế mới phải.’ [b]

‘Người công bình chính trực có nên hại con người bất kể con người thế nào không hở?’

‘Thưa, nên,’ thanh niên đáp, ‘mình phải làm hại người xấu xa, họ là kẻ thù của mình.’

‘Nếu hãm hại con ngựa ngô bối làm nó tốt hơn hay xấu hơn?’

‘Xấu hơn.’

‘Xấu hơn nghĩa là theo mức độ tuyệt hảo, căn cứ vào đó ngô bối đánh giá ngựa, chứ không phải chó?’ ‘Thưa, phải.’

‘Chó cũng vậy. Con chó nếu bị hãm hại sẽ trở thành con chó xấu xa theo mức độ tuyệt hảo, căn cứ vào đó ngô bối đánh giá chó, chứ không phải ngựa. Phải vậy không?’

‘Đúng vậy.’

‘Nhưng [c] đối với con người, quý hữu ơi, ngô bối có nên nói nếu bị hãm hại con người sẽ trở thành xấu xa theo mức độ tuyệt hảo của con người không hở?’

‘Đương nhiên.’

‘Thế công bình chính trực không phải mức độ tuyệt hảo của con người ư?’

‘Thưa, phải chứ.’

‘Như vậy cần nói thêm, Polemarchus ơi, con người nếu bị hãm hại sẽ trở thành bất công, bất chính gấp bội.’

‘Sự thể dường như vậy.’

‘Ờ, nhạc sĩ có nên sử dụng khả năng để làm cho học sinh trở thành kém cỏi về âm nhạc không?’

‘Không nên.’

‘Người luyện ngựa có nên sử dụng khả năng để làm cho học viên trở thành kém cỏi về cưỡi ngựa không?’

‘Chắc không.’

‘Người công bình chính trực có nên sử dụng công bình chính trực để làm cho người khác bất công bất chính không? Hoặc, tóm lại, người tử tế có nên sử dụng tử tế để làm cho người khác xấu xa không?’ [d]

‘Chẳng nên.’

‘Bản nhân nói thế là vì chức năng của nhiệt không phải làm cho mọi vật lạnh, mà là chức năng của đối lập của nhiệt.’

‘Vâng.’

‘Chức năng của khô không phải làm cho mọi vật ướt, mà là chức năng của đối lập của khô.’ ‘Thưa, đúng thế.’

‘Như vậy làm hại con người không phải chức năng của người tử tế, mà là chức năng của đối lập của người tử tế.’

‘Tiểu điệt nghĩ vậy.’

‘Thế người công bình chính trực có phải người tử tế không hả?’

‘Thưa, dĩ nhiên.’

‘Như vậy, Polemarchus ơi, chức năng của người công bình chính trực không phải làm hại thân hữu hay bất kỳ ai, mà là chức năng của người đối lập, người bất công bất chính.’

‘Thưa, tiểu điệt nghĩ tiên sinh nói rất ư chính xác.’

‘Bởi thế cho rằng công bình chính trực là phần người nào trả lại người nấy [e] là phải, là đúng, nếu việc trả lại hàm ý người công bình chính trực đem hại cho thù, mang lợi cho bạn, chủ trương đó là chủ trương không ai hiểu biết làm cả. Bản nhân muốn nói, chủ trương đó sai lầm. Ngô bối đã thấy làm hại bất kỳ ai bất kể lúc nào không bao giờ là phải.’

‘Tiểu điệt đồng ý.’

‘Vậy hiền điệt và bản nhân sẽ cùng nhau hiệp lực tranh luận quyết liệt với bất kỳ ai khẳng định quan điểm đó là của Simonides, Bias, Pittacus hay bất kỳ vị nào trong nhóm hiền triết vô cùng thâm thúy.’

‘Thưa, phần riêng,’ thanh niên đáp, ‘tiểu điệt sẵn sàng đứng cạnh tiên sinh tham gia cuộc tranh luận.’

‘Hiền điệt có hay theo bản nhân quan điểm chủ trương giúp bạn hại thù [336a] là phải lẽ là của ai không?’

‘Của ai vậy, hở tiên sinh?’

‘Theo bản nhân, đó là quan điểm của Periander, Perdiccas, Xerxes, Ismenias thành Thebes hoặc người giàu có, cao ngạo tưởng tượng bản thân quyền thế vô hạn vô biên.

‘Điều tiên sinh nói vô cùng chí lý.’

‘Ờ, ờ,’ bản nhân tiếp lời, ‘bây giờ đến đây đã thấy công bình chính trực và cư xử tử tế, ăn ở phải lẽ không chỉ gồm có vậy, ngô bối có nên đưa ra định nghĩa thay thế hay không?’

Trong lúc ngô bối mải mê trao đổi ý kiến Thrasymachus nhiều lần tìm cách [b] ngăn chặn, song người ngồi bên cạnh ngăn cản, họ muốn nghe tranh luận kết thúc. Nhưng đến lúc ngô bối ngừng, bản nhân hỏi lần chót, không còn có thể im lặng được nữa, dáng vẻ hầm hầm, đương sự thu mình chồm lên chẳng

khác thú dữ làm như muốn xé xác ngô bối. Polemarchus và bản nhân rùng mình, hết hồn. Bước ra giữa nhóm đương sự hùng hổ thốt lời: ‘Chuyện gì khiến nhị vị từ nãy đến giờ bận tâm đến thế hở Socrates tiên sinh? [c] Tại sao cứ khúm núm, lịch sự nhường bước cho nhau phi lý như vậy? Nếu thực sự muốn biết công bình chính trực là gì, xin đừng đặt câu hỏi, rồi muốn tỏ ra tài ba bẻ lại bất kỳ ai trả lời. Tiên sinh thừa hiểu đặt câu hỏi dễ như trở bàn tay, trả lời câu hỏi khó như mò kim đáy biển. Xin cho ngô bối hay câu trả lời của tiên sinh, và cho ngô bối biết tiên sinh nghĩ thế nào là công bình chính trực. Xin [d] đừng nói với bỉ phu đó là bổn phận, là mưu chước, là lợi thế hay lợi điểm, bỉ phu sẽ không chịu nổi thứ nói dài dòng, trống rỗng như thế, cho bỉ phu hay định nghĩa chính xác và rõ ràng.’

Choáng váng vì lời tấn công dồn dập bản nhân thất kinh nhìn đương sự. Nếu chưa thấy mặt trước khi đương sự thấy mặt bản nhân, bản nhân sẽ chết lặng không nói nên lời. Rất may đã để ý nhìn lúc đương sự bắt đầu nổi nóng trong cuộc tranh luận, vì thế lựa chiều đáp lại, bản nhân run rẩy, rụt rè [e] nhỏ nhẹ: ‘Xin đừng nặng lời với ngô bối, Thrasymachus. Trong khi tranh luận, tìm hiểu quan điểm nếu có phạm sai lầm, khẳng định với quý nhân, Polemarchus và bản nhân vô tình chứ không cố ý. Bởi lẽ nếu tìm tiền của, quý nhân cứ tin đi, bất luận tình huống thế nào, ngô bối sẽ không bao giờ sẵn sàng nhường bước cho người khác trong cuộc kiếm tìm và vì lịch sự bỏ lỡ cơ may lùng sục cho ra. Ngô bối đi tìm công bình chính trực, vì công bình chính trực giá trị gấp bội vàng bạc. Bởi thế quý nhân đừng nghĩ, do ngu muội triển hoãn lẫn nhau, ngô bối sẽ lơi là không cố gắng tìm đến nơi đến chốn. Bản nhân khẳng định với quý nhân ngô bối cố hết sức. Tiếc chăng là công việc ngoài khả năng, nếu ngô bối thiếu khôn khéo, bản nhân chắc vậy, người khôn khéo như quý nhân nên thương hại [337a] chứ đừng sừng sộ, quạu quọ với ngô bối.’

Lắng nghe rồi phá ra cười, tiếng cười đượm vẻ mỉa mai hết sức, Thrasymachus tuôn lời: ‘Ôi chao! Socrates lại hiện nguyên hình giả bộ dốt đặc cán mai! Bỉ phu biết sự thể thế nào cũng diễn ra; không những thế lúc nãy bỉ phu còn nói với mấy người hiện diện ở đây, tiên sinh sẽ không bao giờ sẵn lòng biểu lộ quan điểm mà rắp tâm làm ra vẻ không biết làm bất kể cái gì chứ không chịu trả lời câu hỏi.’

‘Ấy chỉ vì quý nhân khôn khéo quá chừng, Thrasymachus,’ bản nhân đáp. ‘Bởi thế quý nhân thừa biết sự thể nếu hỏi người nào đó thế nào là mười hai, rồi như báo động dặn trước: “Anh ơi, nhớ đừng nói mười hai là hai lần sáu, [b] ba lần bốn, sáu lần hai hoặc bốn lần ba. Tôi sẽ không chịu loại phi lý đó đâu.” Và bản nhân tin chắc quý nhân biết rõ không ai sẽ trả lời như thế. Trái lại, người đó sẽ hỏi: “Thrasymachus, anh muốn thế nào? Anh không muốn tôi trả lời bất kể câu hỏi nào anh nêu phải không, ngay cả câu đúng? Tôi sẽ nói thế nào ngoài sự thật, nghĩa là, anh có muốn tôi trả lời sai không?” [c] Quý nhân sẽ trả lời người đó ra sao?’

‘Ô, so sánh như vậy không chỉnh, hai trường hợp không giống nhau!’ Đương sự đáp.

‘Tại sao không?’ Bản nhân dồn lời. ‘Vả chăng dù hai trường hợp không giống nhau, song giống nhau đối với người quý nhân hỏi, ngô bối cũng không nên ngăn cản bất kỳ ai trả lời, nếu người đó thấy đúng, bất kể ngô bối ưng hay không.’

‘Thưa, đó là điều tiên sinh sẽ làm phải không?’ Đương sự hỏi. ‘Trả lời một trong số câu bỉ phu bác bỏ?’

‘Bản nhân sẽ không ngạc nhiên nếu quyết định làm vậy sau khi xem xét vấn đề.’

‘Nếu bỉ phu đưa ra định nghĩa khác hẳn, song đúng hơn, [d] về công bình chính trực thì sao,’ đương sự hỏi lại, ‘tiên sinh chịu phạt vạ thế nào?’

‘Phạt vạ xứng đáng dành cho dốt nát, dĩ nhiên,’ bản nhân khẳng định, ‘xứng đáng vì người dốt phải học người giỏi; đó là phạt vạ bản nhân xứng đáng đón nhận.’

‘Đề nghị khả ái!’ Đương sự tiếp lời, ‘nhưng muốn học hỏi tiên sinh còn phải trả học phí.’ ‘Bản nhân sẽ trả khi có tiền.’

‘Tiền không thành vấn đề,’ Glaucon chen lời, ‘ngô bối sẽ chung góp trả cho Socrates. Vậy cho mọi người hay định nghĩa, Thrasymachus.’

‘Vâng, sẵn sàng!’ Đương sự tiếp lời. ‘Để Socrates tiếp tục trò chơi cố hữu, [e] không bày tỏ quan điểm, song phê bình, phản bác khi người khác tỏ bày.’

‘Nhưng, quý nhân quý hóa ơi, sở dĩ vậy ấy chỉ vì bản nhân không biết làm thế nào!’ Bản nhân giải thích. ‘Làm sao có thể bộc lộ quan điểm khi trước hết không những mình dốt mà còn thừa nhận mình dốt? Sau nữa dù có biết cũng không được nói ngược lại quan điểm của người tầm vóc đáng kể? Không, quý nhân phải nói mới phải, [338a] nhất định, vì tuyên bố biết và muốn nói đôi điều. Vậy xin vui lòng làm như bản nhân yêu cầu. Nói rõ quan điểm của mình là quý nhân biểu lộ cảm tình với bản nhân, đồng thời hoan hỉ giảng giải cho Glaucon và mọi người hiện diện ở đây cùng hay.’

Nghe nói thế Glaucon và mấy người bèn hối thúc đương sự làm như bản nhân đề nghị. Rõ ràng muốn nói vì nghĩ ở địa vị bề thế khiến mọi người ca ngợi, vậy mà đương sự tiếp tục che giấu, nại cớ bản nhân mới là người phải nói quan điểm của mình. Nhưng cuối cùng đương sự nhượng bộ, sau đó nói thêm: ‘Bây giờ [b] quý vị sẽ thấy Socrates thâm hậu thế nào, tiên sinh từ chối không chịu dạy dỗ bất cứ ai cái gì, thay vì thế lần mò, quanh quẩn học hỏi người khác, dẫu vậy để đền đáp cũng không ngỏ một lời cảm ơn.’

‘Thrasymachus, quý nhân nói rất phải khi bảo bản nhân học hỏi người khác,’ bản nhân đáp lời, ‘song chẳng đúng tí nào khi nói bản nhân không biết bày tỏ cảm ơn. Bản nhân đền đáp theo khả năng, chỉ còn biết ngỏ lời ca ngợi, vì không có tiền bạc. Nếu thấy ai trả lời tốt đẹp, bản nhân sẵn sàng hoan nghênh, quý nhân sẽ thấy tức thì khi nói cho mọi người hay quan điểm, vì bản nhân tin chắc quan điểm đó tốt đẹp.’

‘Vâng, [c] vậy xin lắng nghe,’ đương sự đáp. ‘Quan điểm của bỉ phu là công bình chính trực hay phải lẽ chỉ là quyền lợi của phe mạnh. Ờ, tại sao quý vị không tán thưởng? Bỉ phu biết quý vị sẽ bác bỏ.’

‘Bản nhân sẽ tán thưởng khi hiểu quý nhân muốn nói gì,’ bản nhân nói với đương sự. ‘Vì hiện thời bản nhân chưa hiểu. Quý nhân nói lẽ phải là quyền lợi của phe mạnh. Nhưng trời đất quỷ thần ơi, Thrasymachus, quý nhân hàm ý gì khi nói quyền lợi? Chắc hẳn quý nhân không muốn nói sở dĩ võ sĩ đô vật Poulydamas khỏe hơn ngô bối, vì thế có lợi điểm, nhằm bồi bổ cho thân thể cường tráng, nên ăn thịt bò, bởi món này có lợi, do vậy cũng phải lẽ đối với ngô bối yếu hơn đương sự [d] chứ gì?’

‘Socrates, tiên sinh kinh quá, khiếp quá,’ đương sự đáp lại, ‘giải thích theo cung cách sẽ tạo điều kiện

cho bản thân không ngần ngại bóp méo, bẻ queo điều bỉ phu trình bày.’

‘Không phải tí nào, Thrasymachus, quý nhân hiểu lầm bản nhân rồi,’ bản nhân tiếp lời. ‘Bản nhân chỉ muốn quý nhân giải thích rõ ràng hơn nữa.’

‘Vâng, tiên sinh có biết trong số thành quốc của ngô bối có thành quốc độc tài, có thành quốc dân chủ, có thành quốc quý tộc không?’

‘Có chứ.’

‘Và tiên sinh có biết ở thành quốc như thế quyền hành nằm trong tay phe cai trị không?’ ‘Biết chứ.’

‘Tùy loại chính quyền, [e] ban hành luật pháp chính quyền đều nhằm bảo vệ quyền lợi của họ, chính quyền dân chủ ban hành luật pháp dân chủ, chính quyền độc tài ban hành luật pháp độc tài, chính quyền khác làm tương tự. Khi ban hành luật pháp chính quyền nào cũng khẳng định rõ rệt cái công bình, hợp lý với thứ dân là cái đúng với quyền lợi của họ, người cầm quyền, nếu tách khỏi, đi ngược cái có lợi với chính quyền là phạm luật, làm sai sẽ bị trừng trị. Thưa, tiên sinh, bỉ phu xác định công bình, hợp lý là vậy. Sự thể ở thành quốc nào cũng thế, đó là quyền lợi của chính quyền hiện hữu. [339a] Dĩ nhiên, chính quyền đó nắm quyền lực quốc gia. Bởi thế nếu lý luận đúng cách ngô bối sẽ thấy công bình, hợp lý luôn luôn tương tự, bất kỳ ở đâu đều là quyền lợi của phe mạnh.’

‘Vâng,’ bản nhân tiếp lời, ‘bản nhân hiểu ý quý nhân. Tiếp theo ngô bối cần phân tích xem điều quý nhân khẳng định đúng hay sai. Trả lời quý nhân nói công bình, hợp lý là quyền lợi, mặc dù đây là câu trả lời quý nhân không đồng ý bản nhân đưa ra, song ngay đó quý nhân lại thêm “phẩm chất của phe mạnh”.’

‘Phẩm chất tầm thường, [b] bỉ phu nghĩ tiên sinh sẽ nói.’

‘Ý nghĩa phẩm chất quan trọng hay không chưa rõ rệt; cái rõ rệt là ngô bối phải xem xét điều quý nhân nói đúng hay không. Điểm cần nói là bản nhân hoàn toàn đồng ý công bình, hợp lý là quyền lợi; song bồi thêm phẩm chất quý nhân khẳng định đó là quyền lợi của phe mạnh; vì bản nhân chưa nắm vững ý kiến về phẩm chất, vậy ngô bối cần đi sâu vào vấn đề.’

‘Xin tiếp tục.’

‘Vâng, vâng,’ bản nhân ề à, ‘thưa, đây là câu hỏi. Quý nhân bảo tuân lệnh chính quyền, làm theo quyền lực cai trị cũng phải, đúng không?’

‘Thưa, đúng.’

‘Thế người nắm quyền ở mọi thành quốc không bao giờ sai lầm hay có thể sai lầm? [c] ‘Dĩ nhiên họ có thể sai lầm.’

‘Vì thế khi làm luật họ có thể làm đúng hoặc có thể làm sai.’

‘Bỉ phu nghĩ rất có thể thế đấy.’

‘Nếu họ làm đúng, điều luật họ làm sẽ phục vụ quyền lợi của họ; trái lại, nếu họ làm sai, điều luật họ làm sẽ không đáp ứng quyền lợi của họ. Có phải quý nhân định nói thế không?’

‘Vâng.’

‘Và quý nhân còn nói thứ dân phải cư xử đúng luật họ ban hành, vì đó là phải lẽ, hợp lý.’

‘Dĩ nhiên.’

‘Vậy theo chiều hướng lý luận của quý nhân làm phải là làm theo không những [d] quyền lợi phe mạnh mà cả quyền lợi phe đối lập.’

‘Tiên sinh muốn nói gì vậy?’ Đương sự giật giọng hỏi.

‘A, bản nhân nói y hệt quý nhân. Tuy nhiên, ngô bối nên xem xét vấn đề cặn kẽ hơn nữa. Thế ngô bối đã chẳng đồng ý người cầm quyền, khi hạ lệnh thứ dân làm theo điều gì, đôi khi sai lầm quyết liệt với chính quyền lợi của họ, và ngô bối cũng đồng ý thứ dân tuân theo điều luật là phải phép, bất kể người cầm quyền ra lệnh thế nào rồi sao?’

‘Bỉ phu nghĩ ngô bối đã đồng ý.’

‘Thế thì [e] quý nhân cũng phải công nhận,’ bản nhân tiếp tục, ‘làm điều bất lợi cho chính quyền và phe mạnh là phải phép. Khi người cầm quyền ra lệnh sai lầm, bất lợi cho họ, vì quý nhân khẳng định, thứ dân làm theo lệnh chính quyền là phải phép, như vậy Thrasymachus quý mến ơi, trong trường hợp đó, làm ngược điều quý nhân nói đúng hay sai? Bản nhân muốn nói phe yếu theo lệnh phải làm cái bất lợi cho phe mạnh. Với hiểu biết cao rộng quý nhân tất nhiên nhận ra sự thể tiếp theo.’

‘Socrates tiên sinh, kết luận khá rõ ràng,’ [340a] Polemarchus la lớn. ‘Đúng thế,’ Cleitophon chen lời, ‘nếu ngô bối tin lời quý hữu.’

‘Không phải vấn đề lời bỉ nhân,’ Polemarchus đáp, ‘rõ ràng Thrasymachus đồng ý người cầm quyền đôi khi ban luật có hại cho họ, thứ dân tuân theo luật đó là phải phép.’

‘Ấy chỉ vì, Polemarchus ơi, Thrasymachus khẳng định tuân hành luật của người cầm quyền là phải.’

‘Vì [b] Cleitophon biết chứ, đương sự cũng chủ trương quyền lợi của phe mạnh là phải. Khẳng định cả hai điều, đương sự còn thừa nhận phe mạnh đôi khi ban luật không đúng với quyền lợi của họ, phe yếu thứ dân phải nhắm mắt tuân theo. Từ tiền đề đó ngô bối rút ra kết luận lẽ phải, công bình chính trực là cái có lợi, đồng thời cũng là cái có hại cho phe mạnh, không hơn không kém.’

‘Nhưng,’ Cleitophon phản đối, ‘điều Thrasymachus muốn nói quyền lợi của phe mạnh là điều phe mạnh nghĩ đó là quyền lợi của họ. Đó là điều thứ dân phải tuân theo, và đó là điểm Thrasymachus chủ trương hợp lý, phải lẽ, công bình chính trực là thế nào.’

‘Nhưng Thrasymachus không nói vậy,’ Polemarchus nhận xét.

‘Không sao, [c] Polemarchus,’ bản nhân đỡ lời. ‘Nếu đó là điều Thrasymachus muốn nói, ngô bối chấp nhận quan điểm. Vậy Thrasymachus, vui lòng cho bản nhân hay phải chăng quý nhân muốn định nghĩa phải lẽ, hợp lý, công bình chính trực là điều hình như đối với phe mạnh là quyền lợi của họ, dù có thực sự là vậy hay không? Và phải chăng