← Quay lại trang sách

Chương 7.

‘Sao? Thế quý hữu không để ý quan điểm không căn cứ vào hiểu biết luôn luôn sai lầm ư? Giá trị lớn nhất trong số là mù đặc. Quý hữu có nghĩ người biểu lộ quan điểm chân thực, song không hiểu biết chẳng khác người mù đi theo lề phải ư?’ [d]

‘Không khác.’

‘Quý hữu có muốn bản nhân trình bày sự việc tồi tàn, đui mù, dị dạng khi có thể nghe người khác kể sự việc tươi sáng, ngoạn mục không?’

‘Không, trời ơi! Socrates,’ Glaucon năn nỉ, ‘đừng dừng bước như thể tiên sinh đã tới đích. Ngô bối sẽ mãn nguyện vô cùng nếu tiên sinh bàn luận chân thiện như cách tiên sinh bàn luận công bình, tiết độ, cùng đề tài khác.’

‘Ô, thân hữu quý mến ơi, làm vậy cũng khiến bản nhân mãn nguyện hết sức, song bản nhân sợ ngoài khả năng, và bản nhân ngại nếu liều mạng bản nhân sẽ biến mình thành trò cười vì vụng về, kém cỏi. Bởi thế, bản nhân đề nghị, quý hữu quý hóa, những người đầy ơn phước, ngô bối hãy tạm ngừng định nghĩa bản chất chân thiện lúc này. [e] Bản nhân lo đạt tới cái bản nhân nghĩ là câu trả lời thỏa đáng là vượt quá phạm vi tìm hiểu hiện tại của ngô bối. Tuy thế, bản nhân sẽ sẵn sàng nói quý hữu hay, nếu quý hữu muốn, cái hình như là con đẻ của chân thiện giống chân thiện hết sức. Nếu không ngô bối nên ngừng.’

‘Ờ, nói cho ngô bối hay chuyện đứa con, còn chuyện người cha tiên sinh giữ đó sau này sẽ tính.’

‘Đó là món nợ bản nhân hy vọng trả và quý hữu nhận đầy đủ, [507a] thay vì chỉ trả tiền lời đối với tiền vay. Hiện tại xin vui lòng nhận thằng con bản nhân miêu tả, sản phẩm của chân thiện như tiền lời. Song xin cẩn thận bản nhân không cố ý phỉnh lừa quý hữu, bịa chuyện tiền lời phải trả!’

‘Ngô bối sẽ cẩn thận tối đa. Vậy bắt đầu.’

‘Bản nhân sẽ làm, nhưng trước hết phải được quý hữu đồng ý. Xin lưu ý quý hữu phân biệt ngô bối phát biểu trước đây, và nhắc lại nhiều lần trong lúc thảo luận.’

‘Phân biệt thế nào?’ [b]

‘Ngô bối phân biệt có nhiều sự vật đặc biệt là sự vật đẹp, nhiều sự vật là sự vật tốt, trong khi bàn luận ngô bối khẳng định sự vật hiện hữu như vậy.’

‘Vâng, đúng thế.’

‘Mặt khác, ngô bối cũng khẳng định cái đẹp tồn tại trong chính nó, cái tốt hiện hữu trong chính nó, cũng như tất cả sự vật lúc đó ngô bối xếp loại như đa số. Bây giờ, làm ngược lại, ngô bối xếp loại mỗi sự vật theo hình trạng duy nhất, như thể hình trạng là một, và ngô bối gọi mỗi sự vật theo thực trạng của nó.’

‘Đúng thế.’

‘Ngô bối nói sự vật cụ thể là đối tượng của thị giác, không phải đối tượng của tư tưởng, trong khi hình trạng là đối tượng của tư tưởng, không phải đối tượng của

thị giác.’

‘Đương nhiên.’

‘Với bộ phận nào [c] trong cơ thể ngô bối có thể nhìn sự vật ngô bối nhìn?’ ‘Với thị giác.’

‘Ngô bối nghe bằng thính giác và nhận thức sự vật bằng giác quan khác?’ ‘Đúng thế.’

‘Vậy quý hữu có để ý người sáng tạo giác quan cho ngô bối hào phóng nhường nào đã cho thị giác năng lực nhìn lại còn làm cả sự vật để thị giác nhìn không?’

‘Tiện nhân không thể nói có để ý hay không.’

‘Vậy đặt vấn đề thế này. Thính giác và âm thanh có cần cái gì trợ giúp để tai có thể nghe và âm thanh có thể nghe thấy, [d] yếu tố thứ ba, không có cái đó, thính giác không thể nghe, âm thanh không thể nghe thấy không?’

‘Không, cả hai không cần cái gì.’

‘Sự thể cũng đúng với giác quan khác, bản nhân muốn nói tất cả. Hay quý hữu có thể kể giác quan nào cần cái gì không?’

‘Thưa, không.’

‘Nhưng quý hữu có để ý thị giác và đối tượng của thị giác cần cái như thế không?’ ‘Như thế nào?’

‘Nếu mắt có khả năng nhìn, mắt sẽ tìm cách sử dụng khả năng này, nếu sự vật có màu sắc, dẫu vậy quý hữu biết mắt sẽ không nhìn thấy gì, [e] màu sắc sẽ không nhìn thấy, nếu không có yếu tố thứ ba hiện diện cụ thể và tự nhiên thích hợp với mục đích.’

‘Cái gì vậy?’

‘Cái quý hữu gọi là ánh sáng.’ ‘Đúng.’

‘Ý thức của thị giác và khả năng của đối tượng ràng buộc chặt chẽ với nhau trên phạm vi rộng lớn bởi liên hệ quý báu [508a] hơn liên hệ nối kết bất kể giác quan nào với đối tượng, nghĩa là quý báu lắm, nếu ánh sáng không bị coi thường.’

‘Thưa, không, nhất định trang trọng.’

‘Vậy thiên thể nào quý hữu coi là liên hệ tới chuyện này? Ánh sáng của thiên thể khiến mắt ngô bối nhìn và thấy đối tượng hoàn chỉnh, ngoạn mục đến thế?’

‘Tiện nhân sẽ trả lời như tiên sinh hoặc bất kỳ ai; tiên sinh muốn nói mặt trời chứ gì.’

‘Vậy thị giác liên hệ tự nhiên với nguồn gốc thiêng liêng như vậy phải không?’

‘Như thế nào?’

‘Mặt trời không phải thị giác và cũng không phải vật thể ngô bối gọi là con mắt [b] trong đó thị giác cư ngụ.’

‘Nhất định không phải.’

‘Tuy thế trong số cơ phận của giác quan con mắt giống mặt trời hơn hết.’

‘Vâng, hết sức.’

‘Vậy thị lực là tinh chất mặt trời bào chế cho con mắt?’

‘Hiển nhiên.’

‘Tuy không phải thị giác, song mặt trời là nguồn gốc của thị giác và thị giác nhìn thấy mặt trời. Đúng không?’

‘Đúng vậy.’

‘Ờ, bản nhân gọi mặt trời là con đẻ của chân thiện; chân thiện sinh con tương tự bản thân; trong thế giới siêu hình chân thiện có liên hệ thế nào với tư tưởng và sự vật nhận thức, [c] thì trong thế giới hữu hình mặt trời cũng có quan hệ tương tự với thị giác và vật thể quan sát.’

‘Như thế nào? Xin vui lòng giải thích thêm một chút.’

‘Quý hữu biết khi ngô bối để mắt nhìn vật thể màu sắc không còn như lúc có ánh sáng ban ngày mà mờ dần trong bóng đêm như dưới ánh trăng, ánh sao, mắt ngô bối nhìn lờ mờ và có vẻ hầu như đui mù làm như không còn thị giác rõ ràng.’

‘Đúng thế.’

‘Nhưng khi ngô bối nhìn vật thể [d] mặt trời soi sáng, mắt ngô bối nhìn rõ ràng, thị giác xuất hiện hiển nhiên trong cùng con mắt?’

‘Vâng, đúng thế.’

‘Áp dụng loại suy vào tâm trí. Khi xoáy sâu vào vật thể rực sáng vì sự thật và thực tại, tâm trí hiểu và biết vật thể, tâm trí có tư tưởng là hiển nhiên. Nhưng khi dán mắt vào vật thể trộn lẫn bóng tối trong thế giới thay đổi, biến dạng, đúng độ hoàng hôn, tâm trí chỉ có thể hình thành quan niệm, tầm nhìn chập choạng, quan niệm chao đảo, tâm trí vào lúc như thế dường như không sở đắc tư tưởng.’

‘Thưa, đúng vậy.’

‘Bởi thế có thể nói cái đem lại cho đối tượng của hiểu biết sự thật [e] và tâm trí người hiểu biết khả năng nhận thức là hình trạngcủa chân thiện. Vì chân thiện là nguồn gốc của hiểu biết và sự thật, quý hữu đúng khi nghĩ chân thiện là đối tượng của hiểu biết, song là cái khác hơn, rực rỡ hơn hiểu biết và sự thật. Cũng như quý hữu đúng khi nghĩ ánh sáng và thị giác giống mặt trời, [509a] song sai nếu nghĩ cả hai là mặt trời, bởi thế chỗ này lại đúng nếu nghĩ hiểu biết và sự thật giống chân thiện, nhưng sai nếu cho rằng cả hai là chân thiện, vị thế chân thiện vẫn phải xếp loại, vinh danh cao hơn.’

‘Tiên sinh đề cập cái rực rỡ giá trị khôn lường nếu cái đó không những cung ứng hiểu biết và sự thật mà còn ngoạn mục hơn cả hai. Tiện nhân muốn nói chắc hẳn tiên sinh không hàm ý đó là vui thú!’

‘Chà, ác ý, Glaucon! Thôi ngô bối nên tìm hiểu hình ảnh cái đó theo cách này.’ ‘Như thế nào?’ [b]

‘Bản nhân nghĩ quý hữu sẽ đồng ý mặt trời không những tạo khả năng cho thị giác nhìn thấy đối tượng mà còn cung ứng cho đối tượng quá trình hình thành, phát triển, dinh dưỡng mặc dù chính nó không kinh qua tiến trình tương tự.’

‘Sao lại thế?’

‘Vì vậy có thể nói chân thiện là nguồn cội không những của nhận thức đối tượng của hiểu biết mà còn là hiện hữu và thực tại của đối tượng của hiểu biết; dẫu thế chân thiện tự nó không là thực tại đó, mà vượt xa, cao hơn thực tại đó về uy danh và quyền năng.’ [c]

‘Chắc hẳn nó siêu việt một cách kỳ lạ,’ Glaucon nhận xét dí dỏm.

‘Ấy, đừng vội trách cứ bản nhân. Chính quý hữu đã thúc đẩy bản nhân nói những gì bản nhân nghĩ về cái đó.’

‘Vâng, đúng thế, song chớ ngừng, nếu cần chỉ một tí, mà tiếp tục giải thích tình trạng tương tự với mặt trời. Dù thế nào cũng hoàn tất loại suy, đừng bỏ qua cái gì, nếu tiên sinh chưa hoàn tất.’

‘Thực ra bỏ qua nhiều rồi, song bản nhân hầu như chưa hoàn tất.‘ ‘Đừng bỏ qua ngay cả chi tiết nhỏ nhặt.’

‘Rất tiếc bản nhân sợ phải bỏ qua quá nhiều. Nhưng trong tình huống hiện tại cố gắng giải thích tối đa bản nhân sẽ không bỏ qua cái gì.’

‘Vâng, xin đừng, tiên sinh!’

‘Quý hữu [d] nên nhớ bản nhân đề cập hai quyền lực: một tối thượng đối với mọi vật trong vùng lý tính, một tối thượng đối với sự vật trong vùng hữu hình. Bản nhân không nói vũ trụ vật lý kẻo quý hữu lại bảo bản nhân chơi chữ, gọi tên theo kiểu triết phái Sophist. Dù sao quý hữu cũng có trước mặt hai trật tự sự vật, loại hữu hình và loại lý tính.’

‘Vâng.’

‘Ờ, hãy hình dung sự vật như đường thẳng chia thành hai phần không bằng nhau, rồi lại chia hai phần đó theo tỷ lệ tương tự, miêu tả phần hữu hình và phần lý tính. Quý hữu sẽ có các phần liên hệ với nhau theo tỉ lệ sáng và tối tương đối. Phần thứ nhất của phần hữu hình (D) gồm hình ảnh, [e] nói hình ảnh bản nhân muốn nói trước tiên một số sự vật: bóng mờ, hình chiếu trên mặt nước, [510a] hoặc bất kể cái gì bóng láng, nhẵn nhụi, mịn mặt, đại loại như vậy, mong quý hữu hiểu ý bản nhân.’

‘Thưa, tiện nhân hiểu.’

‘Phần khác của phần hữu hình (C) dành cho vật thể sinh ra hình ảnh, sinh vật quanh ngô bối, đủ loại thảo mộc, động vật trên trần gian, cả đồ vật chế tạo nữa.’

‘Tiện nhân xếp tất cả như vậy.’

‘Quý hữu có sẵn sàng đồng ý hai phần đó khác nhau ở chỗ một thực, một không thực, và liên hệ của hình ảnh với nguồn gốc cũng tương tự liên hệ của quan niệm với hiểu biết không?’

‘Chắc hẳn tiện nhân đồng ý.’ [b]

‘Tiếp theo xin để ý phần lý tính của đường thẳng phân chia ra sao.’ ‘Như thế nào?’

‘Như thế này. Trong một phần của phần này (B) tâm trí sử dụng nguồn gốc của trật tự hữu hình như hình ảnh, song tìm hiểu phải dựa vào giả thiết, rồi từ giả thiết tiến tới không phải nguyên lý đầu tiên mà kết luận. Trong phần khác (A) tâm trí di chuyển từ giả thiết tới nguyên lý đầu tiên không liên hệ tới giả thiết, không sử dụng hình ảnh trong phần trước, song tiếp tục tìm hiểu hoàn toàn bằng và qua hình trạng.’

‘Tiện nhân không hiểu tiên sinh định nói gì.’ [c]

‘Vậy bắt đầu lại. Quý hữu sẽ hiểu không chút khó khăn điều bản nhân sắp nói bây giờ. Bản nhân nghĩ quý hữu biết người học hình học, toán học, mấy thứ cùng loại, thừa nhận số chẵn, số lẻ, hình kỷ hà, ba loại góc và nhiều thứ liên hệ mỗi môn học làm như đã hiểu tất cả. Người học coi tất cả như giả thiết không cần giải thích cho chính mình hoặc bất kỳ ai như thể tất cả hiển nhiên với mọi người. Đó là bước khởi đầu; bước tiếp theo [d] đi từ giả thiết qua chứng minh tiệm tiến họ tới kết luận đã định dựa trên cái họ bỏ công tìm hiểu.’

‘Thưa, điều đó tiện nhân hiểu.’

‘Quý hữu cũng biết trong khi bàn luận họ sử dụng hình hữu hình, nhưng họ không thực sự nghĩ tới hình hữu hình, mà nghĩ tới nguyên bản hình hữu hình giống hệt. Họ không tranh luận về hình vuông, đường chéo trong hình vuông họ vẽ, mà tranh luận về bản thân hình vuông hay bản thân đường chéo, [e] hoặc bất kể hình thế nào. Hình thực sự họ vẽ hoặc mô phỏng, rọi bóng và phản chiếu trên mặt nước, tất cả họ chỉ coi như hình ảnh, đối tượng thực sự để họ tìm hiểu bị lu mờ, trừ với con mắt của lý trí.’

‘Đúng thế.’ [511a]

‘Loại sự vật này bản nhân gọi là lý tính, song theo bản nhân tâm trí phải sử dụng giả thiết để tìm hiểu, không nhảy vụt tới nguyên lý đầu tiên, vì không thể rời bỏ và vượt qua giả thiết, mà sử dụng sự vật đó như hình ảnh, sự vật đó lại có hình ảnh (C) và bóng mờ ở mức độ thấp hơn (D), so với hình ảnh của mô hình được coi là trong sáng và giá trị.’

‘Tiện nhân [b] hiểu tiên sinh muốn nói sự thể diễn ra trong hình học và khoa học tương tự.’

‘Cũng nên hiểu khi nói tới phần khác của phần lý tính theo đường thẳng, trong quá trình lý luận, bản nhân muốn nói loại lý trí sử dụng khả năng biện chứng để nắm bắt; loại này không coi giả thiết như nguyên lý đầu tiên, mà như giả thiết theo nghĩa chính xác, nghĩa là, điểm bắt đầu và bước nhảy đi lên ngõ hầu đạt cái không liên hệ tới giả thiết và là nguyên lý đầu tiên của mọi sự vật hiện hữu. Tới nơi nắm bắt nguyên lý, giữ chặt hệ quả đi theo, loại này lại đi xuống kết luận. Toàn bộ phương thức không sử dụng bất kể cái gì trong thế giới hữu hình, song chỉ di chuyển [c] từ hình trạng qua hình trạng, cuối cùng đến hình trạng trong chính nó, do chính nó.’

‘Tiện nhân hiểu, song không đầy đủ, vì cái tiên sinh miêu tả nghe như việc làm khủng khiếp. Tiên sinh muốn phân biệt phần (A) của thực tại và lý tính (A+B), khoa biện chứng nghiên cứu là rõ ràng hơn phần (B) nghiên cứu bởi cái người ta mệnh danh lãnh vực kiến thức. Lãnh vực vừa kể coi giả thiết như nguyên lý đầu tiên, muốn tiến tới quan sát, chiêm nghiệm đề tài, người nghiền ngẫm buộc phải tiến tới bằng lý luận, không bằng nhận thức giác quan, [d] vì khi nghiên cứu họ không trở lại nguyên lý đầu tiên mà tiến hành từ giả thiết, cho nên tiên sinh nghĩ họ không am tường đề tài, mặc dù đề tài có thể hiểu nếu tiếp cận từ nguyên lý đầu tiên. Tiện nhân thấy hình như tiên sinh gọi sinh hoạt tâm trí của nhà hình học và người thực tập lãnh vực kiến thức liên hệ là lý luận, không phải hiểu biết, hàm ý lý luận là cái ở giữa quan niệm (C+D) và hiểu biết (A).’

‘Quý hữu bám sát, nắm vững vấn đề. Bây giờ xin nối bốn trạng thái tâm linh tương ứng với bốn phần trên đường thẳng. Phần thứ nhất là nhận thức, [e] phần thứ hai là lý luận, phần thứ ba là quan niệm, phần cuối cùng là tưởng tượng. Sau đó quý hữu xếp loại tùy theo tỉ lệ, song nhớ về mức độ càng gần sự thật đề tài của trạng thái tâm linh càng rõ rệt.’

‘Tiện nhân hiểu và tán đồng sắp xếp tiên sinh đề nghị.’

PHẦN VII

(514a-541b)

Phần bảy bắt đầu với hình ảnh khó quên, chuyện ngụ ngôn kể tù nhân trong hang động sống với hình bóng mờ mờ chẳng khác cuộc đời người bình thường trên mặt đất, cực nhọc ngoi lên nhìn ánh sáng mặt trời, làm vậy là muốn hiểu biết, vươn tới triết lý để hiểu cuộc đời. Socrates nghiên cứu, giải thích toàn bộ bức tranh. Sau đó ông quay sang giáo dục dành cho triết gia cầm quyền. Ông nhận định, giáo dục không phải chỉ nhồi nhét hiểu biết vào đầu óc, mà là dẫn dắt con mắt của tâm trí hướng về đối tượng chính đáng, thiếu nhi phải giáo dục như vui chơi, không gò ép, áp đặt.

Học cái gì? Socrates tìm câu trả lời trong toán học, số học, hình học, phép đo lập thể, nghiên cứu thiên văn (luật chuyển động) và hòa âm (luật âm thanh). Tiếp theo ông sắp xếp thời biểu. Ông nhấn mạnh sau năm năm học biện chứng pháp, tới tuổi ba mươi lăm, triết gia phải trở về hang động, nghĩa là tham dự chính trị thực sự, mười lăm năm nhằm thu lượm kinh nghiệm cần thiết cho người cầm quyền. Sau năm mươi, khi giáo dục đã hoàn tất, triết gia trở lại nắm quyền cai trị thành quốc. Theo ông không nên để triết gia theo học biện chứng pháp quá sớm lúc còn quá trẻ kẻo họ sẽ sử dụng như ngón nghề cãi vã bừa bãi khiến nhiều người mất cảm tình. Không để trẻ trên mười tuổi ở trong thành phố mà đưa về miền quê tránh ảnh hưởng của cha mẹ do lối sống hiện thời có vẻ là đường lối quyết liệt nhằm thiết lập cơ chế mới, song nhằm nhấn mạnh quan điểm của Plato về giáo dục muốn có hiệu quả phải bắt đầu sớm. Socrates cũng lưu ý người nghe điều ông nói cũng áp dụng cho phụ nữ. Điều đó đọc lên nghe như thể Plato nhắc nhở chính mình!

Hình ảnh cuối cùng, chuyện ngụ ngôn về hang động, là hình ảnh dài nhất, hay nhất trong ba hình ảnh. Giới thiệu hơi đột ngột, song hình ảnh nhằm tạo hài hòa với hai hình ảnh đã kể (517b-c, 532a-d). Chi tiết về hài hòa khiến người sau tranh cãi, mặc dù đường nét tổng quát không lu mờ. Cũng như biết bao hình ảnh vĩ đại trong văn chương thế giới, Hang Động của Plato biểu lộ cùng lúc nét vẻ trong sáng, phúng dụ, song phong phú và kỳ lạ vô cùng. Độc giả từng nghĩ triết lý là môn học khô khan, cuộc theo đuổi chán ngắt sẽ ngạc nhiên khi đọc phần này trình bày cuộc giải phóng con người khỏi cảnh nô lệ tởm lợm. Trái lại, đối với Plato và người cùng hội cùng thuyền với ông, triết học là lối sống, không chỉ là môn học.

Hang Động, hình ảnh ẩn dụ, miêu tả sự thật theo cách biểu họa trình bày trong hình ảnh loại suy đường thẳng; hình ảnh đặc biệt nói cho độc giả hay về hai trạng thái tâm lý mệnh danh trong đường thẳng là quan niệm và tưởng tượng. Độc giả chứng kiến tâm trí đi lên từ tưởng tượng tới triết lý thuần túy, và khó khăn đi theo khi tâm trí cất bước. Khi đã hoàn tất tầm nhìn tối thượng, triết gia trở về hang động phục vụ đồng loại, thái độ miễn cưỡng phải làm vậy chứng tỏ triết gia đã đạt phẩm chất.

***

‘Và sau đó bản nhân [514a] muốn quý hữu so sánh tác dụng của có giáo dục và thiếu giáo dục đối với thực trạng nhân sinh trong hoàn cảnh thế này. Tưởng tượng căn phòng dưới đất tựa hang động trong núi, phía cuối xa xa có lối vào dài rộng, lối đi vươn lên thông ra ánh sáng thế giới bên ngoài. Trong

phòng có người, họ là tù nhân ở đó từ khi còn là con nít; chân, cổ cột chặt, nên họ ở nguyên tại chỗ, chỉ nhìn thẳng phía trước, [b] vì dây thắt không thể quay đầu. Cách xa một quãng, phía sau và trên cao, có ngọn lửa bập bùng. Giữa ngọn lửa và tù nhân, trên mặt đất cao hơn, có con đường thoai thoải chạy ngang, dọc theo con đường có bức tường thâm thấp, như tấm phông trong buổi biểu diễn múa rối, giữa diễn viên và khán giả, trên đó bày la liệt con rối làm trò.’

‘Tiện nhân hiểu.’

‘Và tưởng tượng dọc bức tường nhiều người mang đủ thứ đồ nghề đi thành hàng. Đồ nghề, tượng hình người, hình súc vật đẽo gọt bằng gỗ, bằng đá, [c] bằng đủ thứ vật liệu rọi chiếu đậm nét trên đó; [515a] và quý hữu có thể hình dung trong khi ôm đồ nghề bước đi có người chuyện trò, có người im lặng.’

‘Tiên sinh vẽ bức tranh kỳ lạ và kể chuyện tù nhân lạ kỳ.’

‘Giống hệt ngô bối họ đều rút ra từ cuộc đời. Vì trước tiên xin cho biết quý hữu có nghĩ số tù nhân đó nhìn thấy chính họ hoặc đồng bạn không, trừ bóng mờ do ánh lửa hắt lên bức tường phía đối diện?’

‘Làm sao họ nhìn thấy gì nếu bị ngăn chặn không cho cử động mái đầu suốt cuộc đời?’ [b]

‘Họ có nhìn thấy vật dụng mang theo dọc con đường không hở? Hay sự thể cũng như họ?’

‘Dĩ nhiên không.’

‘Nếu có thể chuyện trò với nhau quý hữu có nghĩ họ coi bóng mờ họ nhìn thấy là vật thực không hả?’ ‘Chắc vậy, họ không thể nghĩ khác.’

‘Nếu bức tường đối diện dội lại âm thanh thì sao? Khi một trong số người đang cất bước ngẫu nhiên thốt tiếng, quý hữu có nghĩ họ tin đó là tiếng nói của bóng mờ triển diễn trước mặt hay không?’

‘Chắc họ nghĩ thế.’

‘Xét cho cùng [c] trong hoàn cảnh đó họ sẽ tin bóng mờ đồ nghề rọi lên hoàn toàn là thực.’ ‘Vâng, đương nhiên vậy.’

‘Bây giờ để ý, theo quý hữu, nếu họ không còn bị trói buộc, nếu họ không còn ngớ ngẩn, sự thể sẽ thế nào? Giả dụ một người trong bọn được tự do, bỗng dưng đứng phắt dậy, quay đầu, nhìn thẳng, bước về phía ngọn lửa. Mọi cử động sẽ khiến thân đau, mắt lóa [d] để nhìn cho chính xác các vật người đó thường nhìn bóng mờ các vật hắt lên. Quý hữu nghĩ người đó sẽ nói thế nào nếu có người cho hay những gì người đó thường thấy trước đó đều không thực, bây giờ càng gần thực tại, người đó nhìn càng chính xác, vì sự vật hiện hữu đầy đủ ngay phía trước. Nếu có người chỉ mỗi vật diễn qua, hỏi vật ấy là gì, yêu cầu người đó trả lời, quý hữu có nghĩ do ngỡ ngàng người đó nghĩ những gì nhìn trước đây thực hơn các vật chỉ cho biết lúc này không hở?’

‘Vâng, thực hơn.’

‘Nếu [e] có người bảo người đó nhìn thẳng ngọn lửa, mắt người đó sẽ chói, người đó sẽ bỏ chạy quay lại các vật có thể nhìn đúng đắn, đồng thời nghĩ các vật này thực ra rõ ràng hơn các vật có người chỉ cho người đó thấy.’

‘Vâng.’

‘Nếu bị ép buộc kéo đi ngược lên lối mòn lởm chởm, dốc thẳm tới khi thấy ánh sáng mặt trời mới được buông ra, [516a] tiến trình gian nan, cực nhọc, người đó vùng vằng, chống đối quyết liệt. Khi ngoi ra ánh sáng, mắt sẽ lóa vì tia nắng chói chang, người đó sẽ không thể nhìn dù một vật trong số các vật lúc này có người cho hay là thực.’

‘Mới đầu ngay tức khắc chắc là không thể.’

‘Dĩ nhiên, bởi người đó cần thời gian làm quen với ánh sáng trước khi có thể nhìn sự vật trong thế giới trên cao bên ngoài hang động. Trước tiên người đó thấy nhìn bóng mờ dễ dàng hết sức, tiếp đến hình chiếu bóng người và vật thể trên mặt nước, sau đó chính các vật thể. Cuối cùng người đó sẽ thấy quan sát thiên thể và bầu trời ban đêm, nhìn ánh trăng [b] ánh sao dễ dàng hơn mặt trời và ánh sáng ban ngày.’

‘Dĩ nhiên.’

‘Cuối cùng người đó sẽ nhìn thẳng mặt trời, ngắm mặt trời, không phải hình ảnh mặt trời phản chiếu trên mặt nước hoặc nơi nào khác, mà chính mặt trời tại chỗ của mặt trời.’

‘Vâng, tất nhiên cuối cùng người đó sẽ làm thế.’

‘Sau đó người đó sẽ đi tới kết luận mặt trời là nguồn gốc sinh ra mùa xoay vần, năm thay đổi, kiểm soát mọi thứ trong thế giới hữu hình, và theo cách hiểu nào đấy là [c] nguyên nhân liên quan trực tiếp đến đủ thứ người đó và bạn tù thường nhìn từ trước tới giờ.’

‘Đương nhiên người đó sẽ đi tới kết luận như thế.’

‘Khi người đó nhớ lại nơi ở đầu tiên, bạn tù lúc đó và hiểu biết ở đó, quý hữu có nghĩ người đó cảm thấy sung sướng, bản thân may mắn, vì hoàn cảnh thay đổi, cùng lúc thương hại bạn tù không hở?’

‘Nhất định rồi.’

‘Nếu lúc đó ở phía dưới có người lên tiếng khen ngợi, đề cao, tán dương phần thưởng và vinh dự dành cho người tinh mắt nhận ra bóng mờ triển diễn rõ ràng trước mặt, nhớ rành mạch bóng nào thường tới trước, bóng nào thường tới sau, bóng nào thường tới cùng lúc, [d] do đó có thể tiên đoán chính xác cái gì sẽ tới trong tương lai, theo quý hữu, người đó có sẽ tị nạnh phần thưởng và tỏ ra đố kỵ số người được đề cao và trao phó quyền hành trong số tù nhân không? Hay trái lại người đó cảm thấy, như Homer diễn tả, hết sức ước ao “làm lụng như nông nô cày sâu cuốc bẫm cho nông dân nghèo khó không thước đất cắm dùi,” kinh qua đủ thứ đau khổ trên trần gian còn hơn chia sẻ quan niệm và sống cuộc đời như họ?’

‘Thưa,[e] tiện nhân nghĩ người đó sẵn sàng chịu đựng đủ thứ còn hơn sống cuộc đời như thế.’

‘Suy ngẫm điều này nữa rồi cho biết tôn ý. Nếu người đó lại xuống hang động, ngồi vào chỗ cũ, vừa bất thình lình rời ánh sáng, mắt người đó không bị hư hại vì bóng tối hả?’

‘Chắc hẳn bị khủng khiếp chứ.’

‘Nếu phải phân biệt, xác định bóng mờ, lại phải lời qua tiếng lại tranh cãi với người vẫn là tù nhân, trong khi thị giác vẫn lờ mờ, [517a] con mắt chưa trở lại bình thường với bóng tối, quá trình thích nghi cần thời gian, liệu người đó có tự biến mình thành trò cười không hở? Liệu tù nhân khác có sẽ nói vì người đó lên thăm thế giới trên cao rồi trở về nên mắt bị hỏng, lên cao như thế chẳng bõ công chút nào không? Và nếu có người định thả họ ra, dẫn họ đi lên, nếu tóm được người đó, liệu họ có giết chết tức thì không hở?’

‘Họ làm thế thật.’

‘Ờ, Glaucon quý mến ơi, hình ảnh này nhìn chung phải liên hệ [b] khăng khít với cái ngô bối nói trước đây. Không gian thị giác phát hiện tương xứng với nhà tù, ánh lửa trong nhà tù tương xứng với năng lực mặt trời. Nếu diễn giải việc đi lên thế giới trên cao, việc ngắm nhìn sự vật ở đó như việc tâm trí ra đi vào thế giới lý tính, quý hữu sẽ nắm gọn điều bản nhân định nói, ít nhất, bản nhân nghĩ quý hữu không lầm. Bản nhân diễn giải đại loại như vậy, vì đó là điều quý hữu hăm hở muốn nghe. Sự thể đúng hay sai chỉ có thần linh mới biết. Tuy thế, theo bản nhân, đó là hình ảnh cuối cùng phải chiêm ngưỡng, khó khăn mới chiêm ngưỡng nổi, [c] trong thế giới lý tính hình trạng chân thiện; một khi nhìn thấy hình ảnh đó con người sẽ suy luận đấy là nguồn cội cái phải lẽ, cái giá trị trong mọi sự vật, bất kể tình huống thế nào, đã sản sinh trong thế giới hữu hình cả ánh sáng lẫn nguồn ánh sáng, trong khi ở thế giới lý tính chính hình ảnh đó kiểm soát sự thật, hiểu biết. Và bản nhân cũng nghĩ nhìn thấy hình ảnh đó là điều kiện tiên quyết con người cần có để cư xử hợp lý ở nơi công cộng hay chốn riêng tư.’

‘Tiện nhân đồng ý với tiên sinh vì hiểu phần nào.’

‘Vậy có lẽ quý hữu cũng đồng ý với bản nhân điểm này và không lấy làm ngạc nhiên nếu người đã tới điểm đó đều không muốn dấn thân vào việc trần thế, trái lại tâm trí hăm hở đi lên sống ở trên cao. Dù sao sự thể cũng không ngạc nhiên mà rất ư tự nhiên nếu [d] quả thật ở đó sự vật cũng diễn ra đúng như hình ảnh ngô bối vừa miêu tả.’

‘Chắc vậy quá.’

‘Quý hữu sẽ nghĩ chẳng có gì kỳ lạ người nào đó sau khi chiêm ngưỡng cuộc đời siêu việt đi xuống cuộc đời trần thế, chứng kiến mọi thói hư tật xấu của cuộc đời cư xử vụng về, tỏ ra hết sức luống cuống, nực cười, nếu trong khi vẫn còn lóa mắt, chưa làm quen với bóng tối bao quanh, nếu bị ép buộc ra tòa hoặc đâu đó tranh biện về bóng mờ của công bình chính trực hoặc hình thù chỉ là bóng mờ, bị đẩy vào vòng tranh luận về khái niệm bóng mờ, [e] người chưa hề nhìn thấy công bình chính trực chủ trương phải không?’

‘Thưa, chuyện đó chẳng có gì kỳ lạ.’

‘Nhưng [518a] người hiểu biết sẽ nhớ mắt có thể không nhìn thấy theo hai cách khác nhau, do nguyên nhân từ hai trạng huống khác nhau, chuyển dịch từ ánh sáng vào bóng tối hoặc từ bóng tối ra ánh sáng.

Nếu chấp nhận sự kiện người đó cũng nhận ra sự thể tương tự có thể áp dụng cho tâm trí. Vì thế khi thấy tâm trí ai đó ở tình trạng hỗn loạn, không thể nhận định sự việc rõ ràng, người đó sẽ không cười mà không suy nghĩ. Thay vì thế người đó sẽ tự hỏi phải chăng tâm trí người này vừa từ lối sống liên hệ tới thế giới sáng sủa đi vào nên bị lóa mắt vì bóng tối không quen thuộc, hay phải chăng đi từ chỗ tương đối tối tăm sang chỗ tương đối sáng sủa do ánh sáng mãnh liệt bị quáng lóa nên không nhìn thấy gì. Khi đã phân biệt hai trạng huống và hai lối sống, người đó sẽ khen ngợi bất kể ai [b] người đó thấy ở trạng huống thứ hai,thương hại bất kỳ ai ở trạng huống thứ nhất. Nếu người đó định tâm cười người nào ở trạng thái thứ hai, giải trí như vậy trong trường hợp này không phi lý bằng cất tiếng cười nhằm người từ ánh sáng trên cao trở về.’

‘Tiên sinh trình bày chí ư hợp lý.’

‘Nếu điều đó đúng, ngô bối phải bác bỏ quan niệm giáo dục có người chủ trương, họ nói tâm trí không có hiểu biết, họ có thể đưa hiểu biết vào tâm trí [c] làm như họ có thể đem thị giác vào cặp mắt bị mù.’

‘Thưa, họ khẳng định như thế thật.’

‘Trái lại tranh luận hiện tại cho thấy khả năng học hỏi tồn tại tự nhiên trong tâm trí mọi người, bộ phận cơ thể con người sử dụng để học hỏi giống con mắt không thể quay từ bóng tối sang ánh sáng nếu toàn bộ cơ thể không xoay; vì thế tâm trí phải xoay toàn bộ từ thế giới biến dịch tới lúc tâm trí có thể nhìn thẳng thực tại, [d] chói lọi hơn hết trong mọi thực tại, ngô bối gọi là chân thiện, phải

thế không?’ ‘Thưa, phải.’

‘Giáo dục là nghệ thuật thực hiện việc làm vừa kể, nghệ thuật chuyển đổi. Giáo dục phải trù tính phương pháp làm thế nào tâm trí có thể xoay quanh hết sức dễ dàng và hữu hiệu. Giáo dục không phải nghệ thuật đưa thị giác vào tâm trí, mà phải tiến hành từ ý thức tâm trí đã sở đắc khả năng đó, song xoay không đúng cách hoặc nhìn không đúng chỗ. Đó là việc giáo dục phải giải quyết.’

‘Chắc vậy quá.’

‘Cho nên phần còn lại của cái thường gọi là phẩm chất của tâm trí [e] có lẽ giống phẩm chất của thể xác, ở chỗ phẩm chất đó thực ra không bẩm sinh, mà được cấy trồng do huấn luyện, thực tập về sau. Dẫu thế, chắc hẳn dường như có phẩm chất thiêng liêng, hiểu biết không bao giờ mất khả năng của nó, [519a] trái lại tác dụng hữu dụng và bổ ích, hoặc vô dụng và vô ích theo hướng tâm trí xoay tới. Quý hữu đã bao giờ để ý ánh mắt sắc sảo, cách nhìn ma lanh của loại người thường gọi là xấu xa, song khéo léo chưa? Tâm trí nhỏ mọn, nhưng thị giác bén nhạy, xuyên suốt nhìn thẳng vấn đề liên quan tới họ; thị giác của họ thực ra không yếu, song họ bị ép buộc phải phục vụ mục đích xấu xa, bởi thế thị giác càng sắc sảo, xấu xa càng xác thực.’

‘Thưa, tiện nhân có nhận thấy điều đó.’

‘Trái lại giả dụ nếu tâm trí loại này được uốn nắn, xén tỉa ngay từ lúc còn thơ ấu, [b] phát triển dị hợm, bất thường thuộc về thế giới trần thế bứt bỏ, tiệc tùng, ăn uống lu bù, khoái lạc tương tự, tất cả

như cục chì nặng trĩu lôi kéo tâm trí nhìn xuống... và giả dụ nếu, bản nhân nhắc lại, thoát khỏi ràng buộc vừa kể, tâm trí quay nhìn sự vật thực sự, lúc đó vẫn tâm trí đó của vẫn người đó cũng sẽ nhìn sự vật rõ ràng, như nhìn sự vật tâm trí quay nhìn bây giờ.’

‘Vâng, chắc vậy.’

‘Hơn thế, phải chăng không phải hay quả thực chỉ là hậu quả tất nhiên đối với nhận xét ngô bối đưa ra trước đây: người vô học không có kinh nghiệm về sự thật chẳng bao giờ có thể cai quản thành quốc đích đáng, [c] người được phép bỏ cả cuộc đời theo đuổi trí thức thuần túy liên tục đến cùng cũng vậy? Người thứ nhất sẽ thất bại vì không có mục đích duy nhất để theo đuổi khi làm việc công cũng như tư. Người thứ hai sẽ thất bại vì không hành động cụ thể, trong khi còn tại thế, tưởng tượng đã lẻn ra ngoài thế giới tới định cư ở đảo thần tiên.’

‘Thưa, đúng thế.’

‘Do vậy với tư cách người làm luật, nhiệm vụ của ngô bối là ép buộc tâm trí tuyệt hảo [d] vươn tới cái ngô bối mệnh danh hình thức cao nhất của hiểu biết, đi lên để nhìn thấy chân thiện như ngô bối miêu tả. Khi tâm trí đã hoàn tất hành trình, nhìn thấy chân thiện đầy đủ, ngô bối không nên để họ xử sự như họ được phép xử sự bây giờ.’

‘Tiên sinh muốn nói gì vậy?’

‘Ở lại thế giới trên cao, không muốn trở lại hang động phía dưới, chia sẻ cùng tù nhân nhọc nhằn cũng như vui thú, bất kể tầm thường hay cao cả.’

‘Nhưng như vậy không công bình chút nào. Ngô bối bắt họ sống cuộc đời khổ sở hơn cuộc đời sung sướng họ mong đợi.’

‘Quý hữu ơi, quý hữu lại quên mục đích của việc soạn thảo luật lệ [e] không nhằm đem sung sướng đặc biệt cho thành phần đặc biệt nào trong xã hội, mà mang sung sướng cho toàn thể xã hội. Nhà làm luật sẽ sử dụng thuyết phục hoặc ép buộc [520a] quần chúng đoàn kết, giáo dục họ chung hưởng lợi ích mỗi cá nhân cống hiến cho cộng đồng, cùng lúc nuôi dưỡng thái độ không để bất cứ ai thỏa mãn bản thân, muốn xoay hướng nào tùy ý, mà làm mỗi người là mắt xích kết nối, ràng buộc tất cả.’

‘Tiên sinh nói phải, tiện nhân quả thực quên mất.’

‘Vậy Glaucon ơi, quý hữu sẽ thấy ngô bối không bất công với triết gia xuất hiện trong thành quốc mà sẽ nói chuyện hoàn toàn công bình khi yêu cầu họ phải chăm lo và có trách nhiệm với người khác. Ngô bối [b] sẽ nói với họ người trở thành triết gia chào đời ở thành quốc khác có lý khi từ chối không tham dự chính sự phiền hà, nhọc nhằn. Bởi sản sinh ra họ xã hội hoàn toàn không chủ tâm, không cố ý. Vì thế và chỉ vì thế cái tự phát tự sinh sẽ cảm thấy không phải đền trả công lao nuôi dưỡng và không nợ nần ai hết. Nhưng ngô bối sẽ nói: “Quý vị không phải vậy. Ngô bối nuôi dưỡng quý vị vì quý vị và vì thành quốc để hành xử như lãnh tụ và quân vương trong quần chúng như ong chúa trong tổ ong; quý vị được giáo dục tốt đẹp, chu đáo hơn người khác, trang bị phẩm chất giá trị để đủ khả năng tham dự như người hành động và người suy tư phối hợp triết lý với chính trị áp dụng cả hai vào cuộc đời. [c] Do đó quý vị phải từng người lần lượt đi xuống sống với đồng bạn trong hang động, làm quen nhìn trong

bóng tối. Làm quen xong quý vị sẽ nhìn tốt hơn họ sống mãi mãi ở dưới đó cả ngàn lần; quý vị sẽ nhận ra bóng mờ khác nhau là thế nào, quý vị sẽ biết bóng mờ đó của hình ảnh nào, vì quý vị đã nhìn sự thật về cái chân, cái thiện, cái mỹ. Bởi thế quý vị và ngô bối sẽ thấy cuộc đời trong thành quốc thực sự thức tỉnh, chứ không mơ màng, như ở đa số thành quốc hiện hữu, sống trong đó con người giao chiến với nhau về bóng mờ, giành giật với nhau về quyền hành chính trị [d] làm như đó là phần thưởng lớn lao. Sự thật hoàn toàn khác hẳn, và sự thật thế này. Ở thành quốc người cầm quyền tương lai đón nhận nhiệm vụ không mấy hăm hở, chính quyền sẽ vô cùng tốt đẹp, xã hội rất ư ổn định, trong khi ở thành quốc người cầm quyền đón nhận nhiệm vụ hết sức hăng say, chính quyền sẽ vô cùng tồi tệ.”’

‘Chắc chắn vậy, tiện nhân hoàn toàn đồng ý.’

‘Quý hữu có nghĩ khi nghe ngô bối nói thế người ngô bối nuôi dưỡng sẽ nghi ngờ không đồng ý, sẽ từ chối không tham gia việc cai trị nặng nhọc, từng người luân phiên điều khiển thành quốc, trong khi vẫn sống với nhau phần lớn thời gian trong vùng đất thanh khiết, không khí trong lành không?’

‘Không, họ không thể từ chối. Vì ngô bối chỉ đưa ra yêu cầu công bình với người công bình. [e] Hiển nhiên, khác người cầm quyền hiện thời ở các thành quốc ngày nay, họ sẽ tiến tới việc cầm quyền như nhiệm vụ cần thiết, không thể trốn tránh, như đòi hỏi tất yếu không thể miễn trừ.’

‘Đúng thế, quý hữu. Sự thật là nếu muốn có thành quốc cai trị tốt đẹp xuất hiện, quý hữu phải tìm cho người cầm quyền tương lai cuộc đời tốt đẹp hơn việc cầm quyền. Vì chỉ khi đó [521a] và chỉ ở đó thôi, quý hữu mới có chính quyền do người giàu có thực sự điều khiển, nghĩa là, giàu có không phải về vàng bạc, mà giàu có về khả năng đem lại hạnh phúc, sung sướng, thảnh thơi cho cuộc đời và con người. Trái lại, trong việc trị nước, nếu quý hữu để bọn nghèo đói, thèm khát lợi ích riêng tư cầm quyền, tưởng tượng vị thế ưu tiên, thầm nhủ quyền bính vô hạn, họ sẽ vồ chộp, vơ vét của cải con người thèm muốn, quý hữu sẽ không có thành quốc cai trị tốt đẹp hiện hữu. Khi quyền hành trở thành đối tượng cần giành giật, đó là chiến tranh, đó là nội chiến, chiến tranh trong gia đình, họ tìm cách giếtlẫn nhau, mâu thuẫn nội tại hủy hoại cả họ lẫn xứ sở.’

‘Thưa, đúng quá!’

‘Theo quý hữu có cuộc đời nào ngoài cuộc đời triết lý chân thực [b] coi nhẹ địa vị, xem thường quyền hành chính trị mang lại không hở?’

‘Không, trời ơi, thưa không, tiện nhân không thấy.’

‘Điều ngô bối cần là người cầm quyền phải là người không mê quyền hành. Nếu không ngô bối sẽ có địch thủ tranh giành, đánh lộn vì ham quyền hành.’

‘Chắc vậy.’

‘Vậy người nào quý hữu sẽ yêu cầu đảm đương trọng trách bảo vệ thành quốc nếu không phải người ngoài am tường nguyên tắc cai trị khôn khéo, sở đắc uy thế khác uy thế chính trị, vui hưởng cuộc đời tốt đẹp hơn cuộc đời chính trị?’

‘Quả thực không có người nào.’

‘Vậy [c] quý hữu có muốn ngô bối tìm hiểu người loại này đào tạo như thế nào, dẫn lên nhìn ánh sáng ra sao, như người trong chuyện nhỏm dậy bay từ âm phủ lên thiên đình gia nhập hàng ngũ thần linh không?’

‘Làm sao không, thưa, tiện nhân rất muốn.’

‘Sự thể không phải việc ngô bối có thể giải quyết như tung mảnh sứ sấp ngửa, mà là chuyển đổi tâm trí từ ngày tối như đêm sang ngày sáng thật sự, leo lên đi vào thực tại ngô bối sẽ khẳng định là triết lý chân thực, theo đuổi hiểu biết thực sự.’

‘Vâng, dĩ nhiên.’

‘Do vậy ngô bối phải cố gắng tìm cho ra loại môn học có khả năng tạo tác dụng như thế.’ [d] ‘Nhất định.’

‘Ờ, vậy thì, Glaucon ơi, môn học nào là môn học lôi kéo tâm trí con người từ thế giới biến dịch đưa sang thế giới thực tại? Ô, khi nói câu này bản nhân sực nhớ ngô bối nói người cầm quyền lúc trẻ phải huấn luyện là quán quân trong chiến tranh, phải không?’

‘Vâng, ngô bối nói thế.’

‘Vậy môn học ngô bối tìm kiếm cũng phải có đặc tính này ngoài đặc tính khác, không vô dụng đối với chiến tranh.’

‘Tiên sinh muốn nói thế nào?’

‘Phải có giá trị đối với chiến binh.’

‘Vâng, nhất định phải, nếu có thể.’

‘Ừ, ngô bối đã sắp xếp huấn luyện họ về thể dục, văn chương và âm nhạc.’ [e]

‘Đúng thế.’

‘Trong hai môn, huấn luyện thể dục liên hệ tới thực trạng biến dịch và băng hoại, vì môn này trông coi tình trạng tăng trưởng và suy tàn của thân thể.’

‘Vâng, rõ ràng.’

‘Vậy sẽ không là môn học ngô bối tìm kiếm.’ [522a]

‘Không.’

‘Thế vấn đề giáo dục văn chương và âm nhạc ngô bối miêu tả trước đây thì sao?’

‘Nhưng nếu tiên sinh còn nhớ, cả hai bổ sung huấn luyện thể dục. Cả hai huấn luyện vệ quốc để có thói

quen, sử dụng âm nhạc cùng nhịp điệu để sản sinh hài hòa nội tâm, quân bình tính tình, không sản sinh hiểu biết. Liên hệ với thể dục là thói quen khác, gần gũi thói quen này, phô diễn trong văn chương, hư cấu hay hiện thực, nên có tác dụng tương tự. Tuy thế người ta không thấy trong đó có cái gì có thể dẫn dắt người học hỏi tới mục đích tiên sinh đang tìm kiếm lúc này.’

‘Trí nhớ chính xác, [b] nhờ thế bản nhân nhớ lại! Đúng rồi, ngô bối sẽ không tìm cái ngô bối muốn tìm ở đó. Nhưng, trời đất ơi, ngô bối tìm cái đó ở đâu, hở Glaucon quỷ quái? Vì mọi khả năng kỹ thuật, tay nghề thực tiễn đều có vẻ quá tầm thường.’

‘Chắc vậy. Nhưng nếu ngô bối gạt bỏ cả hai, cũng như thể dục và văn hóa, thử hỏi còn cái gì?’

‘À, nếu không thể nghĩ ra cái gì ngoài mấy môn vừa kể, ngô bối phải tìm đặc trưng nào đó tất cả đều chia sẻ.’

‘Tiên sinh muốn nói thế nào?’

‘Chẳng hạn, [c] có một cái mọi ngành nghề, công nghệ, trí thức hay khoa học đều sử dụng, một trong những cái đầu tiên tất cả ngô bối cần phải học.’

‘Tiên sinh muốn nói cái gì?’

‘Cái hoàn toàn tầm thường để phân biệt giữa một, hai, ba. Tóm lại, bản nhân muốn nói con số và cách tính. Có đúng mọi khoa học, mọi kiến thức, mọi nghệ thuật đều phải làm vậy không hở?’

‘Thưa, đúng, tất cả đều phải.’

‘Cả chiến tranh nữa và bất kể hoạt động nào?’ ‘Không sao tránh khỏi.’

‘Bản nhân [d] tự hỏi không biết quý hữu có nhận ra Agamemnon là vị tướng tức cười hết sức hay không. Quý hữu không để ý ư mỗilần xuất hiện trong bi kịch Palamedes lại khẳng định vì đã phát minh ra con số anh ta dàn quân vây hãm thành Troa, kiểm tra chiến thuyền cùng mọi thứ đem theo? Sự thể hàm ý trước đó chưa ai đếm, Agamemnon dường như không biết ông có bao nhiêu chân, vì quả thực không biết đếm. Nếu sự thật là vậy quý hữu nghĩ ông ta là loại tướng thế nào?’

‘Hết sức kỳ cục, theo tiện nhân, nếu quả thực là thế.’

‘Vậy [e] ngô bối có sẽ đòi hỏi người lính phải biết tính và đếm cùng nhiều việc khác không?’

‘Vâng, dĩ nhiên, cần thiết hơn hết, nếu người lính muốn hiểu tổ chức đội quân, nhất là theo tiện nhân, nếu muốn trở thành con người.’

‘Có ý kiến về môn học, song bản nhân không biết [523a] quý hữu có đồng ý với bản nhân không?’ ‘Môn nào?’

‘Có vẻ như đó là môn học ngô bối đang tìm, dẫn đưa một cách tự nhiên đến hành động nhận thức. Nhưng hình như chưa ai sử dụng đúng cách khả năng hoàn bị của nó để lôi kéo con người hướng tới thực tại.’

‘Tiên sinh nói thế là thế nào?’

‘Bản nhân sẽ cố gắng giải thích quan điểm. Trong tâm trí bản nhân phân biệt sự vật có khả năng dẫn tới hoặc không dẫn tới cái ngô bối đang nói. Bản nhân sẽ cố gắng đưa quý hữu tới chỗ cũng nhận ra tình trạng khác biệt, rồi cho biết có đồng ý hay không, như vậy ngô bối mới có thể nhìn rõ hơn sự thể có đúng như bản nhân linh cảm không.’

‘Xin giải thích.’

‘Vâng, đồng ý. Quý hữu biết có nhận thức không đòi hỏi vận dụng tư tưởng, vì [b] giác quan có thể nhận xét thích đáng, nhưng có nhận thức đòi hỏi vận dụng tư duy, vì giác quan không thể cung ứng kết quả khả tín.’

‘Chắc hẳn tiên sinh muốn nói sự vật xuất hiện từ xa hay sự vật vẽ theo phối cảnh.’ ‘Không, quý hữu chưa hiểu ý bản nhân.’

‘Vậy tiên sinh muốn nói thế nào?’

‘Nói nhận thức không đòi hỏi tư tưởng trợ giúp bản nhân muốn nói nhận thức không cùng lúc đem vào nhận thức trái ngược; [c] nhận thức đòi hỏi tư tưởng trợ giúp là nhận thức đưa vào giác quan như thế nên trong giác quan cảm giác trở nên mơ hồ giữa hai trái ngược, bất kể khoảng cách gần xa. Tuy nhiên, quý hữu sẽ hiểu rõ hơn nếu bản nhân nói thế này. Đây là, ngô bối nói, ba ngón tay, ngón út, ngón áp út, ngón giữa.’

‘Vâng, đúng thế.’

‘Tưởng tượng bản nhân nói về ba ngón tay như thể đang nhìn thật gần. Dẫu vậy còn điểm nữa bản nhân muốn quý hữu để ý.’

‘Điểm gì?’

‘Ờ, mỗi ngón trông đều là ngón tay, không có khác biệt nếu ở cuối hay ở giữa, [d] trắng hay đen, dầy hay mảnh. Chỗ này hầu như không có gì ép buộc tư tưởng người bình thường hỏi hoặc nghĩ thế nào là ngón tay, vì trong quá trình nhìn thị giác không hề cho tư tưởng hay ngón tay cũng là đối nghịch của ngón tay.’

‘Chắc chắn không.’

‘Bởi thế nhận thức loại này hiển nhiên không kêu gọi hoặc đánh thức tư tưởng.’ [e] ‘Chắc không.’

‘Nhưng kích thước ngón tay thì sao? Thị giác có thể phân biệt chính xác ngón tay to hay nhỏ không? Có cần phân biệt trong khi nhìn ngón nào ở giữa hay ở cuối không? Xúc giác có thể phân biệt độ dầy, độ mỏng, độ cứng, độ mềm không? Mọi giác quan có thực bất lực không thể nhận thức đặc tính như thế không? Giác quan có hoạt động như thế này không: [524a] xúc giác chẳng hạn quan tâm tới độ dầy cũng phải quan tâm tới độ mỏng, báo cáo cho tâm trí biết theo nhận thức của xúc giác vật đó vừa cứng vừa mềm. Đúng không?’

‘Thưa, đúng vậy.’

‘Trong trường hợp như thế tâm trí có thấy khó hiểu giác quan này nói cứng nghĩa là gì, nếu giác quan này nói vật đó cũng mềm không? Hoặc nhẹ và nặng nghĩa là gì, nếu giác quan liên hệ cho thấy cái tưởng nặng lại nhẹ và cái tưởng nhẹ lại nặng?’

‘Thưa, có, [b] vì chỉ dẫn như vậy khiến lúng túng tâm trí cần tìm hiểu.’

‘Bởi thế trong trường hợp này tâm trí triệu gọi lý luận và tư duy tìm cách điều tra mỗi sự vật báo cáo cho tâm trí hay là một hay hai.’

‘Dĩ nhiên.’

‘Nếu câu trả lời là hai, vậy mỗi cái có là thực thể riêng biệt không?’

‘Có.’

‘Nếu mỗi cái là thực thể riêng biệt, và hai cái là hai, tâm trí sẽ nhận thức hai thực thể riêng biệt; [c] vì nếu hai cái không tách biệt, tâm trí sẽ không nhận thức là hai, mà là một.’

‘Thưa, đúng thế.’

‘Nhưng trong ví dụ hiện thời ngô bối nói thị giác cũng nhận thức lớn và nhỏ không như phẩm chất riêng biệt, song hòa lẫn với nhau. Có phải thế không?’

‘Vâng, ngô bối nói vậy.’

‘Muốn làm sáng tỏ vấn đề tư duy buộc lòng phải áp dụng cách tiếp cận đối nghịch, nhìn lớn và nhỏ như phẩm chất khác biệt và riêng biệt, không hòa lẫn với nhau – tiến trình ngược với tiến trình thị giác.’

‘Thưa, đúng.’

‘Bởi thế mới có câu hỏi, bản chất lớn và nhỏ thực sự là gì?’

‘Vâng, đúng quá.’

‘Và vì thế ngô bối đi tới chỗ gọi cái là lý tính phân biệt với cái là hữu hình.’ ‘Chí lý quá chừng.’ [d]

‘Ơ, đúng rồi, đó là điều bản nhân muốn diễn tả trước đây khi nói có sự vật triệu gọi, có sự vật không triệu gọi tư duy. Sự vật ảnh hưởng giác quan theo đường lối trái ngược cùng thời gian bản nhân xác định là triệu gọi tư duy, trong khi sự vật không ảnh hưởng giác quan bản nhân miêu tả như không triệu gọi hành động nhận thức.’

‘Thưa, bây giờ am tường tiện nhân đồng ý với tiên sinh.’

‘Vậy theo quý hữu trong hai loại thì con số và đơn vị một thuộc loại nào?’ ‘Thưa, tiện nhân không biết.’

‘Ấy, căn cứ vào những gì ngô bối nói trước đây quý hữu lý luận tìm cho ra. Nếu nhận thức về đơn vị một của ngô bối, trong nó và chính nó, bằng thị giác hay bất kể giác quan nào, hoàn toàn không mơ hồ, trong trường hợp đó nhận thức không lôi kéo tâm trí [e] hướng tới thực tại như nhận thức của ngô bối về ngón tay đã làm. Trái lại, nếu luôn luôn phối hợp với nhận thức của cái đối nghịch, và hình như bao hàm cả đơn vị nhiều lẫn đơn vị một, trong trường hợp đó nhận thức kêu gọi vận dụng suy luận, thúc đẩy tâm trí phải tìm hiểu, tâm trí phải vùng vẫy suy nghĩ và gạn hỏi đơn vị một chính nó là gì; nếu sự thể là vậy, tìm hiểu đơn vị một là một trong số tìm hiểu dẫn tâm trí đi lên, [525a] đưa tâm trí hướng tới hình ảnh thực tại.’

‘Vâng, nhận thức về đơn vị một theo thị giác chắc chắn có đặc tính này tới mức độ đáng kể. Vì ngô bối nhìn cùng một vật cùng một lúc vừa như đơn vị một vừa như đơn vị nhiều bất tận.

‘Nếu đúng với đơn vị một, sự thể sẽ đúng với mọi con số nói chung.’ ‘Chắc vậy.’

‘Hơn thế, nghệ thuật đếm và tính hoàn toàn liên hệ tới con số.’

‘Dĩ nhiên.’

‘Do vậy [b] xem ra có vẻ như cả hai sẽ dẫn tâm trí hướng tới sự thật.’ ‘Vâng, nhằm mục đích đó cả hai hiệu lực vô cùng.’

‘Vậy cả hai sẽ nằm trong số môn học ngô bối đang dò tìm. Quân nhân phải nghiên cứu để có thể tổ chức hàng quân, triết gia về phần mình vì bổn phận phải học hỏi để có thể rời bỏ thế giới biến dịch đi vào tiếp xúc với thực tại, nếu không sẽ chẳng bao giờ có khả năng lý luận và tính toán.’

‘Đúng thế.’

‘Vệ quốc của ngô bối phải vừa là chiến binh vừa là triết gia.’ ‘Dĩ nhiên.’

‘Bởi thế, Glaucon ơi, môn này là môn thích hợp. Ngô bối lập pháp và thuyết phục người nắm địa vị quan trọng trong thành quốc theo học số học. [c] Ngô bối sẽ đòi hỏi họ đừng tiếp cận môn học một

cách tài tử, mà phải miệt mài theo đuổi chừng nào thấu hiểu mới thôi, bằng tư duy thuần túy, con mắt của tâm trí, chiêm nghiệm bản chất con số thực sự là gì. Họ không được theo đuổi môn này nhằm sử dụng vào dịch vụ thương mại, như thể họ là thương gia hoặc chủ tiệm, mà sử dụng vào mục đích chiến tranh và vươn tới thoải mái nhằm chuyển đổi tâm trí từ thế giới biến dịch sang thế giới thực tại và sự thật.’

‘Phát biểu tuyệt vời.’

‘Hơn thế, [d] vì đã nói tới học hỏi số học, bản nhân nhận thấy môn học quả thật là phương tiện ý nhị và ích dụng rộng lớn về nhiều mặt đối với mục đích của ngô bối, nếu học hỏi vì mục đích hiểu biết, không vì mục đích thương mại.’

‘Theo cách nào?’

‘Theo cách ngô bối vừa nói. Môn học cương quyết lôi kéo tâm trí đi lên, ép buộc tâm trí tranh luận về con số, nhất định không chấp nhận giới hạn tranh luận vào con số gắn liền với vật thể hữu hình hoặc hiển nhiên. Quý hữu biết [e] toán học gia tài ba xử sự ra sao? Nếu trong tranh luận có người bảo có thể chia đơn vị một, họ sẽ cười và không đồng ý. Nếu quý hữu chia đơn vị một thành phần nhỏ, họ sẽ nhân làm thế nào đơn vị một không bao giờ có vẻ là đơn vị mà như thừa số nhân lên.’

‘Thưa, đúng quá.’

‘Glaucon, quý hữu nghĩ họ sẽ trả lời thế nào [526a] nếu ngạc nhiên có người hỏi: “Sự thể kỳ lạ hết sức, con số quý vị bàn luận là gì, trong đó đơn vị một cấu thành, như quý vị quy định, tất cả đều bằng nhau, không mảy may khác biệt, không thể chia thành phần?”’

‘Tiện nhân nghĩ họ sẽ đáp họ đang bàn luận vấn đề chỉ có thể nắm bắt bằng lý luận, không thể đề cập theo bất kỳ cách nào.’

‘Quý hữu thấy môn học đối với ngô bối thực sự cần thiết chứ, [b] vì hiển nhiên ép buộc tâm trí sử dụng tư tưởng thuần túy nhằm đạt tới sự thật.’

‘Vâng, môn học chắc chắn có tác dụng như vậy.’

‘Hơn thế, quý hữu có để ý nhờ thiên phú người giỏi số học hầu như luôn luôn, như người ta nói, giỏi mọi môn, người kém số học, nếu được huấn luyện và thực tập thế nào cũng khá hơn, giỏi hơn trước kia phải không?’

‘Thưa, đúng thế.’ [c]

‘Dẫu vậy bản nhân nghĩ quý hữu sẽ không dễ dàng tìm thấy môn nào cần phải cố gắng nhiều hơn như khi nghiên cứu và thực tập môn này.’

‘Chắc chắn không.’

‘Vậy, vì lý do vừa kể, ngô bối phải duy trì, sử dụng môn này để huấn luyện công dân tuyệt hảo.’

‘Thưa, đồng ý.’

‘Vậy là giải quyết xong môn thứ nhất. Bước tiếp theo ngô bối cần xem môn thứ hai có thích hợp mục đích không.’

Môn gì vậy? Có phải tiên sinh định nói hình học không hở?’ ‘Đúng rồi!’

‘Môn này [d] hiển nhiên thích hợp mục đích của ngô bối, vì ích dụng trong chiến tranh. Dựng trại, chiếm lĩnh vị trí, tập trung quân lính, dàn trận trên phạm vi lớn nhỏ, hay trong mọi điều động quân sự trên chiến trường, lúc di hành, sự thể sẽ khác hẳn đối với người nếu hiểu hình học.’

‘Đúng, nhưng vì mục đích đó, hiểu biết sơ qua hình học,